Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

34. Tiểu Kinh Người Chăn Bò

19/05/202009:13(Xem: 8100)
34. Tiểu Kinh Người Chăn Bò

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



  34. Tiểu Kinh NGƯỜI CHĂN BÒ

(Cùlagopàlaka sutta)

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời nọ, Thế Tôn Đại Giác

          An trú tại bộ lạc Vách-Chi  (1)

            ( Tức là bộ tộc Bạt Kỳ )

       U-Ka-Chê-Lá(2), bên ni Hằng hà.

          Tại đây, đức Phật Đà liền gọi :

     – “ Các Tỷ Kheo ! Ta nói pháp lành 

              Hãy khéo lắng nghe cho rành ”.

 

       Các Tỷ Kheo ấy đồng thanh vâng lời.

 

   –  “ Các Tỷ Kheo ! Ở nơi thôn dã

          Thuộc nước Ma-Ga-Thá(3), bấy giờ

              Có một người nọ chăn bò

       Cuối mùa mưa, nông phu lo ruộng đồng

          Sắp gặt hái là xong thời vụ.

          Người chăn bò không đủ khả năng

              Quan sát hai bờ sông Hằng

       Nên xua bò xuống sông Hằng lội qua

          Từ Su-Ví-Đê-Ha (4), bất kể

          Nơi bò không có thể lội sang.

              Chỗ sâu, nước xoáy muôn ngàn

       Bò xô nhau, tụ giữa tràng-giang đây

    __________________________

  (1) : Xứ Vajji – Bạt-Kỳ .      (2) : Địa phương tên Ukkacela .

   (3) : Vương quốc Magadha (Ma-Kiệt-Đà) của vua Bimbasara (Tần-Bà-Sa-La hay Bình-Sa Vương) và sau đó là vua Ajatasattu

(A-Xà-Thế) trị vì .                   (4) : Địa phương tên Suvideha .    

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 34 : NGƯỜI CHĂN BÒ  * MLH –504  

 

        ( Chết đuối đầy ) do tai nạn đó

          Vì cớ sao ? Vì có người chăn

              Kẻ vô trí, không khả năng

       Không biết quan sát sông Hằng để sang.

          Cũng như vậy, các hàng Phạm-chí

          Hay Sa-môn các vịởđây

Đã không khéo biết đời này

       Đời sau không biết ; không rày biết chi

          Về Ma-giới hay Phi-ma-giới

          Không biết tử-thần-giới là sao ?

              Phi-tử-thần-giới thế nào ?

       Nên ai tin họ, mắc vào khổđau,

          Gặp bất hạnh dài lâu vì họ

          Những người đó vô trí, ngụy tà.

 

              Ngược lại, sự việc xảy ra  

       Tại Ma-Ga-Thá  (tức Ma-Kiệt-Đà )

          Người chăn bò thật là có trí

          Quan sát kỹ sông Hằng sớm trưa

              Trong mùa gặt cuối mùa mưa

       Quan sát hai phía để thừa dịp đây

          Xua đàn bò qua ngay Găng-Gá(1)

          Tại Su-Vi-Đê-Há, bến vui  

              Chỗ nước cạn, chảy êm xuôi

Đàn bò có thể nối đuôi qua bờ.

          Mục tử cho những con bò đực

Đã già, hay bò đực đầu đàn

              Dòng sông Hằng lội cắt ngang

       Qua được bên ấy an toàn trước tiên

          Rồi y liền xua nhiều bò đực

     __________________________

(1) : Sông Ganga – sông Hằng hay Hằng hà .

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 34 : NGƯỜI CHĂN BÒ  * MLH –505  

 

          Chúng mạnh sức, được luyện kỹ càng

              Chúng cũng sang sông an toàn,

       Bò đực mới lớn xua sang tiếp liền,

          Rồi đến phiên những con bò cái,

          Bò còn bú hoặc loại bê con

              Cũng qua sông được an toàn,

       Chúng lội theo mẹ, kêu vang trong bầy.

 

          Vì sao vậy ?  Ởđây diễn tả

          Người chăn bòở Má-Ga-Tha

              Là người có trí, từ hòa

       Với đàn bòấy, thật là chăm lo

          Quan sát kỹ để bò an ổn

          Qua sông Hằng không tổn thất gì.

 

              Cũng vậy, phải nên tường tri :

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Các vì Sa-môn

          Hay Bàn-môn là người có trí

          Khéo biết kỹ đối với đời này,

              Khéo biết với đời sau đây,

       Khéo biết Ma-giới, biết rày Phi-ma,

          Khéo biết qua Tử-thần-giới chúng

          Phi-tử-thần-giới cũng biết qua.

              Những ai nghĩ rằng phải là

       Cần nghe, tin tưởng sâu xa các ngài

          Họ sẽ được lâu dài hạnh phúc

          Và an lạc liên tục như vầy !

 

          *  Này các Tỷ Kheo ! Ởđây

       Ví những bò đực già hay đầu đàn

Đã lội ngang vượt dòng một mạch

          Qua bờ bên một cách an toàn

              Là A-La-Hán các hàng

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 34 : NGƯỜI CHĂN BÒ  * MLH –506  

 

Đoạn diệt lậu-hoặc, chướng oan tiêu trừ

          Tu hành đã an như viên mãn

          Việc nên làm đã ráng hoàn thành

Đã đặt gánh nặng xuống nhanh

Đạt được mục đích tịnh thanh nhẹ nhàng

          Hữu-kiết-sử hoàn toàn diệt dứt

          Giải thoát thực nhờ chánh tríđây.

              A-La-Hán những vị này

       Sông Ma-vương đã lội qua an toàn.

 

      *  Các Tỷ Kheo ! Nói sang khía cạnh

          Những bò đực lớn mạnh trong đàn

              Bò được huấn luyện kỹ càng

       Cũng vượt sông rộng an toàn lội qua

          Bậc Bất Lai – A-Na-Hàm quả

          Năm phần hạ kiết sửđoạn trừ

              Hoá sanh Đâu Suất Tịnh cư

       Không còn sanh lại ; và từởđây

          Sẽ nhập ngay Niết Bàn chân thực,

          Như bò đực lớn mạnh vượt qua. 

 

          *  Những bò đực khác, hay là

       Những con bò cái non, già kể trong

          Những con này vượt sông an lạc,

          Ví như các vịđạt Nhất Lai

              Tức Tư-Đà-Hàm quả này

       Sinh lại lần nữa, diệt ngay khổ sầu

          Nhờ diệt mau về ba kiết-sử

          Vàđã tự giảm tham, sân, si,

              Những vị an lạc, sau khi

       Sông Ma-vương đã vượt đi an toàn.

 

      *  Những bò con còn đang bú mẹ

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 34 : NGƯỜI CHĂN BÒ  * MLH –507  

 

          Dù non trẻ cũng rán vượt sông,

              Ví như Tỷ Kheo diệt xong

       Về ba kiết-sử, vào dòng Dự Lưu (1)

          Là Tỷ-Khưu Tu-Đà-Hoàn quả

          Nhất định không còn đọa ác tà

              Sẽđạt Chánh Giác không xa

       Sông Ma-vương đã lội qua an toàn.

 

      *  Còn những hàng Tỷ-Kheo khác nữa

          Ví bêđang bú sữa, mới sanh

              Nhờ có bò mẹ theo canh

       Vừa kêu vừa chạy, lội nhanh an lành,

          Tùy-tín-hành và hành tùy-pháp

          Tỷ Kheo ấy lội gấp để sang

              Vượt sông Ma-vương an toàn.

 

       Này Tỷ-Kheo Chúng ! Đạo Vàng chứng tri,

          Ta khéo biết đời ni, đời khác,

          Khéo biết các Ma-giới, Phi-ma

              Tử-thần-giới khéo biết qua

       Phi-tử-thần-giới cũng đà tường tri.

          Những ai vì cần nghe, tín thọ

Ở nơi Ta, thì họđạt ngay

              Hạnh phúc, an lạc lâu dài ”.

 

       Thế Tôn thuyết giảng như vầy sâu xa

     ____________________________________

* Bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác  :

(1) :Tu-Đà-Hoàn ( Sotàpatti )   hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai quả (chỉ còn sinh lại thế gian 7 lần)

(2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 

(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời

Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   

(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng

       Cúng , sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn .

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 34 : NGƯỜI CHĂN BÒ  * MLH –508  

 

          Sau khi đấng Phật Đà thuyết thế

          Bậc Thiện Thệ nói kệ thêm vào :

 

            “ Ở đời này và đời sau

Ma-giới, bậc Trí khéo mau trình bày

Tử-thần-giới chẳng đạt đây

       Chánh Giác, Trí-giả biết ngay mọi đàng

              Mọi thế giới cả mười phang

       Cửa bất tử mở, đạt an Niết Bàn.

              Dòng sông Ma bị chặt ngang

       Hư hoại vàđã nát tan sẵn sàng

              Sung-mãn-hỷ sống trải sang

       Các Tỷ Kheo ! Hãy đạt an Niết Bàn ”./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

 *

**

 

( Chấm dứt  Kinh số 34  :  Tiểu Kinh NGƯỜI CHĂN BÒ

CÙLAGOPÀLAKA  Sutta  )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/02/2024(Xem: 562)
Tôi lấy tựa đề này vì tôi thích ý tưởng của Nam Lê khi anh đặt tên cho chương đầu tiên trong quyển sách của anh có tên là ‘The Boat’ (Chiếc Thuyền), một quyển sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đoạt được nhiều giải thưởng văn học ở Anh, ở Úc và ở Mỹ. Chương sách đầu tiên đó được tác giả đặt một cái tên khá dài: ‘Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice’ (Tình Yêu và Danh Dự và Thương Hại và Kiêu Hãnh và Tình Thương và Hy Sinh).
21/02/2024(Xem: 491)
Cuộc đời của mỗi người ai cũng có cho riêng mình một vùng trời ký ức, chỉ là một đời sống bình dị thôi, nhưng lưu lại và đọng sâu trong trí nhớ. Giữa cuộc sống bộn bề ở nơi xứ người, có thể khiến người ta quên đi rất nhiều thứ. Nhưng chắc chắn rằng, tận sâu trong một góc của trái tim, luôn có hình ảnh quê nhà và hình bóng của Mẹ của cha. Nhớ những con đường dẫn vào nhà, trở về với những điều thân thuộc, về cùng với Mẹ bữa cơm chiều .....Và ký ức của tuổi thơ trở về .
07/02/2024(Xem: 479)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo. Sau đó vài năm, tôi viết thêm vài mục với lời tựa mới là ‘Thực Tiễn’. Bây giờ sau 10 năm, quyển sách lại được ‘tái sanh’ lần thứ ba với tựa mới ‘Kẻ Sống Lang Thang trên Bờ Biển’. Tôi đã thay tên mới, tên mà tôi cảm thấy thích hợp hơn cả. Từ trước đến nay, tôi luôn thích đi bộ dọc theo bờ biển nhìn sóng biển đưa vào đủ thứ thập vật: vỏ sò, đá cuội, gỗ mục, v.v.. . Đây là một lối nhìn khác về cuộc sống, mở ra cho thấy những điều không ngờ tới, rút ra được những bài học, tự hỏi ta có thể biến thành hữu dụng, những gì mà người khác cho là vô dụng
31/01/2024(Xem: 1255)
Hello có nghĩa Xin chào Goodbye tạm biệt, thì thào Whisper Lie nằm, Sleep ngủ, Dream mơ Thấy cô gái đẹp See girl beautiful I want tôi muốn, kiss hôn Lip môi, Eyes mắt ... sướng rồi ... oh yeah! Long dài, short ngắn, tall cao Here đây, there đó, which nào, where đâu
27/01/2024(Xem: 518)
Phần này bàn về các cách dùng Trì Trì, mlồi/mlô, chiem thành (~ Chiêm Thành/NCT) từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời hay sau đó. Nhân tiện nhìn rộng ra và bàn thêm về tên gọi Chàm, Chăm và *Lâm (trong quốc hiệu Lâm Ấp). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài
14/01/2024(Xem: 518)
Một buổi sáng, trên đồi hoang vu với tinh mơ còn vương chút nắng mới, những cánh hoa khép mình điêu tàn dưới bình minh tràn đầy nhựa sống. Tuy nhiên, cũng có những nụ hoa mới hé nở đang mơn trớn với thanh khí của đất trời giữa bao la thiên biến. Bên kia vòm trời, mây vẫn bay cho những cuộc mộng tàn phai trong từng phút giây sinh diệt. Con bướm đa tình cũng vờn dưới nắng mai giữa hoa tàn nguyệt tận của kiếp đời lưu biến. Sự sanh diệt của hiện tượng vạn hữu vẽ nên một bức tranh muôn màu cho thiên thu bất tận. Cái huyền diệu của cuộc đời hầu như phô diễn trùng trùng trước thiên di tuyệt náo. Khung trời mới của trăm nay hay nghìn năm về lại tắm gội dòng biến hiện giữa ngàn thu tuế nguyệt.
13/01/2024(Xem: 974)
Mời các bạn chiêm nghiệm nhưng danh ngôn để biết vị Thầy tốt nhất của mình bạn nhé! -“Cuộc sống là một chuỗi trải nghiệm, mỗi trải nghiệm lại giúp ta lớn lao hơn, dù đôi khi khó nhận ra điều này. Bởi thế giới được dựng lên để phát triển bản lĩnh và ta phải học được rằng những bước lùi và nỗi đau ta phải chịu đựng giúp ta tiến về phía trước." - Henry Ford -“Bạn phải sống trong hiện tại, ném mình lên từng con sóng, đi tìm sự vĩnh hằng trong từng khoảnh khắc." - Henry David Thoreau -“Chúng ta không học được từ trải nghiệm… chúng ta học được từ việc suy ngẫm lại về trải nghiệm." - John Dewey -“Sự tương tác giữa tri thức và kỹ năng với trải nghiệm là chìa khóa của việc học hỏi." - John Dewey -“Hối tiếc trải nghiệm của bản thân là ngăn chặn sự phát triển của chính mình. Phủ nhận trải nghiệm của bản thân là thì thầm lời nói dối trên môi cuộc đời của chính mình. Điều đó không gì khác chính là phủ nhận tâm hồn mình." - Oscar Wilde -“ Nguồn tri thức duy nhất là kinh nghiệm - Al
10/01/2024(Xem: 1893)
Tôi bắt đầu dịch thơ của Thầy Tuệ Sỹ vì khâm phục đức độ và lòng dũng cảm của Thầy. Khi nhận được những góp ý từ những người hâm mộ thơ Thầy là bài dịch của tôi giúp họ hiểu thơ Thầy hơn, thì khi đó tôi mong muốn dịch toàn bộ các bài thơ của Thầy sang tiếng Anh. Cuốn sách này được viết vì cái mong muốn này đã lớn thành cái đam mê. Có dịch thơ của Thầy, tôi mới thấy rất rõ ràng những bài thơ của Thầy là một cống hiến to lớn không chỉ cho văn hóa Việt Nam mà còn cho Phật giáo thế giới. Thầy đã đem Thiền vào thơ bằng ngôn ngữ của một con suối, một hạt cải hay hai kẻ yêu nhau. Sự trừu tượng hóa này khiến cho rất khó hiểu được thơ Thầy. Nhiều bài, tôi phải suy nghĩ cả ngày, đôi khi cả mấy ngày, mới hiểu ẩn ý của Thầy. Công việc này không đam mê không làm được.
07/01/2024(Xem: 712)
Nước Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ban đầu chỉ là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, dần dần tiến về Nam sáp nhập nhiều phần lãnh thổ khác để có được diện mạo như hôm nay. Quá trình phát triển ấy cũng nhiều thăng trầm nghiệt ngã, có lúc tưởng như diệt vong nhưng rồi laị phục hồi và phát triển trở laị. Nước Việt chịu nhiều ảnh hưởng của các nền văn hoá: Trung Hoa, Ấn, Champa, Khme, Pháp, Mỹ…Ngay từ thuở ban đầu chỉ là thời đaị bộ lạc, bộ tộc. Tộc Việt cũng đã có một nền văn hoá riêng, tiếng nói riêng:
03/01/2024(Xem: 1698)
Nguyệt San Chánh Pháp số 145_tháng 12 năm 2023: Tâm chí nhỏ thì nhìn cuộc đời trong phạm vi trăm năm, thấy mục đích sống trong vòng gia đình, xã hội, tôn giáo, quốc gia. Tâm chí rộng hơn thì hướng đến lợi ích của nhân loại, của thế giới, trong hiện tại và nhiều thập niên hay thế kỷ tương lai.Giới hạn nhỏ, lớn là ở nơi không gian và thời gian. Mục tiêu nhỏ, lớn thì đặt nơi lợi ích của cá nhân hay số đông. Nhưng dù ngắn hạn hay dài hạn, con đường tất yếu của đời sống nhân loại là giáo dục. Con đường của Phật giáo ở cuộc đời này cũng không ngoài lãnh vực giáo dục, thuật ngữ thiền môn gọi là giáo hóa, hóa độ, hoằng pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567