- 1. Sự Giáng Trần Phúc Lợi
- 2. Cuộc Viếng Thăm Của Vị Đạo Sư Hiền Đức
- 3. Hoàng tử nhân đức
- 4. Cuộc Thi Chọn Phò Mã
- 5. Những Cung Ðiện Ðầy Thú Vui
- 6. Điệu Hát Quyến Rũ
- 7. Cảnh Tượng Bất Ngờ
- 8. Chuyến Du Ngoạn Lần Thứ Hai
- 9. Cảnh Tượng Sửng Sốt Cuối Cùng
- 10. Những Lạc Thú Chóng Tàn Phai
- 11. Buổi Thiền Quán An Lạc
- 12. Vua Tịnh Phạn Lo Lắng
- 13. Xuất Gia
- 14. Cuộc Tầm Ðạo Bắt Ðầu
- 15. Sáu Năm Tu Khổ Hạnh
- 16. Tín Nữ Cúng Dường
- 17. Cuộc Chiến Ðầu Vĩ Ðại
- 18. Giác Ngộ
- 19. Thuyết Pháp Cho Ai
- 20. Bài Pháp Ðầu Tiên
- 21. Nỗi Khổ Ðau Của Bà Mẹ
- 22. Con Người Thô Lỗ
- 23. Những Lời Tán Dương
- 24. Lòng Thương Yêu Loài Vật
- 25. Năng Lực Của Lòng Từ Bi
- 26. Trở Về
- 27. Nhà Vua Và Ông Thần Cây
- 28. Lòng Thương Bình Ðẳng Ðối Với Tất Cả
- 29. Những Ngày Cuối Cùng
- 30. Giáo Pháp Vẫn Còn Tồn Tại
- 31. Chú Thích Của Dịch Giả
THESTORY OF BUDDHA
NguyênTác: JOHNATHAN LANDAW - Người Dịch: HT. THÍCH TRÍ CHƠN
CHÚTHÍCH CỦA DỊCH GIẢ
Vềchữ viết tắt dùng dưới đây, P là Pali (tiếng Ba Lị); Slà Sanskrit (tiếng Phạn) và Jap. là Japanese (Nhật ngữ).
1.(HOÀNG HẬU) MA GIA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Màyà (BaLị và Phạn) hay Maka (Nhật). Mẹ của đức Phật và vợ của vua Tịnh Phạn (Ba Lị: Suddhodana). Bà sống ởnước Câu Ly (Ba Lị: Koliya) thời xưa, nay thuộc vương quốc Nepal. Bà còn có tên gọi là Ma Ha Ma Gia (Ba Lị: Mahà Màyà).
2.TỊNH PHẠN: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Suddhodana (Ba Lị);Suddhodana (tiếng Phạn) hay Jòbonnò (Nhật ngữ). Thân phụ củathái tử Tất Ðạt Ða (Phạn: Siddhàrta) và là tộc trưởngbộ tộc Thích Ca (Ba Lị: Sakiya). Ông là vua cai trị một nướcnhỏ ở dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalayas) có kinh đôđóng tại thành Ca Tỳ La Vệ (Ba Lị: Kapilavatthu), ngày naythuộc vương quốc Nepal.
3.LÂM TỲ NI: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Lumbini (Ba Lị vàPhạn). Tên một hoa viên nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni (BaLị: Buddha Shakyamuni) đã ra đời hơn 2.600 năm trước. Nó nằmgần kinh đô Ca Tỳ La Vệ của bộ tộc Thích Ca. Ngày nay LâmTỳ Ni (Lumbini) có tên gọi là Rummindei thuộc lãnh thổ xứNepal. Vua A Dục (Asoka) của Ấn Ðộ (273-232 trước tây lịch)đến viếng thăm nơi này khoảng vào năm 250 trước tây lịch.Ðức vua đã cho xây dựng một trụ đá tại đây để kỷniệm chuyến đi hành hương chiêm bái của Ngài. Lâm Tỳ Nilà một trong bốn thánh tích quan trọng nhất của Phật Giáo.Ba Phật tích kia là Phật Ðà Ca Da (Buddha Gaya), vườn LộcUyển (Sarnath) và Câu Thi Na (Kusinara).
4.TẤT ÐẠT ÐA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Siddhattha (BaLị), Siddhàrtha (Phạn) hay Shittta-Taishi (Nhật ngữ). Nghĩa đenlà “người đã hoàn thành mục tiêu đại nguyện của mình”.Tục danh của đức Phật trước khi Ngài xuất gia.
5.A TƯ ÐÀ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Asita (Ba Lị và Phạn)hay Ashida (Nhật). Vị đạo sĩ ẩn tu ở tiểu quốc Ca TỳLa Vệ thời xưa (nay thuộc xứ Nepal). Khi thái tử Tất ÐạtÐa giáng sinh ông đến thăm tiên đoán rằng sau này nếu tháitử ở đời sẽ là một đại vương và nếu xuất gia đitu ngài sẽ thành Phật.
6.ÐỀ BÀ ÐẠT ÐA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Devadatta(Ba Lị và Phạn) hay Daibadatta (Nhật). Bà con với đức Phật.Ðầu tiên, Ðề Bà Ðạt Ða là đệ tử của đức Thế Tônnhưng sau ông từ bỏ và trở thành kẻ thù của Ngài. Hai lầnông mưu toan ám hại đức Phật. Lần thứ nhất, ông đứngtrên đồi lăn đá xuống làm đức Phật bị thương, nhưngsau Ngài được y sĩ Kỳ Bà (Jivaka) chữa lành. Lần thứ hai,Ðề Ðà Ðạt Ða xúi giục người giữ voi ở thành VươngXá (Ràjagaha) nước Ma Kiệt Ðà (Magadha) ngày xưa thả voi sayNalagiri chạy ra đường để giết đức Phật, nhưng khi đếngần voi quỳ xuống bên chân Ngài. Vào cuối đời, Ðề BàÐạt Ða nhận biết lỗi lầm của mình. Ngày nọ, ông đangtrên đường đến gặp đức Thế Tôn mong được sám hốiđể Ngài tha thứ, nhưng chưa kịp tới gặp đức Phật thìông đã bị đọa rơi vào hỏa ngục.
7. DA DU ÐÀ LA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Yasodharà (Ba Lị),Yásodhara (Phạn) hay Yashudara (Nhật). Vợ của thái tử TấtÐạt Ða (Siddhàrta) trước khi Ngài đi tu và là mẹ của LaHầu La (Ba Lị: Rahula), con của đức Phật. Sau này, bà đãxuất gia làm Tỳ Kheo Ni.
8.THIỆN GIÁC: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Suprabuddha (Ba Lị)hay Zenkaku (Nhật ngữ). Vị vua trị vì bộ tộc Câu Ly (Koliya)có kinh đô đóng tại thành Devadaha, nay thuộc xứ Nepal. Ônglà thân sinh của Da Du Ðà La (Yasodharà).
9.LA HẦU LA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Rahula (Ba Lị vàPhạn), hay Ragora (Nhật). Con của đức Phật, sinh ra trướckhi Ngài vượt thành xuất gia. Mẹ của La Hầu La (Rahula) làDa Du Ðà La (Yasodhàra). Sau này, ông trở thành một trong mườiđại đệ tử của đức Phật.
10.CA TỲ LA VỆ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Kapilavatthu (BaLị), Kapilavastu (tiếng Phạn) hay Kabira-e (Nhật). Kinh đô củabộ tộc. Thích Ca (Sakya) dưới quyền cai trị của vua TịnhPhạn (Suddhodana) Ðức Phật ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni(Lumbini) gần thị trấn Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) và Ngài đãtrải qua thời niên thiếu tại đó. Ngày nay, Ca Tỳ La Vệ(Kapilavatthu) được các nhà khảo cổ Ấn Ðộ xác nhận thuộclàng Tilaurakota trong địa hạt Terai, xứ Nepal.
11.XA NẶC: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Channa (Ba Lị), Chandaka(Phạn) hay Shanoku (Nhật). Người hầu cận thân tín của tháitử Tất Ðạt Ða (đức Phật). Ông đã mang ngựa Kiền Trắc(Kanthaka) đến cho thái tử cỡi để vượt thành xuất gia.Sau này Xa Nặc trở thành đệ tử của đức Phật.
12.KIỀN TRẮC: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Kanthaka (Ba Lị),Kanthaka (Phạn) hay Kenchoku (Nhật). Tên con ngựa mà đức Phậtđã dùng để cỡi khi Ngài rời bỏ cung điện đi xuất gia.
13.MA KIỆT ÐÀ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Magadha (Ba Lịvà Phạn) hay Makada (tiếng Nhật). Một trong 16 nước lớn củaẤn Ðộ thời đức Phật còn tại thế. Lúc ấy, Ma KiệtÐà (Magadha) dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra:543-493 trước tây lịch) có kinh đô đóng tại thành VươngXá (Rajagaha) nước Ma Kiệt Ðà (Magadha) xưa kia, nay thuộc cácquận Patna và Gaya, tiểu bang Bihar, miền đông bắc ấn Ðộ.
14.TẦN BÀ SA LA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Bimbisàra (Balị và Phạn) hay Bimbashara (Nhật). Tên vị vua cai trị vươngquốc Ma Kiệt Ðà (543-493 trước tây lịch) thời đức Phậtcòn tại thế. Ông đã kiến tạo thành Vương Xá (Ràjagaha).Kinh sách tiếng Ba Lị (Pali) ghi chép rằng Tần Bà Sa La (Bimbisàra)lên ngôi vua vào năm mười lăm tuổi, và năm sau ông quy y làmđệ tử của đức Thế Tôn. Ông là vị vua đã hết lòngủng hộ Phật Giáo, đã dâng cúng Tu Viện Trúc Lâm cho đứcPhật và chư Tăng.
15.VƯƠNG XÁ THÀNH: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Ràjagaha (BaLị), Ràjagrha (Phạn) hay Òsha-jò (Nhật): Kinh đô của vươngquốc Ma Kiệt Ðà (Magadha) thời xưa, nay là thành phố Rajgirtrong tiểu bang Bihar, vùng đông bắc Ấn Ðộ.
16.A LA LA:: Danh từ Hán Việt dịch âm ngắn gọn của chữ Alàra-Kàlàma(Ba Lị), Àràda-Kàlàma (Phạn) hay Ararakaran (Nhật). Tên vịđạo sĩ thái tử Tất Ðạt Ða đến hỏi đạo giải thoátngay sau khi Ngài rời cung điện đi xuất gia và trở thành nhàtu khổ hạnh. Ðược biết đạo sĩ A La La là một triết giatheo phái Số Luận (Samkhya) và sống gần thành Tỳ Xá Ly (BaLị:Vesali), nay là thành phố Besàrh trong quận Muzzaffapur, tiểubang Bihar, vùng đông bắc Ấn Ðộ.
17.UẤT ÐẦU LAM PHẤT: Danh từ Hán Việt dịch âm ngắn gọnchữ Uddaka-Ràmaputta (Ba Lị), Udraka-Ràmaputra (tiếng Phạn).Tên một trong các đạo sư thái tử Tất Ðạt Ða đến hỏiđạo sau khi xuất gia và trước khi Ngài thành Phật.
18.NI LIÊN THUYỀN: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Neranjarà (BaLị), Nairanjanà (Phạn) hay Nirenzenga (Nhật). Tên một con sôngvào thời đức Phật còn tại thế, ngày nay dân chúng ẤnÐộ gọi là sông Phalgu hay Lilajana với nước trong xanh, sạchvà mát. Dòng sông phát xuất từ vùng gần Simeria, trong quậnHazaribagh, miền trung tiẻu bang Bihar, vùng đông bắc Ấn Ðộ.Sa môn Tất Ðạt Ða (Siddhàrtha) đã viếng thăm và tắm ởsông này sau khi Ngài từ bỏ lối tu ép xác khổ hạnh. Cạnhbờ sông có khu rừng Sa-La, nơi đây đức Phật đã nghỉ ngơivào buổi chiều ngay trước đêm Ngài thành Ðạo sau 49 ngàyngồi thiền định dưới cội Bồ Ðề tại làng Phật ÐàCa Da (Buddha Gaya) nằm cách xa một khoảng ngắn về hướngtây con sông này.
19.CA DA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Gayà (Ba Lị) hay Gaya(tiếng Nhật). Tên một thành phố thiêng liêng thuộc tiểubang Bihar, miền đông bắc Ấn Ðộ. Ðây là nơi đức Phậthay viếng thăm khi Ngài còn tại thế. Ngày nay Ca Da (Gaya) baogồm thành phố Sahebganj về phía tây bắc và thị trấn Gayacũ ở hướng nam. Phật Ðà Ca Da (Buddha Gaya) nơi đức Phậtthành Ðạo cách thành phố Ca Da (Gaya) khoảng 10 cây số vềphía nam.
20.TU GIÀ ÐA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Sujàtà (Ba Lị).Tên người con gái của vị điền chủ ở làng Senani gầnthị trấn Ưu Lâu Tần Loa (Ba Lị: Uruvela) thời đức Phậtcòn tại thế, nay là làng Urel cách xa sáu dặm thị trấn CaDa (Gaya) trong quận Gaya thuộc tiểu bang Bihar, vùng đông bắcẤn Ðộ. Nàng phát tâm hứa sẽ dâng cúng cho vị thần câyđa cạnh nhà một bữa ăn cháo sữa nếu như nàng sanh mộtđứa con trai. Sau đó, cô sanh cháu trai, lòng mong ước củacô được mãn nguyện. Cô sai người hầu gái sửa soạn nơicho cô đến lễ bái tạ ơn Người tớ gái thấy sa môn TấtÐạt Ða đang ngồidưới gốc cây đa, cô tưởng ngài là vịthần cây hiện ra để thọ nhận lễ vật. Sau khi được ngườihầu gái thông báo, tín nữ Tu Già Ða (Sujàtà) rất vui mừng,mang thức ăn đựng trong bình bát bằng vằng đến cúng dườngcho Ngài. Ðây là bữa ăn duy nhất của đức Phật trướckhi Ngài chứng đạo giác ngộ sau thời gian 49 ngày ngồi thiềnđịnh dưới cội Bồ Ðề tại làng Phật Ðà Ca Da (BuddhaGaya) trong tiểu bang Bihar, miền đông bắc Ấn Ðộ.
21.BA LA NẠI: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Bàrànasi (Ba Lịvà Phạn) hay Haranashi (Nhật). Tên cũ còn gọi là Banaras. Thànhphố nằm cạnh bờ sông Hằng, kinh đô của vương quốc CaThị (Ba Lị: Kasi), một trong 16 nước của Ấn Ðộ thời đứcPhật còn tại thế. Cách thành phố Ba La Nại khoảng bảydặm (miles) la vườn Lộc Uyển (Sarnath) nơi đức Phật đãthuyết bài pháp đầu tiên “Kinh Chuyển Pháp Luân” cho nămngười đệ tử xuất gia của Ngài. Thành Ba La Nại (Baranasihay Banaras) xưa kia, ngày nay là thị trấn Varanasi hay Benaresthuộc tiểu bang Uttar Pradesh, miền bắc Ấn Ðộ (Xem chú thíchsố 22).
22.LỘC UYỂN: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Migadàya (Ba Lị),Mrgadàva (Phạn) Rokuya-on (Nhật). Nghĩa đen là “Vườn Nai”.Là một trong bốn thánh địa quan trọng của Phật Giáo. Xưakia Lộc Uyển (Migadàya)có tên Isipatana (Ba Lị) hay Rsipatana(Phạn). Ngày nay gọi là Sarnath, cách xa bảy dặm thành phốBa La Nại (Benares hay Varanasi), trong tiểu bang Uttar Pradesh, miềnbắc Ấn Ðộ. Ðây là nơi đức Phật đã thuyết cho năm vịđệ tử xuất gia của Ngài bài pháp đầu tiên kinh “ChuyểnPháp Luân” tiếng Ba Lị là “Dhammacakkappavattana-Sutta” hayPhạn ngữ “Dharmacakrapravartana-Sùtra”. Lộc Uyển (Sarnath)cũng là nơi đức Thế Tôn đã trải qua mùa an cư kiết hạđầu tiên.
23.MA VƯƠNG: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Màra (Ba Lị và Phạn)hay Ma (tiếng Nhật). Nghĩa là quỷ sứ, yêu ma, thần của lòngtham ái, tội lỗi và chết chóc. Ma Vương là vua làm chủ cõitrời “Tha Hóa Tự Tại Thiên” hay“Paranirmita-vasavartin”(tiếng Phạn) tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục giới.Ma Vương thường được vẽ với hình tượng ngài có mộttrăm cánh tay và ngồi cỡi trên con voi. Trong Phật Giáo, MaVương là biểu tượng của những dục vọng khống chế, ngănchận con người cũng như mọi hành động của chúng ta hướngđến việc lành và tiến bộ trên con đường giải thoát,giác ngộ.
24.PHẬT hay PHẬT ÐÀ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Buddha (BaLị và Phạn), hay Butsuda (Nhật). Chữ “Buddha” (Phật) phátxuất từ ngữ căn tiếng Phạn “Budh” nghĩa là hiểu rõ,thấy biết hay tỉnh thức. Phật là người đã giác ngộ,không còn bị sanh tử luân hồi và hoàn toàn giải thoát.
25.KỲ ÐÀ QUẬT SƠN: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Gijjhakùta(Ba Lị), Grdhrakùta (Phạn) hay Gishakutsu-sen (Nhật). Cũng gọilà núi Linh Thứu hay “Núi hình chim Kên” (Vulture's Peak) vìngọn núi có hình dáng giống như con chim kên và cũng bởichim kên thường hay tụ tập đậu trên đỉnh núi này. Ðâylà một trong năm ngọn núi danh tiếng tại thành Vương Xá(Ràjagaha) thời đức Phật còn tại thế, tức là thành phốRajgir ngày nay, trong tiểu bang Bihar, miền đông bắc Ấn Ðộ.Xưa kia, nhiều đạo sĩ thường vào ẩn tu trong các hang độngở ngọn núi này và đức Phật cũng hay ghé lại tọa thiềnnơi đây mỗi khi Ngài đến hoằng pháp tại Vương Xá. Ðượcbiết trên đỉnh núi này đức Phật đã thuyết nhiều kinhđiển Ðại Thừa quan trọng trong đó có kinh Diệu Pháp LiênHoa.
26.A XÀ THẾ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Ajàtasattu (Ba Lị),Ajàtasatru (tiếng Phạn) hay Ajase (Nhật). Con vua Tần Bà Sa La(Bimbisàra) và hoàng hậu Vi Ðề Hi (Vaidehi). Ông lên làm vuatrị vì nước Ma Kiệt Ðà (494-462 trước tây lịch) khoảngtám năm cuối cùng của đức Phật và tiếp 24 năm sau khi đứcThế Tôn nhập diệt. Tên A Xà Thế (Ajàtasattu) nghĩa là “kẻthù (sattu) khi chưa sanh ra (Ajata) “ vì theo truyền thuyết bảorằng lúc hoàng hậu Vi Ðề Hi mang thai ông, bà thường haythèm khát hút máu nơi đầu gối của chồng. Do vậy, các chiêmtinh gia đoán rằng đứa con trong bụng bà tương lai sẽ sáthại cha nó (Tần Bà Sa La) để lên nắm quyền cai trị đấtnước. Thực vậy, theo sử liệu Phật Giáo, A Xà Thế sau nàyđã bắt giam và bỏ đói giết chết vua cha trong ngục thất.Cùng với Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta), ông đã âm mưu chốnglại đức Phật nhưng thất bại. Sau này, ông đã quy y làmđệ tử của đức Thế Tôn và ủng hộ mạnh mẽ Phật Giáo.Cuối cùng, A Xà Thế đã bị giết chết bởi chính con củaông là thái tử Udayabadra, người đã ở ngôi vua được 14năm.
27.A NAN hay A NAN ÐÀ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Ananda (BaLị và Phạn) hay Anan (tiếng Nhật). Ðại Ðức A Nan hay A NanÐà, bà con với đức Phật, là một trong mười vị đạiđệ tử của Ngài. Ðại Ðức là vị đệ tử theo hầu cận(làm thị giả) đức Thế Tôn trong hơn hai mươi năm. Ðạèức là người có trí nhớ siêu phàm, đã có thể đọc lạithuộc lòng những bài thuyết của đức Phật mà về sau đượcghi chép thành Kinh Tạng. Ðược biết rằng sau khi đức Phậtnhập diệt, Ðại Ðức A Nan mới chứng đạo giác ngộ (đắcquả A La Hán) và Ngài sống thọ đến tuổi 120.
28.CÂU THI NA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Kusinàrà (Ba Lị),Kúsinagara (tiếng Phạn) hay Kushinagara (Nhật Kinh đô của xứMạt La (Ba Lị: Mallas), một trong 16 vương quốc của Ấn Ðộthời đức Phật còn tại thế. Ngày nay là làng Kasia cáchxa 55 cây số về hướng đông thị trấn Gorakhpur, trong tiểubang Uttar Pradesh, miền bắc Ấn Ðộ. Ðây là nơi đức Phậtđã nhập Niết Bàn (viên tịch) trong rừng Sa La vào năm 543trước tây lịch. Sau đó, kim thân của Ngài được hỏa thiêuvà một phần xá lợi của đức Thế Tôn đã được tôn tríthờ trong một bảo tháp tại Câu Thi Na. Vì là nơi đức Phậtđã nhập diệt cho nên thành phố này đã trở thành một trongbốn thánh địa thiêng liêng nhất của Phật Giáo.