Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

127. Kinh A-Na-Luật

19/05/202011:32(Xem: 6413)
127. Kinh A-Na-Luật

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com

127. Kinh  A-NA-LUẬT

( Anuruddha sutta )

     

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí  cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná   (1)

          Cấp-Cô-Độc Trưởng giả tín gia

             (A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka)   (1)

       Tín thành dâng đến Phật Đà trước đây.

 

          Một buổi mai, Panh-Cha-Kan-Gá  (2)

          Một thợ mộc, bảo gã người nhà :

 

        – “ Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha 

       Đang ở Tinh Xá Chê-Ta-Va-Nà

          Hãy đến, nhân danh ta cung kính

          Cúi đầu đính lễ dưới chân ngài,

              Thưa rằng : ‘Thỉnh ngài ngày mai

       Cùng ba vị nữa thân lai đến nhà

          Của thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá

          Để thọ thực. Tôn-giả vui lòng

              Đến sớm vào lúc hừng đông

       Bởi vì Gia-chủ chính trong lúc này

          Nhiều việc phải làm ngay chẳng đợi,

          Nhiều bổn phận đối với Quốc-vương ”.

   ____________________________

 

(1) : Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavana-vihàra  do Trưởng-giả Cấp Cô

     Độc – Anathapindika  dâng cúng đến Đức Phật.

(2) : Thợ mộc tên Pañcakanga.    

 

 

              Người nhà nghe nói tinh tường

       Vâng lời, đi đến Tăng đường Kỳ Viên

          Rồi đến liền tịnh thất an trú 

          Của Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha   (1)

             (Tức là A-Nậu-Lâu-Đà

       Hay A-Na-Luật cũng là ngài đây).

          Đảnh lễ ngài rồi thưa tất cả

          Lời của chủ – Panh-Chá-Kan-Ga.

 

              Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà

       Im lặng, là cách tỏ ra nhận lời.

 

          Đến hôm sau, lúc trời hừng sáng,

          Đêm đã mãn, Tôn-giả đắp y 

              Mang bát, cùng với ba vì

       Tỷ Kheo, rảo bước uy nghi đến nhà

          Của thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá

          Sau khi đến, an tọa nghiêm trang

              Chỗ đã được soạn sẵn sàng.

       Rồi vị thợ mộc cúng dàng thức ăn,

          Món quý trân loại mềm và cứng,

          Gia chủ đứng phục vụ hết lòng.

              Sau khi các vị ăn xong,

       Tay rời bình bát, rồi đồng đọc kinh

          Phúc chúc cho gia đình tín chủ.

    ____________________________

 

( ) :  Anuruddha  (còn có tên A-Nậu-Lâu-Đà, A-Nậu-Đà-La  hay

       A-Na-Luật ), một trong 7 vị vương-tử giòng Thích Ca xuất gia

       theo Phật khi Ngài đã thành đạo và trở về Kapilavatthu .

      Tôn-giả có tật hay ngủ gật khi nghe Phật thuyết pháp, bị Phật 

     quở trách, nên ngài phát nguyện không ngủ cho tới khi nào đắc

     quả.  Do sự cố gắng quá sức, nên hai  mắt ngài bị mù .  Sau đó

     ngài đắc quả A-La-Hán và được liệt vào Thập Đại Đệ Tử của

     Phật, bậc Thiên Nhãn Đệ Nhất.  

 

          Rồi Gia chủ thợ mộc nói trên

              Lấy ghế thấp ngồi một bên

       Hướng về Tôn-giả, thưa lên như vầy :

 

    – “ Bạch Tôn-giả ! Ở đây một dạo

          Các Tỷ Kheo Trưởng Lão nói rằng :   

             ‘Này Gia chủ ! Hãy tinh cần

       Vô-lượng-tâm giải-thoát năng tu trì’.

          Cũng có một số vì Trưởng Lão

          Thì lại bảo : ‘Hãy tu hằng ngày

              Đại-hành-tâm giải-thoát này’.

       Kính bạch Tôn-giả ! Như vầy phải chăng

          Hai pháp vừa khác văn, khác nghĩa

          Hay đồng nghĩa, khác biệt về văn ? ”. 

 

        – “ Này Gia chủ ! Chính từ tự thân

       Thế nào ông nghĩ về căn bản này ?

          Hãy nói ngay điều ông nghĩ ấy,

          Vấn đề đấy xác thật cho ông ”.

 

       – “ Thưa Tôn-giả ! Tự trong lòng

       Con nghĩ : ‘Hai pháp này đồng nghĩa nhau

          Nhưng khác văn. Thế nào tôn ý ? ”.

 

    – “ Này Gia chủ ! Phải nghĩ như vầy :

             ‘Vô-lượng-tâm giải-thoát đây

       Và đại-hành-tâm giải-thoát này, cả hai

          Những pháp này chúng vừa khác nghĩa

          Vừa khác văn, chặt chịa điều này’.

              Gia chủ cần hiểu như vầy,

       Hiểu đúng với pháp môn đây trình bày.

          Cư Sĩ này ! Thế nào hiểu đạt

          Vô-lượng-tâm giải-thoát thanh cao ?

              Tự thân vị Tỷ Kheo nào

       An trú biến mãn nhằm vào một phương,

          Tâm an tường với Từ câu hữu.

          Cũng như vậy, câu hữu phương hai

              Phương thứ ba, thứ tư này

       Cùng khắp thế giới, trong, ngoài, dưới, trên,

          Cả bề ngang, mọi bên phương xứ

          Khắp vô biên… an trú với Từ

              Quảng đại, vô biên, an như,

       Không sân, không hận, quảng từ, vô biên.

          Này Cư Sĩ ! Gọi liền chẳng khác

          Vô-lượng-tâm giải-thoát là đây.

 

              Còn thế nào để hiểu ngay

       Đại-hành-tâm giải-thoát này hành theo ?

          Ở đây, vị Tỷ Kheo cho tới

          Một gốc cây trú với lạc yên

              Biến mãn, thấm nhuần vô biên

       Cho đến vậy, khi tu Thiền trải qua

          Được gọi là đại-hành-tâm ấy

          Giải thoát vậy. Lại nữa xảy ra

              Tỷ Kheo cho đến hai, ba

       Gốc cây – trú, biến mãn qua, thấm nhuần

          Cho đến luôn khi Thiền định vậy.

 

          Hoặc vị ấy cho đến một làng,  

              Cho đến hai, ba ruộng, làng,

       Một đại vương-quốc – trú an, biến đầy,

          Thấm nhuần lớn, đến ngay như vậy

          Khi vị ấy tu Thiền trải qua,

              Tỷ Kheo cho đến hai, ba

       Đại vương-quốc như vậy mà trú an,

          Biến mãn toàn, thấm nhuần lớn đại, 

          Cho đến vậy, trong khi tu Thiền,

              Vì thế, nó được gọi liền :

      ‘Đại-hành-tâm giải-thoát’ riêng như vầy.

 

          Gia chủ này ! Phải nên hiểu rõ

          Hai pháp đó – khác nghĩa, khác văn.

              Gia chủ ! Có bốn hữu-sanh

      (Bốn sự sanh khởi) là danh mọi thời

          Cho một đời sống mới – nghĩa đó.

 

          Sao mà có bốn hữu-sanh vầy ? 

              Này Cư Sĩ ! Như ở sđây

       Một người với hào quang nay có chừng

         (Có hạn lượng) và từng an trú

          Biến mãn đủ, thấm nhuận muôn trùng,

              Sau khi thân hoại mạng chung 

       Được sanh và cộng trú cùng Chư Thiên

          Thiểu Quang Thiên. Rồi có vị khác

          Hào quang đạt vô lượng, trú an 

              Biến mãn, thấm nhuần vô vàn

       Sau khi thân hoại mạng chung, sinh liền

          Cõi Vô Lượng Quang Thiên, cộng trú.

 

          Này Gia chủ ! Lại nữa, có người 

              Hào quang tạp nhiễm chẳng rời

       An trú, biến mãn mọi nơi, thấm nhuần,

          Sau thân hoại mạng chung, sinh tới

          Cộng trú với Tạp Nhiễm Quang Thiên.

 

              Rồi lại có người thiện hiền

       Hào quang thanh tịnh và liền trú an

          Biến mãn toàn, thấm nhuần như vậy,

          Khi vị ấy thân hoại mạng chung

              Được sinh cộng trú ung dung

       Chư Thiên Biến Tịnh Quang, cùng nơi đây.

          Bốn loại hữu-sanh này là vậy.

 

          Một thời ấy, Chư Thiên các vì

              Tập họp tại một chỗ, thì 

       Thấy sự sai khác nhiều khi sắc màu,

          Không sai khác thuộc vào ánh sáng

          Của hào quang. Như dạng có người

              Cần nhiều đèn dầu đồng thời   

       Ung dung đi thẳng vào nơi một nhà

          Khi vào nhà, các cây đèn ấy

          Ngọn lừa cháy được thấy khác nhau

              Nhưng không có sai khác nào

       Về ánh sang các đèn dầu nói trên.

 

          Cũng vậy, nên hỡi này Cư Sĩ !    

          Có một thời các vị Chư Thiên

              Tập họp tại một chỗ, liền

       Thấy sự sai khác về duyên sắc màu

          Cũng thấy mau có sự sai khác

          Về hào quang của các vị Thiên.

              Các vị ấy không phan duyên

       Không nghĩ điều đó thường xuyên, thường còn,

          Thường hằng và sắt son thường trú,

          Nhưng Chư Thiên an trú chỗ nào

              Thời tại chỗ ấy trước sau

       Chư Thiên cùng sống với nhau thuận hòa,

          Sống thoải mái, như là ví dụ

          Các con ruồi trú ngụ la đà

              Trên đòn gánh, trong giỏ hoa

       Chúng không có nghĩ như là chính đây

          Thường còn hay thường hằng, thường trú              

          Cho chúng tôi cư ngụ lâu nào !

              Nhưng ruồi an trú nơi đâu

       Chỗ ấy chúng thoải mái vào sống an ”.

 

          Nghe nói vậy thì hàng Tôn-giả

          A-Phi-Dá Kách-Chá-Na (1) đây  

              Cùng đi thọ trai với ngài

       A-Nú-Rút-Thá. Vị này thưa ngay :

 

     – “ Tốt lành thay ! Thật là xác thực

          A-Na-Luật Tôn-giả trình bày 

              Ở đây, tôi có câu này

       Cần phải hỏi rõ, xin ngài giảng thêm.

          Thưa Tôn-giả ! Chư Thiên đây đó

          Các vị có phát ra hào quang,

              Đều có hạn lượng hào quang

       Hay một số có hào quang vô lường ? ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Tùy trường hợp cả !  

          Ở đây đã có nhiều Chư Thiên

              Hào quang vô lượng vô biên,

       Nhưng một số vị do duyên không toàn

          Có hào quang hạn lượng được tả ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà ! 

              Do nhân & duyên gì xảy ra   

       Nên dù các vị sinh qua cõi Trời

          Một số thời hào quang hạn lượng,

          Một số có vô lượng hào quang ? ”.

 

        – “ Này Hiền-giả ! Hãy sẵn sàng !

       Tôi hỏi Hiền-giả – nếu kham nhẫn, thời 

          Hiền-giả sẽ trả lời theo ý,

    ______________________

 

 ( ) : Vị Tôn-giả Abhiya Kaccana.

 

          Hiền-giả nghĩ thế nào điều này ?

              Tỷ Kheo cho đến một cây

       Thấm nhuần, biến mãn đủ đầy, trú an

          Trong khi đang tu Thiền tâm trụ.

          Hay Phích-Khú cho đến hai, ba

              Gốc cây – biến mãn đủ đầy

       Thấm nhuần, an trú như vầy, trong khi

          Đang tu Thiền, vậy thì căn cứ

          Trong hai sự tu tập tâm này

              Tu tập nào rộng lớn đây ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Tỷ Kheo đây như vầy

          Cho đến hai gốc cây & ba, bốn

          An trú, biến mãn lớn, thấm nhuần

              Trong khi tu thiền tập huân

       Sự tu tập đó đơn thuần hơn xa ”.

 

    – “ Hiền-giả Kách-Cha-Na ! Như vậy

          Tỷ Kheo ấy cho đến ruộng làng

              Một, hai hay ba ruộng làng

       Thấm nhuần, biến mãn, trú an như vầy,

          Cho đến ngay một đại vương-quốc

          Hai, ba đại vương-quốc – trú an

              Biến mãn, thấm nhuần vô vàn

       Cho đến như vậy khi đang tu thiền,

     … Cho đến tận hải biên xa thẳm

          Biến mãn và nhuần thấm, trú yên

              Xảy đến khi đang tu thiền,

       Như vậy tu tập tâm liền trước sau

          Sự tu tập tâm nào hơn cả ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả A-Nậu-Đà-La !

              Tỷ Kheo cho đến rất xa

       Giải đất tận hải biên mà trú an

          Biến mãn toàn, thấm nhuần rộng rãi

          Cho đến vậy khi đang tu thiền

              Trong hai sự tu tập trên

       Cho đến đất tận hải biên như vầy

          Sự tu tập tâm này hơn cả ”. 

 

    – “ Hiền-giả Kách-Cha-Ná ! Đó là

              Do nhân & duyên này xảy ra

       Chư Thiên ấy tuy sinh ra Thiên đường

          Một số thường hào quang hạn lượng,

          Một số có vô lượng hào quang ”.

 

        – “ Thưa Tôn-giả ! Tôi hiện đang

       Có một câu nữa cầm mang hỏi ngài :

         ‘Về hào quang hiển bày Thiên-chúng

          Có phải đúng tất cả hào quang

              Là tạp nhiễm hay hào quang

       Thanh tịnh của một số hàng Chư Thiên ? ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Tuy nhiên ở đó

          Nhiều vị Thiên cũng có hào quang

              Tạp nhiễm. Nhưng cũng có hàng

       Chư Thiên có hào quang toàn tịnh thanh ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Phát sanh như vậy

          Do nhân & duyên gì thấy rõ ràng

              Chư Thiên hoặc có hào quang

       Tạp nhiễm, hoặc có hào quang tịnh lành ? ”.

 

     – “ Này Hiền-giả ! Có nhanh ví dụ

          Nhờ ví dụ, người trí hiểu ngay

              Ý nghĩa của lời nói này :

       Như cây đèn cháy với đầy dầu dơ

          Tim đèn cũng đen dơ như vậy,

          Cây đèn ấy cháy rất mù mờ

              Vì dầu, tim đèn đều dơ.

 

       Cũng vậy, Phích-Khú xưa giờ trú an

          Biến mãn, thấm nhuần toàn thất niệm

          Với hào quang tạp nhiễm đêm ngày

              Thân dâm hạnh của vị này

       Không khéo chấm dứt, luôn hay hôn trầm,

          Thụy miên không quyết tâm chấm dứt

          Trạo cử, hối quá thực dẫy đầy

              Không được khéo nhiếp phục ngay.

       Vì những cớ ấy, vị này xem như

          Đèn cháy lên lừ đừ, yếu mãi.

          Khi thân hoại, sinh tới cõi Thiên

              Cộng trú cùng với Chư Thiên

       Có hào quang tạp nhiễm, duyên là vầy.

 

          Hiền-giả này ! Khi ngọn đèn ấy

          Được đốt cháy với cái tim đèn

              Và dầu sạch sẽ không đen

       Ngọn lửa tỏa sáng từ đèn dầu đây.   

          Hiền-giả này ! Tỷ Kheo an trú

          Biến mãn, thấm nhuần đủ như vầy

              Với hào quang thanh tịnh đây,

       Khi thân dâm hạnh vị này dứt ngay,

          Hôn trầm, thụy miên này dứt cả

          Và trạo cử, hối quá ở đây

              Được khéo nhiếp phục đêm ngày,

       Chính do vì vậy, vị này được xem

          Đã cháy lên ngọn lửa tỏ sáng,

          Khi thân hoại, đã mãn trần duyên    

              Được sinh cộng tru Chư Thiên

       Hào quang thanh tịnh lan truyền tỏa xa,.

 

          Kách-Cha-Na ! Trả lời Hiền-giả

          Do nhân này và cả duyên này

              Giữa Chư Thiên kể ở đây

       Cùng một Thiên-chúng, nhưng hay bất toàn

          Một số có hàn quang tạp nhiễm,

          Nhiều vị Thiên ưu điểm có ngay

              Hào quang thanh tịnh như vầy ”.

 

       Khi nghe nói vậy, thì ngài cùng đi

          Là A-Phi-Dá Kách-Cha-Ná

          Hướng Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha

              Thưa rằng : “ Lời giảng sâu xa

       Lành thay ! A-Nậu-Lâu-Đà Đại-sư !

          Chính Đại Sư đã không khẳng định

         ‘Như vậy chính tôi nghe’ lời này

              Hay ‘Sự việc đúng như vầy’.

       Trái lại Tôn-giả ở đây nói là :

         ‘Chư Thiên này đã là như vậy’,

         ‘Chư Thiên kia như vậy’ nói ra.

 

              Thưa Tôn-giả ! Tôi nghĩ là

       Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha – vị này

          Chắc chắn đã sống rày trước đó

          Đã đàm thoại trước đó nhiều thời

              Với Chư Thiên các cõi Trời ”.

 

 – “ Kách-Cha-Na Hiền-giả ! Lời của Sư

          Đến gần như là điều thách đố

          Để ta phải tuyên bố ra lời.

              Nhưng nay ta sẽ trả lời :

       Từ trước ta đã có thời sống qua,

          Đã đàm luận thật là tâm đắc

          Với Chư Thiên ở khắp gần xa ”. 

 

              Sau khi đã được nghe qua

       Lời vị Tôn-giả tại nhà Tín-gia

          Là thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá

          Thì Tôn-giả Kách-Chá-Na đây

              Nói với người thợ mộc này :

 

 – “ Thật là lợi ích tròn đầy cho ông !

          Khiến cho ông đoạn trừ nghi hoặc

          Những thắc mắc từ trước đến nay

              Được dịp nghe pháp môn này

       Từ A-Na-Luật là ngài Thánh Tăng ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *   *

 

( Chấm dứt Kinh số 127 : A-NA-LUẬT

–  ANURUDDHA  Sutta )



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/02/2024(Xem: 559)
Tôi lấy tựa đề này vì tôi thích ý tưởng của Nam Lê khi anh đặt tên cho chương đầu tiên trong quyển sách của anh có tên là ‘The Boat’ (Chiếc Thuyền), một quyển sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đoạt được nhiều giải thưởng văn học ở Anh, ở Úc và ở Mỹ. Chương sách đầu tiên đó được tác giả đặt một cái tên khá dài: ‘Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice’ (Tình Yêu và Danh Dự và Thương Hại và Kiêu Hãnh và Tình Thương và Hy Sinh).
21/02/2024(Xem: 486)
Cuộc đời của mỗi người ai cũng có cho riêng mình một vùng trời ký ức, chỉ là một đời sống bình dị thôi, nhưng lưu lại và đọng sâu trong trí nhớ. Giữa cuộc sống bộn bề ở nơi xứ người, có thể khiến người ta quên đi rất nhiều thứ. Nhưng chắc chắn rằng, tận sâu trong một góc của trái tim, luôn có hình ảnh quê nhà và hình bóng của Mẹ của cha. Nhớ những con đường dẫn vào nhà, trở về với những điều thân thuộc, về cùng với Mẹ bữa cơm chiều .....Và ký ức của tuổi thơ trở về .
07/02/2024(Xem: 475)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo. Sau đó vài năm, tôi viết thêm vài mục với lời tựa mới là ‘Thực Tiễn’. Bây giờ sau 10 năm, quyển sách lại được ‘tái sanh’ lần thứ ba với tựa mới ‘Kẻ Sống Lang Thang trên Bờ Biển’. Tôi đã thay tên mới, tên mà tôi cảm thấy thích hợp hơn cả. Từ trước đến nay, tôi luôn thích đi bộ dọc theo bờ biển nhìn sóng biển đưa vào đủ thứ thập vật: vỏ sò, đá cuội, gỗ mục, v.v.. . Đây là một lối nhìn khác về cuộc sống, mở ra cho thấy những điều không ngờ tới, rút ra được những bài học, tự hỏi ta có thể biến thành hữu dụng, những gì mà người khác cho là vô dụng
31/01/2024(Xem: 1249)
Hello có nghĩa Xin chào Goodbye tạm biệt, thì thào Whisper Lie nằm, Sleep ngủ, Dream mơ Thấy cô gái đẹp See girl beautiful I want tôi muốn, kiss hôn Lip môi, Eyes mắt ... sướng rồi ... oh yeah! Long dài, short ngắn, tall cao Here đây, there đó, which nào, where đâu
27/01/2024(Xem: 513)
Phần này bàn về các cách dùng Trì Trì, mlồi/mlô, chiem thành (~ Chiêm Thành/NCT) từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời hay sau đó. Nhân tiện nhìn rộng ra và bàn thêm về tên gọi Chàm, Chăm và *Lâm (trong quốc hiệu Lâm Ấp). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài
14/01/2024(Xem: 507)
Một buổi sáng, trên đồi hoang vu với tinh mơ còn vương chút nắng mới, những cánh hoa khép mình điêu tàn dưới bình minh tràn đầy nhựa sống. Tuy nhiên, cũng có những nụ hoa mới hé nở đang mơn trớn với thanh khí của đất trời giữa bao la thiên biến. Bên kia vòm trời, mây vẫn bay cho những cuộc mộng tàn phai trong từng phút giây sinh diệt. Con bướm đa tình cũng vờn dưới nắng mai giữa hoa tàn nguyệt tận của kiếp đời lưu biến. Sự sanh diệt của hiện tượng vạn hữu vẽ nên một bức tranh muôn màu cho thiên thu bất tận. Cái huyền diệu của cuộc đời hầu như phô diễn trùng trùng trước thiên di tuyệt náo. Khung trời mới của trăm nay hay nghìn năm về lại tắm gội dòng biến hiện giữa ngàn thu tuế nguyệt.
13/01/2024(Xem: 969)
Mời các bạn chiêm nghiệm nhưng danh ngôn để biết vị Thầy tốt nhất của mình bạn nhé! -“Cuộc sống là một chuỗi trải nghiệm, mỗi trải nghiệm lại giúp ta lớn lao hơn, dù đôi khi khó nhận ra điều này. Bởi thế giới được dựng lên để phát triển bản lĩnh và ta phải học được rằng những bước lùi và nỗi đau ta phải chịu đựng giúp ta tiến về phía trước." - Henry Ford -“Bạn phải sống trong hiện tại, ném mình lên từng con sóng, đi tìm sự vĩnh hằng trong từng khoảnh khắc." - Henry David Thoreau -“Chúng ta không học được từ trải nghiệm… chúng ta học được từ việc suy ngẫm lại về trải nghiệm." - John Dewey -“Sự tương tác giữa tri thức và kỹ năng với trải nghiệm là chìa khóa của việc học hỏi." - John Dewey -“Hối tiếc trải nghiệm của bản thân là ngăn chặn sự phát triển của chính mình. Phủ nhận trải nghiệm của bản thân là thì thầm lời nói dối trên môi cuộc đời của chính mình. Điều đó không gì khác chính là phủ nhận tâm hồn mình." - Oscar Wilde -“ Nguồn tri thức duy nhất là kinh nghiệm - Al
10/01/2024(Xem: 1888)
Tôi bắt đầu dịch thơ của Thầy Tuệ Sỹ vì khâm phục đức độ và lòng dũng cảm của Thầy. Khi nhận được những góp ý từ những người hâm mộ thơ Thầy là bài dịch của tôi giúp họ hiểu thơ Thầy hơn, thì khi đó tôi mong muốn dịch toàn bộ các bài thơ của Thầy sang tiếng Anh. Cuốn sách này được viết vì cái mong muốn này đã lớn thành cái đam mê. Có dịch thơ của Thầy, tôi mới thấy rất rõ ràng những bài thơ của Thầy là một cống hiến to lớn không chỉ cho văn hóa Việt Nam mà còn cho Phật giáo thế giới. Thầy đã đem Thiền vào thơ bằng ngôn ngữ của một con suối, một hạt cải hay hai kẻ yêu nhau. Sự trừu tượng hóa này khiến cho rất khó hiểu được thơ Thầy. Nhiều bài, tôi phải suy nghĩ cả ngày, đôi khi cả mấy ngày, mới hiểu ẩn ý của Thầy. Công việc này không đam mê không làm được.
07/01/2024(Xem: 706)
Nước Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ban đầu chỉ là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, dần dần tiến về Nam sáp nhập nhiều phần lãnh thổ khác để có được diện mạo như hôm nay. Quá trình phát triển ấy cũng nhiều thăng trầm nghiệt ngã, có lúc tưởng như diệt vong nhưng rồi laị phục hồi và phát triển trở laị. Nước Việt chịu nhiều ảnh hưởng của các nền văn hoá: Trung Hoa, Ấn, Champa, Khme, Pháp, Mỹ…Ngay từ thuở ban đầu chỉ là thời đaị bộ lạc, bộ tộc. Tộc Việt cũng đã có một nền văn hoá riêng, tiếng nói riêng:
03/01/2024(Xem: 1697)
Nguyệt San Chánh Pháp số 145_tháng 12 năm 2023: Tâm chí nhỏ thì nhìn cuộc đời trong phạm vi trăm năm, thấy mục đích sống trong vòng gia đình, xã hội, tôn giáo, quốc gia. Tâm chí rộng hơn thì hướng đến lợi ích của nhân loại, của thế giới, trong hiện tại và nhiều thập niên hay thế kỷ tương lai.Giới hạn nhỏ, lớn là ở nơi không gian và thời gian. Mục tiêu nhỏ, lớn thì đặt nơi lợi ích của cá nhân hay số đông. Nhưng dù ngắn hạn hay dài hạn, con đường tất yếu của đời sống nhân loại là giáo dục. Con đường của Phật giáo ở cuộc đời này cũng không ngoài lãnh vực giáo dục, thuật ngữ thiền môn gọi là giáo hóa, hóa độ, hoằng pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567