Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

128. Kinh Tùy Phiền Não

19/05/202011:32(Xem: 6386)
128. Kinh Tùy Phiền Não

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


128. Kinh TÙY PHIỀN NÃO

( Upakkilesa sutta )

             

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Kô-Sâm-Bi Ngài đã trú qua

             (Xứ Kiều-Thưởng-Di (1) cũng là)

       Tại Tinh Xá Ghô-Si-Ta (1) an hòa.

 

          Lúc bấy giờ xảy ra sự cố

          Sự việc này ở Kố-Sâm-Bi

              Giữa các Tỷ Kheo nơi ni

       Đấu đá, tranh cãi chỉ vì kiến văn

          Cố đả thương nhau bằng miệng lưỡi,

          Dùng binh khí miệng lưỡi chống nhau.

 

              Rồi một Tỷ Kheo đến mau

       Hương thất Đức Phật, bước vào bên trong

          Đảnh lễ Thế Tôn xong, cung kính

          Đứng nghiêm chỉnh, thưa ra tức thì :

 

        – “ Kính bạch đức Chánh Biến Tri !

       Các Tỷ Kheo Kô-Sâm-Bì hiện nay

          Sống cạnh tranh, lòng đầy sân nộ,

          Do tật đố, tranh đấu tưng bừng,

              Cãi cọ, tranh luận không ngừng

       Binh khí miệng lưỡi để dùng đấu tranh.

          Thật tốt lành nếu được Thiện Thệ

          Vì lòng thương, đến để các vì

    _________________________

 

( ) : Tinh Xá Ghositaràma tại xứ Kosambi - Kiều-thưởng-di.

 

              Tỷ Kheo – tôn kính uy nghi

       Của đấng Đại Giác, để đi giảng hòa.

 

          Đức Phật Đà lặng im chấp thuận

          Rồi Ngài xuống chỗ cá Tỷ Kheo.

              Thế Tôn bảo các Tỷ Kheo :

 

 – “ Thôi vừa rồi, các Tỷ Kheo ! Hãy dừng

          Sự đấu tranh và ngừng tranh luận ”.

 

          Khi nghe đấng Thế Tôn dạy vầy

              Một vị Tỷ Kheo nói ngay :

 – “ Bạch Thế Tôn !Thế Tôn đây chính là

          Bậc Pháp Chủ, nhưng mà việc đó

          Ngài chớ có nhọc lòng, lưu tâm.

              Ngài hãy an trú, chú tâm

       Hiện tại lạc trú. Trong tầm chuyện đây

          Chúng con nay chịu trách nhiệm cả

          Về tranh luận, cãi vả, đấu tranh ”.

 

              Lần thứ hai, đấng Trọn Lành

       Lại khuyên các vị làm lành với nhau   

          Nhưng họ nào chịu nghe lời phải.

          Lần thứ ba, Phật lại dạy rằng :

 

        – “ Thôi vừa rồi, này Chúng Tăng !

       Chớ có tranh chấp, chớ hằng luận tranh ”.

 

          Dù Cha Lành Thế Tôn dạy thế

          Nhưng không thể lay chuyển tâm tư

              Bất tịnh của các vị Sư,

       Chuyển hóa họ với tâm Từ Thế Tôn.

 

          Buổi sáng nọ, Thế Tôn thường lệ 

          Đắp y mang bát để rồi đi

              Khất thực tại Kô-Sâm-Bi

       Sau khi khất thực, ngọ thì ăn xong,

          Ngài trở về, vào trong hương thất

          Dọn chỗ nằm, y bát mang đi.

              Ngài đứng với dáng uy nghi

       Rồi đọc lên bài kệ thi như vầy :

 

      “ Giữa quần chúng la ó này

        Không một ai nghĩ mình đây ngu đần

        Giữa sự phân ly Chúng Tăng

        Suy nghĩ hướng thượng, xuất trần là ai ?

        Thất niệm, kẻ trí nói hoài

        Ba hoa trăm thứ, muôn loài muôn nơi.

        Miệng hả, nói thả dàn thôi !

        Ai biết sẽ dẫn đến hồi ra sao ?

 

       ‘Nó mắng tôi, đánh tôi’ đau !

       ‘Nó hại tôi, cướp tôi’ nào xót thương !

        Ai ôm oán niệm ấy thường

        Hận thù không thể có đường dừng đâu !

 

       ‘Nó mắng tôi, đánh tôi’ đau !   

       ‘Nó hại tôi, cướp tôi nào xót thương !

        Không ôm oán niệm mọi đường

        Hận thù sẽ tự có đường dứt ngay.

 

       ‘Hận thù diệt hận thù’ đây

        Không thể diệt hận thù này được đâu !

       ‘Từ Bi diệt hận thù’ sâu

        Ngàn thu định luật kể vào là đây. 

 

        Người khác không hiểu biết vầy :

       ‘Ở đây ta bị diệt ngay – luân hồi. 

        Những ai hiểu điều này rồi  

        Nhờ vậy, tranh luận tiêu đời còn đâu !

        Kẻ chủ xướng hại mạng nào

        Cướp bò, cướp ngựa, mưu sâu hại đời

        Cướp đoạt quốc độ tơi bời

        Họ còn đoàn kết, các người sao không ?

        Được bạn hiền trí đồng lòng,

        Đồng hành, khéo an trú trong an lành

        Thắng mọi hiểm nạn, chiến tranh,

        Hoan hỷ chánh niệm tịnh thanh sống đời.

 

        Nếu không bạn hiền trí, thời

        Như vua bỏ nước, như voi một mình

        Tốt hơn nên sống một mình

        Bạn bè ngu ác, bất minh tránh liền.

        Cô độc, không làm ác duyên

        Nhàn hạ như voi rừng riêng cõi bờ ”.

 

          Lúc bấy giờ, sau khi đọc kệ

          Đấng Thiện Thệ đến làng tên là

              Ba-La-Ká-Lô-Ná-Ka-Ra. 

 

       Tôn-giả Pha-Gú từ xa thấy là    

          Đức Phật Đà đang đi đến đấy

          Tôn-giả ấy liền soạn chỗ ngồi

              Và nước rửa chân. Đến nơi

       Phật an tọa tại chỗ ngồi soạn riêng.

          Tôn-giả Pha-Gú liền đảnh lễ

          Rồi một bên Thiện Thệ, ngồi vào.

              Thế Tôn liền nói như sau :

 

 – “ Tỷ Kheo Pha-Gú ! Thế nào với ông ?

          Có sống an vui không ? Thường nhựt

          Đi khất thực có mệt nhọc không ? ”.

 

        – “ Vẫn an lành, bạch Thế Tôn ! 

       Sống yên ổn, khất thực không nhọc gì ”.

 

          Đức Thế Tôn sau khi nhắc nhủ

          Khuyến khích Sư Pha-Gú trú an,

              Làm cho phấn khởi, hân hoan

       Ngài liền đứng dậy, thẳng đàng đi qua

          Pa-Chi-Na-Vâm-Sa-Đa-Dá  (1)

          Làng này có Tôn-giả tên là

              Tỷ Kheo A-Nậu-Lâu-Đà  (2)

      (A-Nu-Rút-Thá – A-Na-Luật) này

          Cùng hai ngài, đó là Tôn-giả

          Nan-Đi-Dá và Kim-Bi-La.  (2)

              Cả ba Tôn-giả trú qua

       Pa-Chi-Ná-Vâm-Sa-Đa-Da rừng

          Người giữ vườn nơi đây nhìn thấy

          Đức Thế Tôn đi lại từ xa,

              Thưa rằng : “ Xin hãy dừng qua !

       Sa-môn không thể vào ra nơi này

          Có ba vị hiện nay thiền tọa

          Rất ái luyến tự ngã (3) như vầy

              Chớ phiền nhiễu các vị đây !”.

 

       Nghe tiếng người giữ vườn này cản ngăn

          Vì không biết kim thân Phật Bảo,

          Nên Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà

            ( Tức ngài A-Nú-Rút-Tha )

       Liền bảo người giữ vườn là : “ Không sao !

          Chớ ngăn Thế Tôn vào thiền thất

          Ngài là bậc Thầy của chúng tôi ”.

    __________________________

 

( ) : Làng cũng là rừng Pacinavamsadaya.

(2) : Các Tôn-giả : Anuruddha, Nandiya (Nan-Đề), Kimbila.

(3) : Ái luyến tự ngã : Attakamanipa.

 

              Ngài A-Na-Luật nói rồi 

       Bèn thân hành đến các nơi tức thì

          Nơi tu trì của Nan-Đi-Dá,

          Kim-Bi-Lá Tôn-giả hai ngài.

              Đến nơi, Tôn-giả nói ngay :

    “ Này chư Tôn-giả ! Lành thay ! Lúc này

          Hãy đến ngay bìa rừng phía trước

          Chúng ta được vinh dự đón mừng

              Đức Thế Tôn đã đến rừng

       Thăm chúng ta, việc chưa từng xảy ra ”.

 

          Rồi cả ba vị Tôn-giả ấy 

          Lễ Thế Tôn, đón lấy thượng y

              Và bát của Ngài tức thì.

       Soạn chỗ để Chánh Biến Tri Ngài ngồi.

          Nước rửa chân đồng thời múc sẵn

          Đấng Chánh Đẳng ngồi xuống, rửa chân

              Rồi các Tôn-giả ân cần

       Cung kính đảnh lễ pháp thân Phật Đà.

          Đoạn cả ba một bên ngồi xuống

          Lòng mong muốn Phật thuyết pháp ra.

              Đức Thế Tôn nhìn cả ba  

    ( Nhưng tên A-Nú-Rút-Tha Ngài dùng )

 

    – “ Các A-Nú-Rút-Tha ! Hãy tỏ

          Các ông có an lạc mọi thời ? 

              Có được an vui thảnh thơi ?

       Khất thực có được thuận thời, đủ không ?”

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Chúng con đủ phước,

          Cả sáu thời đều được an lành

              Yên vui cùng sống tịnh thanh

       Khất thực thuận tiện, đủ phần thức ăn ”.

 

     – “ Này các ông ! Còn phần đời sống

          Có cùng sống hòa hợp thanh cao

              Như nước với sữa hòa nhau ?

       Có cùng hoan hỷ với nhau không nào ?

          Có tranh cãi, đối đầu gay gắt ?

          Có cặp mắt thiện cảm nhìn nhau ? ”.

 

         – “ Bạch đức Thế Tôn ! Trước sau

       Chúng con hoan hỷ, cùng nhau hợp hòa

          Tương nhượng, như nước hòa với sữa

          Không tranh cãi, nương tựa vào nhau

              Cặp mắt thiện cảm nhìn nhau

     ( Giữ gìn phạm hạnh thanh cao hài hòa )

 

    – “ Các A-Nú-Rút-Tha ! Hãy kể             

          Thế nào để hòa hợp sống chung ?

              Như nước với sữa hòa cùng ?

       Nhìn nhau cặp mắt bao dung cảm tình ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn cao minh từ mẫn !

          Chúng con vẫn thường nghe nói ra :

              ‘Thật lợi ích thay cho ta !

       Thật khéo lợi ích cho ta vô cùng !

          Khi ta được sống chung hoan hỷ

          Với các vị đồng phạm hạnh này’.

              Bạch đức Thế Tôn ! Do vầy

       Với đồng phạm hạnh ở đây các vì,

          Con tức thì khởi từ thân nghiệp

          Từ khẩu nghiệp, ý nghiệp nói chung,

              Trước mặt và cả sau lưng

       Do vậy nên chúng con từng nghĩ qua :

         ‘Hãy từ bỏ tâm ta vị kỷ

          Sống thuận theo tâm ý thiện lành

              Của những Tôn-giả chung quanh’.

       Thế rồi con từ bỏ nhanh tâm mình.

          Sống giữ gìn thuận theo tâm ý

          Của những vị Tôn-giả quanh ta,

              Chúng con tuy thân khác xa

       Nhưng giống như thể đồng là một tâm ”.

 

          Tại tịnh lâm, hai vì Thiền-giả

          Nan-Đi-Dá và Kim-Bi-La

              Nảy giờ chưa dịp nói ra

       Đến đây, lần lượt thưa qua thật lòng

          Cả hai vị tán đồng tất cả

          Điều A-Nu-Rút-Thá trình bày.                  

 

              Đức Phật tán dương : “ Lành thay !

       Các A-Na-Luật ! Lành thay điều này !

          Nhưng hằng ngày các ông sống thật

          Nhiệt tâm, không phóng dật, tinh cần ? ”.

 

         – “ Chúng con thật sự tinh cần  

       Sống không phóng dật, nhiệt tâm làm đầu ”.

 

    – “ Như thế nào sống không phóng dật ?      

          Sống chân thật, nhiệt tâm, tinh cần ? ”.

 

         – “ Bạch Phật ! Chính nhờ tinh thần   

       Tất cả công việc chia phân hằng ngày

          Ai khất thực đủ đầy, về trước

          Thì sắp đặt sẵn nước các phần :

              Nước để uống, nước rửa chân

       Chỗ ngồi thọ thực được phân công bằng

          Dành một bát thức ăn dư bỏ.

          Đồ ăn thừa nếu có nhu cầu

              Muốn ăn thì cứ dùng mau,

       Không ăn thì phải bỏ vào nơi đâu

          Không cỏ xanh hoặc vào giòng nước

          Mà trong nước không có côn trùng.

              Xếp dọn các chỗ ngồi chung

       Cất đi nước uống, nước dùng rửa chân

          Cất cái bát chứa phần tàn thực

          Rồi lập tức quét dọn nhà ăn.

 

              Ai thấy ghè nước uống dần

       Nước nhà cầu, nước rửa chân hết rồi

          Thì người ấy tức thời lo liệu

          Chẳng cần biểu, lấy nước đổ đầy,

              Nếu không đủ sức bằng tay

       Liền ra hiệu người thứ hai giúp mình

          Cùng lo liệu tận tình việc ấy

          Nhưng dù vậy, không gây tiếng ồn.

              Thứ năm trong niềm kính tôn

       Đàm luận đạo pháp ôn tồn cả đêm

          Chúng con sống êm đềm, tinh tấn

          Không phóng dật, kham nhẫn, nhiệt tâm ”.

 

          – “ Lành thay ! Các ông âm thầm  

       Thực hành đời sống nhẫm kham, tinh cần

          Không phóng dật, nhiệt tâm như vậy

          Có chứng lấy được pháp thượng nhân

              Tri kiến thù thắng chánh chân

       Xứng đáng bậc Thánh lạc an hài hòa ? ”.            

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Đúng là như thế

          Sao lại không có thể chứng phần

              Khi không phóng dật, tinh cần,

       Nhiệt tâm, nên đã được phần hào quang

          Cũng như đang hiện khởi sắc pháp.        

          Nhưng hào quang chưa đạt bao lâu

              Biến mất với sắc pháp mau,

       Chúng con không hiểu là sao ? Tướng gì ? ”.

 

    – “ Tướng ấy thì, A-Nu-Rút-Thá !

          Các hành giả cần hiểu sâu xa.

              Này các A-Nậu-Lâu-Đà !

       Trước khi giác ngộ Phật Đà độ tha,

          Khi còn là Bồ-tát như vậy

          Ta nhận thấy hào quang, cùng là

              Các sắc pháp hiện khởi ra

       Nhưng hào quang ấy có mà không lâu

          Biến mất mau với sự hiện khởi

          Của sắc pháp. Do bởi điều này

              Như Lai suy nghĩ như vầy :

      ‘Nhân & duyên gì để mất rày hào quang ?’

          Chắc hoàn toàn nghi-hoặc là cớ   

          Khiến ta lỡ, mất hào quang trên,

              Vì có nghi-hoặc khởi lên

       Định của ta biến diệt, nên lỡ làng.

          Định biến diệt, hào quang biến mất

          Cùng hiện khởi các sắc pháp này,

              Vậy ta phải làm sao đây ?

       Để nghi-hoặc không khởi đầy nơi ta ?

 

          Các A-Nậu-Lâu-Đà ! Ta vẫn

          Không phóng dật, tinh tấn, nhiệt tâm

              Ta lại suy nghĩ thâm trầm :

      ‘Vì không tác ý, định thầm tiêu ma

          Nên nơi Ta, Định bị biến diệt

          Định biến diệt, biến mất hào quang

              Cùng các sắc pháp hiện sang            

       Làm sao nghi-hoặc hoàn toàn tiêu vong,

          Không tác ý cũng không còn nữa

          Không khởi hiện và dựa vào Ta ?

 

              Này các A-Nậu-Lâu-Đà !

       Ta suy nghĩ tiếp : “Chính là nhân & duyên

          Sự hôn trầm thụy miên, sợ hãi

          Nên định lại biến diệt’, như là

              Một người đi trên đường xa

       Bỗng có sát thủ nhảy ra bất thần

          Công kích từ hai phần sau, trước

          Y tái mặt, dựng ngược tóc lông,

              Sợ hãi kinh khủng trong lòng,

       Các A-Na-Luật ! Ta không biếng lười

          Không phóng dật. Ta thời suy nghĩ : 

         ‘Sự sợ hãi đích thị khởi lên,

              Vì có sợ hãi, cho nên

       Định bị biến diệt, mất liền hào quang.

          Cùng các sắc pháp đang hiện khởi,

          Phải làm với thế nào để mà

              Các thứ ấy không khởi ra.

 

       Các A-Na-Luật ! Rồi Ta nghĩ là :

         ‘Sự phấn chấn’ hoặc là ‘dâm ý’

          Cũng dẫn tới Định bị diệt đi.

              Hào quang mất chẳng còn chi

       Cùng các sắc pháp đồng thì hiện ra.

 

          Cũng như là ‘tinh cần quá sức’

          Từ nơi Ta lập tức khởi lên

              Vì tinh cần quá độ, nên

       Định lực biến diệt, mất liền hào quang

          Cùng các sắc pháp đang hiện khởi.

          Ví như, hỡi A-Nú-Rút-Tha !

              Một người sức mạnh bắt, và

       Nắm chặt con chim cáy, mà quá tay

          Khiến chim này chết liền tại chỗ.

 

          Cũng vậy, sự quá độ tinh cần

              Hay quá yếu đuối tinh cần,

       Ví như người ấy đang cầm con chim

          Nắm lỏng lẻo nên chim bay thoát

          Khỏi hai tay không chặt của y.

 

              Rồi Như Lai lại nghĩ suy :

      ‘Ái dục’ & ‘Sai biệt tưởng’ vì khởi lên

          Cùng sắc pháp khởi liền như vậy

          Rồi trạng thái quá chú tâm vào

              Các sắc pháp khởi lên mau

       Nơi ta, cùng sắc pháp nào khởi ra.

          Như vậy, Ta làm sao để chúng

          Sẽ vô dụng, không khởi nơi Ta ?

 

              Này các A-Nú-Rút-Tha !

       Các điều được biết xảy ra âm thầm,

          Là phiền não của tâm như vậy,

          Ta đoạn trừ hết thảy chúng đi.

              Các A-Na-Luật ! Rồi thì

       Ta không phóng dật, hành trì nhiệt tâm,

          Rất tinh cần, hào quang được thấy

          Nhưng không thấy các sắc pháp gì

              Cả đêm cả ngày mọi thì,

       Hoặc thấy sắc, không thấy gì hào quang.

          Ta nghĩ rằng : ‘Do nhân gì vậy ?

          Do duyên gì – chỉ thấy hào quang

              Không thấy sắc pháp hiện sang

       Hoặc là ta chỉ hoàn toàn thấy ra

          Các sắc pháp nhưng mà không thấy

          Hào quang ấy. Về vấn đề này

              Ta đã suy nghĩ như vầy :

      ‘Khi Ta tác ý thấy rày hào quang

          Không tác ý về đằng sắc tướng,

          Chỉ thấy hào quang tướng tức thì

              Mà không thấy sắc pháp gì. 

       Tác ý sắc tướng, không vì hào quang

          Thấy sắc pháp, hào quang chẳng thấy

          Cả đêm ngày, hết thảy mọi thì’.

 

              Rồi Như Lai lại nghĩ suy :

      ‘Hào quang hạn lượng Ta thì thấy ra

          Các sắc pháp có mà hạn lượng &

          Thấy hào quang vô lượng sánh tày

              Sắc pháp vô lượng thấy ngay

       Cả ngày đêm, cả đêm hay cả ngày’.

 

          Vấn đề này, các A-Na-Luật !

          Ta nghĩ : ‘Nhân & duyên thuộc điều trên

              Sao những hiện tượng có nên

       Việc ấy ? Ta suy nghĩ liền như sau :

         ‘Một khi nào Định có hạn lượng,

          Mắt ta có hạn lượng, thấy ra

              Hào quang có hạn lượng, và

       Thấy sắc pháp có hạn lượng, đà trải qua.

          Định của Ta khi không hạn lượng

          Mắt Ta thành vô lượng sâu xa

              Thấy hào quang vô lượng, và

       Sắc pháp vô lượng, thấy qua như vầy,

          Cả đêm, ngày, mọi thời tất cả.           

          Các A-Nú-Rút-Thá ! Khi Ta

              Biết được nghi hoặc chính là

       Một thứ phiền não, phiền hà của tâm

          Thời nghi-hoặc bị tầm tiêu diệt.

          Khi nào biết không tác ý, và

              Hôn trầm thùy miên, cùng là

       Sợ hãi, phấn chấn hay tà ý dâm,

          Khi biết được tinh cần thái quá &

          Tinh cần quá yếu đuối nơi tâm,

              Dục ái, Tưởng sai biệt thầm

       Hay là trạng thái chú tâm quá nhiều

          Đến các sắc pháp đều tích trữ

          Là những thứ phiền não của tâm.

              Được Ta diệt trừ âm thầm.

 

       Các A-Na-Luật ! Ta thầm nghĩ qua :

         ‘Những phiền não tâm Ta đã diệt,

          Nay Ta quyết tu tập hành trì

              Ba loại Định được thực thi.

       Các A-Na-Luật ! Những khi nào mà

          Tu Định có tầm và có tứ,

          Định không tầm có tứ mà thôi.

              Không tầm không tứ định thời.

 

       Ta tu Định có hỷ rồi tiếp nhanh

          Ta thực hành định không có hỷ,

          Tu định chỉ câu hữu lạc ngay,

              Tu định câu hữu Xả này.

 

       Các A-Na-Luật ! Ta rày hành qua

          Tu tập ba loại định hoàn thiện

          Thời tri kiến khởi lên nơi Ta :

             ‘Giải thoát của Ta chính là

       Bất động. Đời sống của ta cuối cùng !

          Và tựu trung không còn sinh lại ”.

 

          Nghe Thế Tôn giảng giải sâu xa

              Tôn-giả A-Nu-Rút-Tha   (1)

       Ba vị tín thọ, thiết tha phụng hành ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 128 :  TÙY PHIỀN NÃO

–  UPAKKILESA  Sutta )

 

     CÁC CÕI TRONG TAM GIỚI theo Vũ Trụ Quan Phật Giáo :

 

   (*) : Các cõi Trời Dục Giới :

 

       1/ Cõi trời  Tứ Đại Thiên Vương ( Catummahàràjà Deva ) với

          Tứ Thiên Vương :

      2) Cõi trời Đao Lợi ( Tàvatimsà ) còn gọi cõi Tam Thập Tam

         Thiên , và vị Vua trời  Sakka  Deva Indra  ( Đê Thích hay

         Thích Đề Hoàn Nhân ).   

      3/ Cõi trời Yàmà (Dạ Ma) và Vua trời Dạ-Ma: Suyàma.       

      4/ Cõi trời Đâu Suất ( Tusita ) và vị Vua trời Santusita.

      5/ Cõi trời Hóa Lạc Thiên ( Nimmànarati ) và vị Vua trời

          Sunimmita của cõi này .

      6/ Cõi trời Tha Hóa Tự Tại Thiên ( Paranimmitavasavattì ).

         Và vị Vua trời Vasavatti  của cõi này .

 

(*) : Các cõi Trời Sắc Giới :

-  SƠ THIỀN :

1) Trời Phạm Phụ  (Brahmapurohita).      2) Trời Phạm Chúng

   (Brahmapàrisajja bhùmi). 4) Trời Đại Phạm ( Mahàbrahma ).

-  NHỊ THIỀN :

1) Trời Thiểu Quang (Parìttàbha).      2) Trời Vô Lượng Quang

    (Appamàmàbhabhùmi). 3) Trời Quang Âm (Abhassaràbhùmi). 

-  TAM THIỀN :

1) Trời Thiểu Tịnh (Parittasubha).       2) Trời Vô Lượng Tịnh

   (Apramànasubha).       3) Trời Biến Tịnh (Subhakritsna).

- TỨ THIỀN :

1) Trời Quảng Quả (Vehappalàbhùmi).           2) Trời Vô Tưởng

   (Asaññasattabhùmi).       3) Tịnh Cư Thiên (Suddhàvàsa), Tịnh

   Cư Thiên có 5 cõi chỉ dành cho các vị Bất Lai và A-La-Hán:

   a/ Trời Vô Phiền (Avihàbhumi). b/ Trời Vô Nhiệt (Atapàbhùmi).  

   c/ Trời Thiện Kiến (Sudassàbhumi).           d/ Trời Thiện Hiện              

      (Sudassìbhumi).      e/ Trời Sắc Cứu Kính (Akanitthabhùmi).

 

(*) : Các cõi Trời Vô Sắc Giới :

 

1) Không Vô Biên Xứ                      (Àkàsànañcàyatana ).

2) Thức Vô Biên Xứ                        (Viññànañcàyatana ).

3)  Vô Sở Hữu Xứ                           (Àkiñcaññàyatana ).

4)  Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ  (Nevasaññànàsaññàyatana ).

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/02/2024(Xem: 560)
Tôi lấy tựa đề này vì tôi thích ý tưởng của Nam Lê khi anh đặt tên cho chương đầu tiên trong quyển sách của anh có tên là ‘The Boat’ (Chiếc Thuyền), một quyển sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đoạt được nhiều giải thưởng văn học ở Anh, ở Úc và ở Mỹ. Chương sách đầu tiên đó được tác giả đặt một cái tên khá dài: ‘Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice’ (Tình Yêu và Danh Dự và Thương Hại và Kiêu Hãnh và Tình Thương và Hy Sinh).
21/02/2024(Xem: 487)
Cuộc đời của mỗi người ai cũng có cho riêng mình một vùng trời ký ức, chỉ là một đời sống bình dị thôi, nhưng lưu lại và đọng sâu trong trí nhớ. Giữa cuộc sống bộn bề ở nơi xứ người, có thể khiến người ta quên đi rất nhiều thứ. Nhưng chắc chắn rằng, tận sâu trong một góc của trái tim, luôn có hình ảnh quê nhà và hình bóng của Mẹ của cha. Nhớ những con đường dẫn vào nhà, trở về với những điều thân thuộc, về cùng với Mẹ bữa cơm chiều .....Và ký ức của tuổi thơ trở về .
07/02/2024(Xem: 475)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo. Sau đó vài năm, tôi viết thêm vài mục với lời tựa mới là ‘Thực Tiễn’. Bây giờ sau 10 năm, quyển sách lại được ‘tái sanh’ lần thứ ba với tựa mới ‘Kẻ Sống Lang Thang trên Bờ Biển’. Tôi đã thay tên mới, tên mà tôi cảm thấy thích hợp hơn cả. Từ trước đến nay, tôi luôn thích đi bộ dọc theo bờ biển nhìn sóng biển đưa vào đủ thứ thập vật: vỏ sò, đá cuội, gỗ mục, v.v.. . Đây là một lối nhìn khác về cuộc sống, mở ra cho thấy những điều không ngờ tới, rút ra được những bài học, tự hỏi ta có thể biến thành hữu dụng, những gì mà người khác cho là vô dụng
31/01/2024(Xem: 1252)
Hello có nghĩa Xin chào Goodbye tạm biệt, thì thào Whisper Lie nằm, Sleep ngủ, Dream mơ Thấy cô gái đẹp See girl beautiful I want tôi muốn, kiss hôn Lip môi, Eyes mắt ... sướng rồi ... oh yeah! Long dài, short ngắn, tall cao Here đây, there đó, which nào, where đâu
27/01/2024(Xem: 516)
Phần này bàn về các cách dùng Trì Trì, mlồi/mlô, chiem thành (~ Chiêm Thành/NCT) từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời hay sau đó. Nhân tiện nhìn rộng ra và bàn thêm về tên gọi Chàm, Chăm và *Lâm (trong quốc hiệu Lâm Ấp). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài
14/01/2024(Xem: 516)
Một buổi sáng, trên đồi hoang vu với tinh mơ còn vương chút nắng mới, những cánh hoa khép mình điêu tàn dưới bình minh tràn đầy nhựa sống. Tuy nhiên, cũng có những nụ hoa mới hé nở đang mơn trớn với thanh khí của đất trời giữa bao la thiên biến. Bên kia vòm trời, mây vẫn bay cho những cuộc mộng tàn phai trong từng phút giây sinh diệt. Con bướm đa tình cũng vờn dưới nắng mai giữa hoa tàn nguyệt tận của kiếp đời lưu biến. Sự sanh diệt của hiện tượng vạn hữu vẽ nên một bức tranh muôn màu cho thiên thu bất tận. Cái huyền diệu của cuộc đời hầu như phô diễn trùng trùng trước thiên di tuyệt náo. Khung trời mới của trăm nay hay nghìn năm về lại tắm gội dòng biến hiện giữa ngàn thu tuế nguyệt.
13/01/2024(Xem: 970)
Mời các bạn chiêm nghiệm nhưng danh ngôn để biết vị Thầy tốt nhất của mình bạn nhé! -“Cuộc sống là một chuỗi trải nghiệm, mỗi trải nghiệm lại giúp ta lớn lao hơn, dù đôi khi khó nhận ra điều này. Bởi thế giới được dựng lên để phát triển bản lĩnh và ta phải học được rằng những bước lùi và nỗi đau ta phải chịu đựng giúp ta tiến về phía trước." - Henry Ford -“Bạn phải sống trong hiện tại, ném mình lên từng con sóng, đi tìm sự vĩnh hằng trong từng khoảnh khắc." - Henry David Thoreau -“Chúng ta không học được từ trải nghiệm… chúng ta học được từ việc suy ngẫm lại về trải nghiệm." - John Dewey -“Sự tương tác giữa tri thức và kỹ năng với trải nghiệm là chìa khóa của việc học hỏi." - John Dewey -“Hối tiếc trải nghiệm của bản thân là ngăn chặn sự phát triển của chính mình. Phủ nhận trải nghiệm của bản thân là thì thầm lời nói dối trên môi cuộc đời của chính mình. Điều đó không gì khác chính là phủ nhận tâm hồn mình." - Oscar Wilde -“ Nguồn tri thức duy nhất là kinh nghiệm - Al
10/01/2024(Xem: 1889)
Tôi bắt đầu dịch thơ của Thầy Tuệ Sỹ vì khâm phục đức độ và lòng dũng cảm của Thầy. Khi nhận được những góp ý từ những người hâm mộ thơ Thầy là bài dịch của tôi giúp họ hiểu thơ Thầy hơn, thì khi đó tôi mong muốn dịch toàn bộ các bài thơ của Thầy sang tiếng Anh. Cuốn sách này được viết vì cái mong muốn này đã lớn thành cái đam mê. Có dịch thơ của Thầy, tôi mới thấy rất rõ ràng những bài thơ của Thầy là một cống hiến to lớn không chỉ cho văn hóa Việt Nam mà còn cho Phật giáo thế giới. Thầy đã đem Thiền vào thơ bằng ngôn ngữ của một con suối, một hạt cải hay hai kẻ yêu nhau. Sự trừu tượng hóa này khiến cho rất khó hiểu được thơ Thầy. Nhiều bài, tôi phải suy nghĩ cả ngày, đôi khi cả mấy ngày, mới hiểu ẩn ý của Thầy. Công việc này không đam mê không làm được.
07/01/2024(Xem: 709)
Nước Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ban đầu chỉ là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, dần dần tiến về Nam sáp nhập nhiều phần lãnh thổ khác để có được diện mạo như hôm nay. Quá trình phát triển ấy cũng nhiều thăng trầm nghiệt ngã, có lúc tưởng như diệt vong nhưng rồi laị phục hồi và phát triển trở laị. Nước Việt chịu nhiều ảnh hưởng của các nền văn hoá: Trung Hoa, Ấn, Champa, Khme, Pháp, Mỹ…Ngay từ thuở ban đầu chỉ là thời đaị bộ lạc, bộ tộc. Tộc Việt cũng đã có một nền văn hoá riêng, tiếng nói riêng:
03/01/2024(Xem: 1698)
Nguyệt San Chánh Pháp số 145_tháng 12 năm 2023: Tâm chí nhỏ thì nhìn cuộc đời trong phạm vi trăm năm, thấy mục đích sống trong vòng gia đình, xã hội, tôn giáo, quốc gia. Tâm chí rộng hơn thì hướng đến lợi ích của nhân loại, của thế giới, trong hiện tại và nhiều thập niên hay thế kỷ tương lai.Giới hạn nhỏ, lớn là ở nơi không gian và thời gian. Mục tiêu nhỏ, lớn thì đặt nơi lợi ích của cá nhân hay số đông. Nhưng dù ngắn hạn hay dài hạn, con đường tất yếu của đời sống nhân loại là giáo dục. Con đường của Phật giáo ở cuộc đời này cũng không ngoài lãnh vực giáo dục, thuật ngữ thiền môn gọi là giáo hóa, hóa độ, hoằng pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567