Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

67. Kinh Càtumà

19/05/202010:31(Xem: 6747)
67. Kinh Càtumà

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



67. Kinh CÀTUMÀ
( Càtumà  sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đấng Thế Tôn du hóa,
          Địa phương Cha-Tu-Má (1) dừng chân
              Rừng cây Mi-Rô-Ba-Lăng  (2)
       Trú tại đó với Chúng Tăng tịnh, hòa.
 
          Ngài Sa-Ri-Pút-Ta (3) Tôn-giả
        ( Hay ngài Xá-Lợi-Phất cũng là )
              Cùng ngài Mốc-Gá-La-Na  (4)
     ( Mục-Kiền-Liên cũng chính là ngài đây )
Lúc bấy giờ, hai ngài Thượng thủ
          Dẫn năm trăm Phích-Khú, cùng qua
              Đến tịnh địa Cha-Tu-Ma
       Để được yết kiến Phật Đà tại đây.
 
          Các Tỷ Kheo nơi này chào đón 
Các vị đến. Rồi dọn sàng tòa,
Các y bát được cất qua,
       Nên tiếng náo động khởi ra ồn ào.
 
          Đức Thế Tôn hướng vào Tôn-giả      
A-Nan-Đa, hỏi đã xảy ra
              Chuyện gì náo động như là
       Tiếng phường đánh cá trải qua tranh dành
    ______________________________
 
  ( ) :  Địa phương tên  Càtumà .
  (2) :  Rừng cây Myrobalam  ( Kha-lưu-lạc ) .
  (3) :  Tôn giả Sariputta  ( Xá-Lợi-Phất ) được Phật tuyên bố là
         Đại-đệ-tử tay mặt của Ngài , vị Trí Tuệ đệ nhất .
  (4) :  Tôn giả Moggallana  ( Mục-Kiền-Liên ) là Đại-đệ-tử tay
        trái của Phật , vị Thần thông đệ nhất .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  426
 
          Khi thuyền về, tranh dành chia cá ?
          A-Nan-Đa Tôn-giả thưa qua
Nguyên nhân sự việc xảy ra.
       Thế Tôn liền bảo ngài A-Nan-Đà :
 
    – “ Nhân danh Ta, hãy đi tìm họ   
          Bảo Đạo Sư gọi họ gặp Ngài ”. 
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Con đi ngay ”.
 
       Rồi Tôn-giả chuyển lời Ngài y theo.
          Tất cả vị Tỷ Kheo mới đến
          Cùng đi đến hương thất Thế Tôn,
              Chí thành đảnh lễ Thế Tôn
       Một bên ngồi xuống nhu ôn cạnh Ngài.
 
          Đấng Như Lai liền lên tiếng hỏi  
          Hướng về mọi Tỷ Kheo ngồi gần :
 
        – “ Các Tỷ Kheo ! Có nghĩ chăng
       Có tiếng náo động như hàng ngư dân
          Tranh dành cá vang rân náo động ? ”.
 
     – “ Bạch Thế Tôn ! Náo động do là
              Năm trăm Tỷ Kheo từ xa
       Vừa đến tại Cha-Tu-Ma nơi này
          Do hai ngài : Sa-Ri-Pút-Tá
          Và Mốc-Ga-La-Ná  dẫn đầu
              Chư Tăng tại đây đón chào
       Dọn sàng tọa, y bát mau cất vào,
          Nên có tiếng ồn ào như vậy ”.
 
    – “ Các Tỷ Kheo ! Mau hãy đi đi !
Ta đuổi các ông phải đi.
Chớ gần Ta. Hãy cấp kỳ đi ra ! ”.
    – “ Bạch Phật Đà ! Xin vâng lời dạy ”.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  427
 
          Các Tỷ Kheo đứng dậy tức thì
              Đảnh lễ đấng Chánh Biến Tri
       Hữu nhiễu quanh Phật rồi thì đi ra.
          Dọn dẹp lại sàng tòa như cũ
Lấy y bát, ủ rủ đi ra.
              Lúc ấy, Thích-tử Thích Ca
       Các vị tạm trú tại Cha-Tu-Mà,
          Đang hội họp bàn qua công vụ
          Tại giảng đường đang trú nơi đây.
              Bỗng thấy các Tỷ Kheo này
Từ xa đi đến, mặt mày buồn hiu.
          Các Thích-tử thấy điều như vậy
          Hòi các Tỷ Kheo ấy như sau :
        – “ Nay chư Tôn-giả đi đâu ? ”.    
 – “ Chư Huynh ! Cả bọn phạm vào điều sai,
          Bị Như Lai đuổi đi như vậy ”.
 
    – “ Chư vị hãy ngồi lại nơi này 
              Chúng tôi sẽ xin với Ngài ”.
 – “ Thưa vâng, xin các Huynh đài giúp cho ”.
 
          Các Thích-tử này do sốt sắng
          Đến, đảnh lễ Chánh Đẳng Như Lai,
Rồi ngồi xuống một bên Ngài.
     ( Các vị Thích-tử ở đây chính là
          Sát-Đế-Lỵ Thích Ca tộc hệ  (1)
          Thuộc Ca-Tỳ-La-Vệ (1) nước này )
              Các Thích-tử bạch Phật ngay :  
     ____________________________
 
(1) : Bộ tộc Sakya  – Thích Ca thuộc giai cấp Khattiya (Sát-Đế-
      Lỵ ) thuộc Tiểu quốc Kapilavatthu  ( Ca-Tỳ-La-Vệ ) lúc ấy
    dưới sư trị vì của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana – là cha của
    Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta , tức Đức Phật ) . 
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  428
 
– “ Bạch đấng Thiện Thệ ! Xin Ngài thứ tha,
          Xin Phật Đà từ bi hoan hỷ
Với các vị Tỷ Kheo lỗi lầm.      
              Trước kia, Ngài với từ tâm  
Tiếp độ, hướng dẫn họ tầm đường tu
          Nay xin giúp Phích-Khu (1) các vị 
          Trong số họ, có vị mới tu
              Thân tâm chưa được hòa nhu
       Xuất gia mới mẻ, công phu chưa nhiều,
Pháp và Luật họ đều sơ lược.
          Nếu không được yết kiến Phật Đà
              Có thể họ đổi khác ra,
Có thể biến chất hoặc là lầm đi.
          Bạch Thế Tôn ! Giống y hạt giống
          Không tưới nước, sức sống sẽ suy
              Có thể chúng biến dạng đi
       Hoặc chúng đổi khác, còn tùy xảy ra.
          Bạch Phật Đà ! Bê con được ví
          Với nó, chỉ có mẹ mà thôi,
              Nếu bò mẹ bị tách rời
       Có thể bê biến dạng rồi đổi thay.
          Cũng như vậy, xin Ngài hoan hỷ
Lượng thứ cho các vị Tỷ Kheo.
              Đây có những tân Tỷ Kheo
       Xuất gia mới mẻ, chưa theo Luật điều.
          Nếu Thế Tôn dùng nhiều cách phạt,
          Họ có thể đổi khác, càng sai,    
              Xin Phật tiếp đón Chúng này
       Xin hãy hoan hỷ, xin Ngài từ bi ”.
    _______________________________
 
 (1) : Bhikkhu – Tỳ-Khưu hay Tỷ-Kheo , có nghĩa là Khất-sĩ .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  429
 
Vị Sa-Hăm-Pá-Ti (1), thường trú
Cõi Phạm Thiên. Là chủ Ta-Bà,
              Với tâm của mình, biết qua
       Tâm của Đại Giác Phật Đà trí minh.
          Như lực sĩ tạo hình, dễ dãi
          Duỗi cánh tay co lại của mình,
              Phạm Thiên biến mất thình lình
       Khỏi Phạm-Thiên-giới, an bình hiện ra
          Trước mặt đức Phật Đà tự tại
          Đắp thượng y vai trái nghiêm trang
              Chắp tay hướng Phật, bạch rằng :
 – “ Bạch đức Điều Ngự ! Ngài hằng từ bi.
          Hãy hoan hỷ với Tỳ-Khưu Chúng,
          Hãy tiếp đón, gặp Chúng Tăng này.
              Ví như Thế Tôn trước đây
Tiếp độ, giúp họ, tâm đầy thương yêu.    
          Trong số họ, có nhiều Phích-Khú
          Mới xuất gia, chưa đủ oai nghi,
              Vừa đến trong Pháp & Luật ni,
       Không được yết kiến Phật thì buồn thay !
          Có thể vì điều này thối thất,
Rồi đổi khác, biến chất, lầm đi.
              Kính bạch đấng Chánh Biến Tri !
       Hạt giống thiếu nước sẽ suy yếu liền,
Như bê con tách riêng bò mẹ…
          Các Tỷ Kheo này sẽ lạc đường                 
              Bạch đấng Thiện Thệ Pháp Vương !
       Xin Ngài hoan hỷ, hãy thương Chúng này ”.
          Do trình bày thiết tha, tuần tự  
    ________________________________
 
(1) : Đại Phạm Thiên Sahampati   tại Cõi Trời Phạm Thiên .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  430
 
          Các Thích-tử và Đại Phạm Thiên
Sá-Hăm-Pá-Tí, là duyên
       Để đấng Đại Giác bỏ phiền làm vui,
          Với ví dụ để nuôi hạt giống
Hay sự sống mất mẹ của bê.
              Khi đã giải quyết vấn đề
       Sá-Hăm-Pá-Tí trở về Phạm Cung
Các Thích-tử cũng cùng từ giã.
          Ngài Mốc-Ga-La-Ná bấy giờ  
              Bảo các Tỷ Kheo ngồi chờ :
 
 – “ Chư Hiền ! Đứng dậy ! Nhân cơ hội này
          Đại Phạm Thiên, các ngài Thích-tử
          Đã xin đấng Điều Ngự thứ tha,
           Phật đã vui lòng bỏ qua .
       Lấy y bát, hướng Phật Đà đến ngay ! ”.
          Các vị này vâng theo Tôn-giả 
          Từ chỗ ngồi đứng cả lên ngay
              Đến gặp Phật, đảnh lễ Ngài,
       Một bên ngồi xuống, lòng đầy hân hoan.
          Phật nhìn sang Sa-Ri-Pút-Tá ,
          Hỏi : “ Này Xá-Lợi-Phất ! Nghĩ gì
              Khi Ta đuổi bọn họ đi ? ”.
 
 – “ Bạch Phật ! Các Tỷ Kheo ni lỗi lầm
          Bị Ngài đuổi, con thầm nghĩ ngợi :
 ‘Vậy thuận lợi, ít bận rộn Ngài,
Trú an hiện-tại-lạc này.
       Chúng con cũng vậy, từ rày được an ”.
 
    – “ Xá-Lợi-Phất ! Hãy khoan nói thế,
          Chớ có để tư tưởng như vầy
              Khởi lên từ nơi ông đây ”.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  431
 
 
       Mục-Kiền-Liên lại được Ngài hỏi qua :
    – “ Này Mốc-Gá-La-Na ! Ông nghĩ
          Về các vị bị đuổi thế nào ? ”.
        – “ Bạch Thế Tôn ! Con nghĩ mau :
       Nay sự bận rộn, ồn ào mất đi,
          Hiện-tại-lạc Phật thì an trú,
          Từ nay tự con và Pháp-huynh
Sa-Ri-Pút-Tá, tận tình
       Lãnh đạo Tăng Chúng nghiêm minh, an lành ”.
    – “ Lành thay ! Này Mốc-Ga-La-Ná ! 
          Chỉ có Ta và cả hai là : 
              Tay mặt, Sa-Ri-Pút-Ta,
       Tay trái, Mốc-Gá-La-Na – tận tình
          Mới có thể nghiêm minh lãnh đạo
          Chúng Tỷ Kheo y giáo hành trì ”.
 
              Sau đó, đức Chánh Biến Tri
       Cho gọi Tăng Chúng tức thì vào ngay.
 
          Ngài thuyết giảng : “ Hỡi này Tăng Chúng !
          Bốn điều cũng đáng sợ như nhau
              Chờ đợi ai lội nước sâu.
       Thế nào là bốn ?  –  Sợ vào sóng to, 
–  Sợ và lo cá sấu làm hại,
      –  Sự sợ hãi nước xoáy giữa dòng,
–  Sợ hãi cá dữ tấn công.
       Bốn điều sợ hãi chẳng mong gặp này
Luôn chờ đợi những ai lội nước.
          Cũng vậy, bốn điều được nêu ra
              Chờ đợi những người xuất gia
       Luôn đáng sợ hãi, trải qua sớm chiều.
          Thế nào là bốn điều đáng sợ
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  432
 
          Cũng tương tợ : cá sấu, sóng to,
Nước xoáy, cá dữ đáng lo.
       Các ông ! Sợ hãi nguyên do thế nào ?
 
      *  Sự sợ hãi ra sao về sóng ?
          Các Tỷ Kheo ! Đang sống tại gia
              Một Thiện-nam-tử an hòa
       Vì lòng tin, đã xuất gia, lìa nhà,
Bỏ gia đình, tránh xa thế tục.
          Trong tỉnh thức, vị ấy nghĩ suy :
            “ Ta bị già, chết, sầu, bi,
Sanh, khổ, ưu, não… mọi thì chẳng buông,
Khổ áp bức, khổ luôn chi phối.
          Tuy vậy, ta mong đợi như vầy :        
              Dứt toàn bộ khổ uẩn này ”.
       Xuất gia, vị ấy đêm, ngày, ngoài, trong
          Được các vị là đồng-phạm-hạnh
          Giảng dạy điều chân chánh, khuyên bày :
 ‘Ông cần thực hiện hằng ngày :    
       Ngó tới như vậy, như vầy ngó quanh,
          Đi và về an lành như vậy,
          Co & duỗi tay cũng phải oai nghi.
              Phải mang Tăng-già-lê y,
       Mang bát như vậy, mọi thì hóa duyên’.
 
          Vị ấy liền nghĩ theo việc đó :
 ‘Trước kia, ta chưa có xuất gia,   
              Chính ta giảng dạy người ta,
       Khuyến giáo người khác thật là nhiều thay !
          Nay họ đây hãy còn ít tuổi
          Đáng vào tuổi con cháu của ta
              Lại muốn giảng dạy cho ta,
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  433
 
       Lên mặt khuyến giáo với ta đủ điều’.
 
          Do tâm tư có nhiều bất mãn
Vị ấy nản, hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
       Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
Sự sợ hãi về sóng tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Sợ hãi sóng – phẫn não : đồng nghĩa nhau.
 
      *  Còn thế nào sợ hãi cá sấu ?
          Thấy phiền não đời sống tại gia,
              Một Thiện-nam-tử trải qua
       Lòng tin sâu nặng, xuất gia tu hành,
Tâm chí thành muốn trừ dứt khổ.
          Nhưng tại chỗ trú xứ, hằng ngày
              Được đồng-phạm-hạnh các ngài
       Giảng dạy, khuyến giáo vị đây ân cần :
 
       “ Ông không nên nhai, ăn cái đó !
          Không nên có cách nếm, uống này !
              Nên nhai, ăn, nếm như vầy !
       Nên uống như vậy ! Phải đầy oai nghi.
          Ông nên ăn những gì cho phép,
          Không cho phép thì chẳng nên ăn ! 
              Nhai, nếm hay uống cũng hằng
       Theo sự cho phép & cấm ngăn giới này.
          Phải đúng thời nếm, nhai, ăn, uống,
          Không nếm, nhai, ăn, uống phi thời ”.
 
             Vị ấy suy nghĩ tức thời :     
      ‘Trước kia khi sống cuộc đời tại gia
          Cái gì muốn thì ta thực hiện,
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  434
 
          Nếu không muốn, ta miễn làm ngay,
              Sự ăn, uống, nếm, nhai này
       Đúng thời, ta uống, ăn, nhai đã đành
Phi thời cũng thực hành điều đó.
 
          Như nay có gia-chủ tín thành
              Cúng dường món ăn ngon lành,
       Hình như bị chận tại vành miệng ta ! ”. 
          Bất mãn do chỉ là vật thực
     Y lập tức hoàn tục, về nhà.  
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
   Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
      Sự sợ hãi cá sấu tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Tham ăn – sợ cá sấu : đồng nghĩa nhau.
 
      *  Còn thế nào sợ hãi nước xoáy ?
          Thiện nam ấy chán đời tại gia
              Từ bỏ gia đình, xuất gia
       Do nghĩ : ‘Khổ áp bức ta mọi thời,
          Khổ chi phối cuộc đời ta mãi,
          Ta mong phải dứt khổ uẩn này’.
              Sống đời xuất gia, hằng ngày
       Với đồng-phạm-hạnh các ngài tại đây.
          Khi vị này đắp y mang bát
          Vào thị trấn hoặc các thôn làng
              Khất thực ; nhưng y hoàn toàn
       Thân không phòng hộ, mọi đàng dễ duôi,
          Không phòng hộ, dễ duôi lời nói,
          Không có mọi niệm-an-trú cần,
      Lại không chế ngự các căn.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  435
 
       Vị này thấy các chủ-nhân các nhà
          Đời sống họ thật là đầy đủ
          Được hưởng thụ năm dục tăng gia,
              Thấy hoan hỷ ; nên nghĩ là : 
      ‘Khi chưa nhập chúng thì ta cũng vầy
          Cũng hưởng thụ đủ đầy năm dục
Trong mọi lúc, hoan hỷ trải qua.
              Ta có tài sản trong nhà
       Có thể hưởng thụ với gia tài mình,
   Vừa có thể tự mình làm phước’.
 Rồi lui bước, hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
       Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
  Sự sợ hãi nước xoáy mênh mông.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Năm dục tăng trưởng cũng đồng nghĩa đây
 Với nước xoáy người này sợ hãi.
      *  Còn sợ hãi cá dữ là sao ?
              Có một Thiện-nam-tử nào
       Vì lòng tin quá dồi dào, xuất gia
  Bỏ gia đình, tránh xa thế tục.
          Trong tỉnh thức, vị ấy nghĩ suy :
            “ Ta bị già, chết, sầu, bi,
       Sanh, khổ, ưu, não… mọi thì chẳng buông,
  Khổ áp bức, khổ luôn chi phối.
          Tuy vậy, ta mong đợi như vầy :        
              Dứt toàn bộ khổ uẩn này ”.
       Xuất gia nhập chúng, ngày ngày vui thay !
          Khi vị này đắp y mang bát
          Vào thị trấn hoặc các thôn làng
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  436
 
              Khất thực ; nhưng y hoàn toàn
       Thân không phòng hộ, mọi đàng dễ duôi,
          Không phòng hộ, dễ duôi lời nói,
          Không có mọi niệm-an-trú cần,
      Lại không chế ngự các căn.
 
       Vị này nhìn thấy nữ nhân các nàng
          Y phục họ hở hang phất phới
          Không đoan chánh, khiêu gợi dục tâm
              Khiến vị này khởi tà dâm
       Dục tình liền phá hoại tâm vị này.
          Do dục vọng xéo dày như vậy
     Nên vị ấy hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
   Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
          Sự sợ hãi cá dữ tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Phụ nữ – sợ cá dữ : đồng nghĩa nhau.
 
          Bốn điều này trước sau Ta giảng 
          Cũng đều đáng sợ hãi, kinh hồn,
             Chờ người xuất gia, Sa-môn,
       Gia đình từ bỏ, bảo tồn đường tu
          Trong Pháp & Luật ; công phu chưa đạt  
        ( Luôn cảnh giác về bốn điều này ) ”.    
 
              Thế Tôn thuyết giảng như vầy,
       Chư Tăng tín thọ, lời Ngài khâm tuân ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 67 :  CÀTUMÀ  –  CÀTUMÀ  Sutta  ) 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/02/2024(Xem: 559)
Tôi lấy tựa đề này vì tôi thích ý tưởng của Nam Lê khi anh đặt tên cho chương đầu tiên trong quyển sách của anh có tên là ‘The Boat’ (Chiếc Thuyền), một quyển sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đoạt được nhiều giải thưởng văn học ở Anh, ở Úc và ở Mỹ. Chương sách đầu tiên đó được tác giả đặt một cái tên khá dài: ‘Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice’ (Tình Yêu và Danh Dự và Thương Hại và Kiêu Hãnh và Tình Thương và Hy Sinh).
21/02/2024(Xem: 486)
Cuộc đời của mỗi người ai cũng có cho riêng mình một vùng trời ký ức, chỉ là một đời sống bình dị thôi, nhưng lưu lại và đọng sâu trong trí nhớ. Giữa cuộc sống bộn bề ở nơi xứ người, có thể khiến người ta quên đi rất nhiều thứ. Nhưng chắc chắn rằng, tận sâu trong một góc của trái tim, luôn có hình ảnh quê nhà và hình bóng của Mẹ của cha. Nhớ những con đường dẫn vào nhà, trở về với những điều thân thuộc, về cùng với Mẹ bữa cơm chiều .....Và ký ức của tuổi thơ trở về .
07/02/2024(Xem: 475)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo. Sau đó vài năm, tôi viết thêm vài mục với lời tựa mới là ‘Thực Tiễn’. Bây giờ sau 10 năm, quyển sách lại được ‘tái sanh’ lần thứ ba với tựa mới ‘Kẻ Sống Lang Thang trên Bờ Biển’. Tôi đã thay tên mới, tên mà tôi cảm thấy thích hợp hơn cả. Từ trước đến nay, tôi luôn thích đi bộ dọc theo bờ biển nhìn sóng biển đưa vào đủ thứ thập vật: vỏ sò, đá cuội, gỗ mục, v.v.. . Đây là một lối nhìn khác về cuộc sống, mở ra cho thấy những điều không ngờ tới, rút ra được những bài học, tự hỏi ta có thể biến thành hữu dụng, những gì mà người khác cho là vô dụng
31/01/2024(Xem: 1251)
Hello có nghĩa Xin chào Goodbye tạm biệt, thì thào Whisper Lie nằm, Sleep ngủ, Dream mơ Thấy cô gái đẹp See girl beautiful I want tôi muốn, kiss hôn Lip môi, Eyes mắt ... sướng rồi ... oh yeah! Long dài, short ngắn, tall cao Here đây, there đó, which nào, where đâu
27/01/2024(Xem: 514)
Phần này bàn về các cách dùng Trì Trì, mlồi/mlô, chiem thành (~ Chiêm Thành/NCT) từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời hay sau đó. Nhân tiện nhìn rộng ra và bàn thêm về tên gọi Chàm, Chăm và *Lâm (trong quốc hiệu Lâm Ấp). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài
14/01/2024(Xem: 514)
Một buổi sáng, trên đồi hoang vu với tinh mơ còn vương chút nắng mới, những cánh hoa khép mình điêu tàn dưới bình minh tràn đầy nhựa sống. Tuy nhiên, cũng có những nụ hoa mới hé nở đang mơn trớn với thanh khí của đất trời giữa bao la thiên biến. Bên kia vòm trời, mây vẫn bay cho những cuộc mộng tàn phai trong từng phút giây sinh diệt. Con bướm đa tình cũng vờn dưới nắng mai giữa hoa tàn nguyệt tận của kiếp đời lưu biến. Sự sanh diệt của hiện tượng vạn hữu vẽ nên một bức tranh muôn màu cho thiên thu bất tận. Cái huyền diệu của cuộc đời hầu như phô diễn trùng trùng trước thiên di tuyệt náo. Khung trời mới của trăm nay hay nghìn năm về lại tắm gội dòng biến hiện giữa ngàn thu tuế nguyệt.
13/01/2024(Xem: 969)
Mời các bạn chiêm nghiệm nhưng danh ngôn để biết vị Thầy tốt nhất của mình bạn nhé! -“Cuộc sống là một chuỗi trải nghiệm, mỗi trải nghiệm lại giúp ta lớn lao hơn, dù đôi khi khó nhận ra điều này. Bởi thế giới được dựng lên để phát triển bản lĩnh và ta phải học được rằng những bước lùi và nỗi đau ta phải chịu đựng giúp ta tiến về phía trước." - Henry Ford -“Bạn phải sống trong hiện tại, ném mình lên từng con sóng, đi tìm sự vĩnh hằng trong từng khoảnh khắc." - Henry David Thoreau -“Chúng ta không học được từ trải nghiệm… chúng ta học được từ việc suy ngẫm lại về trải nghiệm." - John Dewey -“Sự tương tác giữa tri thức và kỹ năng với trải nghiệm là chìa khóa của việc học hỏi." - John Dewey -“Hối tiếc trải nghiệm của bản thân là ngăn chặn sự phát triển của chính mình. Phủ nhận trải nghiệm của bản thân là thì thầm lời nói dối trên môi cuộc đời của chính mình. Điều đó không gì khác chính là phủ nhận tâm hồn mình." - Oscar Wilde -“ Nguồn tri thức duy nhất là kinh nghiệm - Al
10/01/2024(Xem: 1889)
Tôi bắt đầu dịch thơ của Thầy Tuệ Sỹ vì khâm phục đức độ và lòng dũng cảm của Thầy. Khi nhận được những góp ý từ những người hâm mộ thơ Thầy là bài dịch của tôi giúp họ hiểu thơ Thầy hơn, thì khi đó tôi mong muốn dịch toàn bộ các bài thơ của Thầy sang tiếng Anh. Cuốn sách này được viết vì cái mong muốn này đã lớn thành cái đam mê. Có dịch thơ của Thầy, tôi mới thấy rất rõ ràng những bài thơ của Thầy là một cống hiến to lớn không chỉ cho văn hóa Việt Nam mà còn cho Phật giáo thế giới. Thầy đã đem Thiền vào thơ bằng ngôn ngữ của một con suối, một hạt cải hay hai kẻ yêu nhau. Sự trừu tượng hóa này khiến cho rất khó hiểu được thơ Thầy. Nhiều bài, tôi phải suy nghĩ cả ngày, đôi khi cả mấy ngày, mới hiểu ẩn ý của Thầy. Công việc này không đam mê không làm được.
07/01/2024(Xem: 707)
Nước Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ban đầu chỉ là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, dần dần tiến về Nam sáp nhập nhiều phần lãnh thổ khác để có được diện mạo như hôm nay. Quá trình phát triển ấy cũng nhiều thăng trầm nghiệt ngã, có lúc tưởng như diệt vong nhưng rồi laị phục hồi và phát triển trở laị. Nước Việt chịu nhiều ảnh hưởng của các nền văn hoá: Trung Hoa, Ấn, Champa, Khme, Pháp, Mỹ…Ngay từ thuở ban đầu chỉ là thời đaị bộ lạc, bộ tộc. Tộc Việt cũng đã có một nền văn hoá riêng, tiếng nói riêng:
03/01/2024(Xem: 1698)
Nguyệt San Chánh Pháp số 145_tháng 12 năm 2023: Tâm chí nhỏ thì nhìn cuộc đời trong phạm vi trăm năm, thấy mục đích sống trong vòng gia đình, xã hội, tôn giáo, quốc gia. Tâm chí rộng hơn thì hướng đến lợi ích của nhân loại, của thế giới, trong hiện tại và nhiều thập niên hay thế kỷ tương lai.Giới hạn nhỏ, lớn là ở nơi không gian và thời gian. Mục tiêu nhỏ, lớn thì đặt nơi lợi ích của cá nhân hay số đông. Nhưng dù ngắn hạn hay dài hạn, con đường tất yếu của đời sống nhân loại là giáo dục. Con đường của Phật giáo ở cuộc đời này cũng không ngoài lãnh vực giáo dục, thuật ngữ thiền môn gọi là giáo hóa, hóa độ, hoằng pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567