Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

90. Kinh Kannakatthala

19/05/202010:54(Xem: 7290)
90. Kinh Kannakatthala

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


90. Kinh  KANNAKATTHALA 

( Kannakatthala sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Đang du hóa tại Ú-Chun-Na  (1)

              Trú Kan-Ná-Kát-Tha-La  (2)

       Gần Lộc Uyển, cùng tịnh hòa Săng-Ga. (3)

 

          Vương quốc Kô-Sa-La cai trị

          Là Pa-Sê-Na-Đí Vương-gia

              Thân lâm đến U-Chun-Na

       Vì có công vụ cần qua nơi này.

          Ở tại đây, Vua liền ra lệnh

          Người hầu cận : “ Hãy đến ngay nơi

              Bậc Tôn quý nhất trên đời.  (4)

       Nhân danh ta, hãy tức thời khởi thân

          Đảnh lễ bậc Thiên Nhân Sư ấy,

          Cúi đầu lạy dưới chân Phật Đà,

              Hỏi thăm Ngài đã trải qua

       Có được ít bệnh cùng là khinh an ?

          Có mạnh khỏe, dễ dàng, lạc trú ?

          Thưa : ‘Quốc chủ nước Kô-Sa-La

              Là Ba-Tư-Nặc Vương-gia

       Nhờ con đảnh lễ Phật Đà thật sâu

          Thưa rằng : Sau điểm tâm ngự thiện

          Vua sẽ đến yết kiến Phật Đà ”.    

     _________________________

 

(1) : Ujunna .  (2) : Kannakatthala .  (3) : Sangha – phiên  âm là

      Tăng-Già.        (4) : Thế Tôn – Bhagava .

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  256

 

        – “ Tâu vâng ! Thần sẽ đi qua ”.

       Người ấy vâng đáp rồi ra đi liền.

 

          Ở cung riêng, nhưng khi biết chuyện

          Vua sẽ đến yết kiến Phật Đà,

              Sô-Ma và Sa-Ku-La            ( Soma & Sakula )

       Hai chị em đến gặp và thưa ra :

 

     – “ Tâu Đại Vương ! Thật là duyên phước !

          Thiếp biết được Đại Vương hôm nay

              Đến trú xứ Phật thăm Ngài,

       Xin cho chúng thiếp nơi đây gởi lời

          Thành kính đảnh lễ nơi chân Phật,

          Vấn an Phật giùm chúng thiếp đây ”.

 

              Sau điểm tâm, Vua đi ngay 

       Đến nơi, ông đảnh lễ Ngài, tự thân

          Cúi đầu lạy sát chân Đức Phật,

          Hỏi thăm Phật ít bệnh, khinh an ?

              Rồi một bên Phật ngồi sang

       Bạch Phật về việc hai nàng : Sô-Ma &

          Sa-Ku-La gởi lời đảnh lễ.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Không thể đến đây

              Tại sao hai chị em này

      Không nhờ người khác, nhờ ngài chuyện đây ?”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Cả hai nàng đó

          Được biết con sẽ có đến đây

              Để yết kiến, đảnh lễ Ngài,

       Nên cả hai đã đến ngay thiện-phòng

          Nhờ con chuyển tấm lòng cung kính

          Đến Thế Tôn, thanh tịnh Phật Đà ”.

 

         – “Đại Vương ! Nguyện phước hà sa

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  257

 

       Đến với Sô-Má cùng Sa-Ku-Là ”. 

           Quốc vương Kô-Sa-La kế tiếp

           Liền thuận dịp bạch với Phật Đà :

 

         – “ Bạch Thế Tôn ! Con nghe qua

       Rằng : ‘Sa-môn Gô-Ta-Ma nói là :

          Không một Sa-môn hay Phạm-chí

          Là bậc trí – toàn kiến, toàn tri

              Có thể tự cho là vì            

       Chứng được tri kiến diệu kỳ mãn viên.

          Điều như vậy dĩ nhiên không có’. 

          Bạch Phật ! Nếu như họ nói vầy

              Có phải là đúng lời Ngài,

       Họ không xuyên tạc, đúng ngay như vầy ?

          Họ giải thích pháp này đúng pháp ?

          Những ai nói đúng pháp, hợp thời

              Không ai có cơ hội rồi !

       Để mà chỉ trích những lời nói trên ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Nói lên như vậy  

          Lời nói ấy hư ngụy, tào lao.

              Khi bảo Ta nói như sau :

      ‘Không Phạm-chí, Sa-môn nào toàn tri

          Và toàn kiến, tức thì chứng đắc

          Tri kiến thật viên mãn, trải qua

              Điều ấy không thể xảy ra’.

       Họ nói không đúng lời Ta nói rồi !

          Và đồng thời xuyên tạc chủ ý

          Một cách rất hư ngụy, sai ngoa ”.

 

              Quốc vương nước Kô-Sa-La 

       Liền hỏi Vi-Đú-Đa-Phà Tướng quân :

 

   – “ Này Tướng quân ! Ai đem chuyện ấy   

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  258

 

          Vào nội cung, đồn bậy như vầy ? ”.

 

        – “ Tâu Phụ vương ! Chính vị này

       Sanh-Cha-Dá Bàn-môn đây phao truyền

          Dòng họ nguyên là A-Ka-Sá               ( Akasa )

          Ông ta đã nói lên như vầy ”.

 

              Vua Ba-Tư-Nặc gọi ngay

       Một người hầu cận đến đây, bảo là :

 

    – “ Hãy đến nhà Bàn-môn tên cả

          Là Sanh-Chá-Dá A-Ka-Sa,

              Rồi ngươi hãy nhân danh ta

        Truyền gọi ông ấy hãy qua gặp liền ”.

 

           Người ấy liền vâng theo vương lệnh

           Vội đi đến nhà Sanh-Cha-Da.          ( Sanjaya )  

 

              Quốc vương thưa với Phật Đà :

 – “ Bạch Phật ! Có thể xảy ra vấn đề

          Ngài nói về một chuyện khác hẳn,

          Người ta gán chuyện ấy khác đi.

              Bạch Ngài ! Liên hệ chuyện gì

       Mà Ngài xem đó mình duy nói thường ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Điều Ta tự biết  

          Đã nói ra chơn thiệt như sau :

             ‘Không Sa-môn, Bàn-môn nào

       Có thể cùng lúc biết mau hoàn toàn

          Đồng thời cũng hoàn toàn thấy rõ.

          Không thể có sự tình như trên ”.

 

        – “ Thế Tôn thuyết có nhân duyên,

       Thuyết liên hệ đến nhân duyên, nói là :

         ‘Không một Sa-môn, Bàn-môn nào đó

          Trong một lúc, biết rõ hoàn toàn

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  259

 

              Và cũng thấy rõ hoàn toàn.

       Sự tình như vậy không hằng xảy ra’.

          Bạch Phật-Đà ! Giai cấp nói tới :

          Sát-Đế-Lị cùng với Bàn-môn,

              Phệ Xá, Thủ Đà sinh tồn,

       Có gì sai biệt, vẫn còn khác nhau ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Hàng rào giai cấp

          Hai giai cấp : Sát-Lị & Bàn-môn

              Được xem tối thượng đáng tôn.

       Hai giai cấp thấp không tôn quý gì,

          Khi thấy họ, tức thì đứng dậy

          Chắp tay lại, ra sức làm ngay

              Công việc giai cấp trên sai ”.

 

 – “ Bạch Thiện Thệ ! Con hỏi ngay vấn đề

          Về tương lai, không về hiện tại.

          Xin hỏi lại : Sát-Lị, Bàn-môn,

              Phệ Xá, Thủ Đà… sinh tồn

       Có gì sai biệt, vẫn còn khác nhau ? ”.

 

     – “ Thưa Đại Vương ! Bàn vào việc ấy

          Tinh-cần-chi năm loại chánh chân.

              Thế nào là năm tinh cần ?

   *  Một vị Phích-Khú vững phần lòng tin :

          Rất vững tin giác ngộ của Phật :

          Ngài là bậc Ứng Cúng đại từ,

              Chánh Đẳng Giác, Thiên Nhân Sư,

       Thiện Thệ, Điều Ngự Trượng Phu, Phật Đà,

          Ngài cũng là bậc Thế Gian Giải,

          Vô Thượng Sĩ, bậc Đại Sa-Môn,

              Đấng Minh Hạnh Túc, Thế Tôn.

       Luôn tin tưởng Phật, Pháp môn hành đều.  

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  260

 

     *  Vị Tỷ Kheo ít bệnh, ít não,                          

          Sự tiêu hóa an hảo, điều hòa,

              Không lạnh quá, không nóng già,

       Hợp với tinh tấn, trải qua sớm chiều.

 

      *  Không gian ngoa, không điều xảo trá,

          Nêu rõ cả tự mình như chân

              Với bậc Đạo Sư, trí nhân,  

       Các đồng Phạm hạnh – mọi phần quang minh.

 

      *  Sống tự mình siêng năng, tinh tấn,

          Và diệt tận ác pháp các điều,    

              Thành tựu các thiện pháp nhiều,

       Kiên tâm trì chí, hướng chiều chân như.

 

      *  Với thiện pháp, không từ gánh nặng

          Có thù thắng trí tuệ tựu thành

              Về sự các pháp diệt sanh,

       Thể nhập của bậc Thánh nhân các ngài,

          Đưa đến ngay đoạn diệt khổ khốn.

 

          Đại Vương ! Bốn giai cấp vẫn còn :

              Sát-Đế-Lị, Bà-La-Môn,

       Thủ-Đà, Phệ-Xá… sinh tồn xưa nay,

          Nếu các giai cấp này thành tựu

          Tinh-cần-chi hiện hữu năm điều

              Sẽ đưa đến hạnh phúc nhiều,

       Lâu dài an lạc, triệt tiêu khổ sầu ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Nói vào giai cấp 

          Đã đề cập, nếu họ tựu thành

              Năm tinh-cần-chi tốt lành

       Có gì sai biệt ngọn ngành khác nhau ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Bàn vào chi tiết

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  216

 

          Ta nói đến sai biệt tinh cần.

              Như những con voi, thành phần

       Đáng được điều phục, hoặc nhân ngựa, bò

          Là nguyên do đáng điều phục nữa.

 

          Hai con voi, hai ngựa, hai bò

              Được khéo điều phục, luyện cho.

       Lại có hai ngựa, hai bò, hai voi

          Là những đôi không được huấn luyện,

          Không diễn tiến điều phục chuyên sâu.

              Thưa Đại Vương ! Ngài nghĩ sao

       Trường hợp hai ngựa ? Thế nào bò, voi ?

          Khéo huấn luyện nhà nòi, điều phục,

          Có phải được điều phục hay chăng ?

             ‘Khả năng điều phục’ đạt phần ?

    ( Tức Đanh-Ta-Ká-Rá-Năng – từ này )

          Đạt được ngay ‘vị trí điều phục’ ?

        ( Nguyên ngữ tức Đanh-Tá-Phu-Mi )

 

       – “ Thưa vâng ! Bạch Chánh Biến Tri ! ”.

 

 – “ Thưa Đại Vương ! Còn trong thì luyện cho     

          Hai con voi, hai bò, hai ngựa      

          Không được khéo luyện sửa tốt lành,

              Không khéo điều phục cho thành,

       Mà những con đó đạt nhanh về phần

          Là ‘khả năng điều phục’ hoàn mỹ

          Và ‘vị trí điều phục’ được không ? ”.

 

        – “ Thưa không, bạch đức Thế Tôn ! ”. 

 

 – “ Đại Vương ! Cũng vậy. Do lòng tin sâu,

          Do ít bệnh, không màu gian trá,

          Do tinh tấn… nên đã đạt thành.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  262

 

              Không thể do bất tín sanh,

       Không do nhiều bệnh, gian manh đạt vầy.

          Sự tình này không thể nào có ! ”.

 

    – “ Bạch Phật ! Ngài thuyết có nhân duyên,

              Thuyết liên hệ đến nhân duyên.

       Từ xưa, bốn giai cấp riêng sinh tồn :

          Sát-Đế-Lị, Bàn-Môn hai giới,

          Phệ-Xá với Thủ-Đà nêu danh.

              Nếu các vị ấy tựu thành

       Năm tinh-cần-chi tịnh thanh hành trì

          Thì có thể có chi khác biệt ?

          Có thể có sai biệt nào không ? ”.

 

       – “ Thưa Đại Vương ! Ta nói không ! 

       Không có khác biệt gì trong vấn đề

          Khi thuộc về phương diện giải thoát.

          Đối với sự giải thoát an từ.

              Thưa Đại Vương ! Ví dụ như :

       Một người đem củi khô từ Sa-la

          Rồi nhen lửa, hiện ra ngọn lửa.

          Những người nữa đem củi xoài khô,

              Hoặc mang củi cây mít khô,

       U-Đum-Ba-Rá cây khô đến liền,       ( Udumbara )

          Nhen lửa lên, dĩ nhiên lửa đỏ.

 

          Thưa Đại Vương ! Điều đó thế nào ?

              Các loại củi khô khác nhau

       Có gì sai khác giữa màu sắc, hay

          Giữa lửa này với ngọn lửa khác

          Giữa ánh sáng có khác nhau không ? ”.

 

        – “ Thưa không, bạch đức Thế Tôn ! ”. 

 

– “ Thưa Đại Vương ! Cũng vậy. Trong việc này,

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  263

 

          Sức nóng vầy tạo do tinh tấn,

          Do tinh tấn nhen nhúm mà ra.

              Ở đây Ta nói rõ là

       Không có sai biệt xảy ra điều mà

          Giải thoát và giải thoát khác đó ”.

 

    – “ Ngài thuyết có & liên hệ nhân duyên 

              Có hay không có Chư Thiên ? ”.

 

 – “ Đại Vương ! Sao lại hỏi lên điều này ? ”.    

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Chẳng hay Thiên Chúng

          Có phải đúng sanh lại tại đây ?

              Hay không sinh lại tại đây ? ”.

 

 – “ Đại Vương ! Thiên Chúng nào đầy hại tâm 

          Sanh lại nhằm tại đây, duyên báo.

          Chư Thiên không có não-hại-tâm

              Thì không tại đây sanh nhằm ”.

 

       Nghe Phật nói vậy, Tướng quân gần tòa

          Là Vi-Đu-Đa-Pha hoàng tử     

        ( Tỳ-Lưu-Ly ) đang dự, thưa liền :

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Các Chư Thiên 

       Não-hại-tâm có, sinh liền tại đây    

          Có thể đánh đuổi hay trục xuất

          Chư Thiên thuộc không não-hại-tâm

              Và không tại đây sanh nhằm ? ”.

 

       A-Nan Tôn-giả đứng gần Như Lai  

          Liền nghĩ ngay : “ Vi-Đu-Đa-Phá

          Hàng vương giả con của Đại Vương

              Còn ta con đấng Pháp Vương,

       Đã đến lúc cả hai phưong như vầy   

          Là hàng các con, nay luận tới,

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  264

 

          Nên nói với Vi-Đú-Đa-Pha :

 

        – “ Này Tướng quân ! Xin hỏi qua

       Phạm vi về vấn đề đà bàn sâu.

          Tướng quân nghĩ thế nào liên hệ

          Lãnh thổ vua Pa-Sế-Na-Đi

              Xa rộng, thuộc vua trị vì

       Vua có thể đánh đuổi đi tức thì,

          Trục xuất vì Sa-môn, Phạm-chí

          Là một vị có đức tu hành,

              Hay không công đức tu hành,

       Có sống Phạm hạnh & không hành hạnh đây ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Điều này có thể 

          Vua Pa-Sế-Na-Đí đuổi đi,

              Hay trục xuất họ tức thì ”.

 

 – “ Tướng quân ! Ngài sẽ nghĩ chi về điều

          Xa rộng ra, có nhiều lãnh thổ

          Là những chỗ không thuộc phạm vi

              Vua Ba-Tư-Nặc trị vì,

       Thì vua có thể đuổi đi các vì

          Sa-môn hay các vì Phạm-chí

          Có công đức hoàn mỹ tu trì

              Hay không công đức tu trì,

       Có thể trục xuất họ đi không nào ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Nói vào điều đó

          Vua rất khó có thể đuổi đi

              Khỏi chỗ vua không trị vì ”.

 

 – “ Tướng quân có biết các vì Chư Thiên ?

          Có nghe nói cõi Thiên Đao Lợi ? ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Có nghe tới Chư Thiên

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  265

 

              Cõ trời Tam Thập Tam Thiên.

       Phụ Vương cũng biết về Thiên cung này ”.

 

    – “ Này Tướng quân ! Ở đây ông nghĩ

          Vua Pa-Sê-Na-Đí có quyền

              Đánh đuổi, trục xuất Chư Thiên

       Cõi trời Đao Lợi khỏi Thiên cung này ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Điều đây không thể !

          Vua Pa-Sê-Na-Đí là người,

              Không thể thấy các vị trời

       Làm sao trục xuất, đuổi dời Chư Thiên

          Tại cõi Thiên Ba Mươi Ba ấy ”.

 

    – “ Tướng quân ! Cũng như vậy, suy tầm

              Chư Thiên có não-hại-tâm

       Thì các vị sanh lại nhằm tại đây,

          Không thấy rày Chư Thiên an hảo

          Không có não-hại-tâm như vầy

              Mà không sanh lại tại đây,

       Làm sao tẩn xuất các ngài Chư Thiên

          Không hiện tiền có tâm não-hại

          Không sanh lại tại đây, trải qua ”.

 

              Vua Ba-Tư-Nặc nghe qua  

       Liền thưa Phật : “ Bạch Phật Đà Toàn Tri !

          Tỷ Kheo ấy là gì tên gọi ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Thường gọi A-Nan ”. 

 

        – “ Hoan hỷ thay ! Thật hân hoan !

       Vị Tôn-giả tên A-Nan-Đa này.

          Thuyết đủ đầy nhân duyên như thế   

          Thuyết liên hệ nhân duyên ở trong.

              Bạch Phật ! Có Phạm Thiên không ? ”.  

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  266

 

 – “ Đại Vương ! Sao hỏi có không việc vầy ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Con đây hỏi lại :

          Phạm Thiên có sanh lại tại đây

              Hay không sanh lại tại đây ? ”.     

 

 – “ Đại Vương ! Phạm Thiên nào đầy hại tâm

          Phạm Thiên ấy liền tầm sanh tới,

          Còn đối với các vị Phạm Thiên

              Không não-hại tâm triền miên

       Thời không sanh lại hiện tiền tại đây ”.

 

          Lúc ấy từ bên ngoài vào tới    

          Một vị quan tâu với vua là :

        – “ Tâu Đại Vương ! Sanh-Cha-Da  

       Bà-la-môn thuộc họ A-Ka-Sà

          Đã đến và xin vào yết kiến ”. 

 

          Khi tiếp kiến, vua hỏi vị này :

        – “ Này Bà-La-Môn ! Là ai

       Đã phổ biến câu chuyện này trong cung ? ”.

 

     – “ Tâu lạy đấng Cửu Trùng cao cả !

          Chính Vi-Đu-Đa-Phá (1) Tướng quân ”.

 

              Nhưng Tỳ-Lưu-Ly (1) Tướng quân   

       Lại đổ lỗi ấy về phần đối phương :

 

     – “ Tâu Phụ Vương ! Chính A-Ka-Sá 

          Tức là Sanh-Cha-Dá Bàn-môn

              Trong nội cung, đã phao đồn ”.

 

       Lúc ấy, thị vệ kính tôn thưa là :

    – “ Tâu Đại Vương ! Nay đà đến lúc

          Ngự long xa tiếp tục để đi ”.

     __________________________

 

( ) : Xem chú thích ở Kinh số 87 : Ái Sanh ( Piyajàtika ).

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  267

 

              Đức vua Pa-Sê-Na-Đi

       Bạch Phật : “ Bạch Chánh Biến Tri ! Vừa rồi

          Con tùy thời hỏi Ngài nghĩa lý

          Vấn đề nhất-thiết-trí minh quang,

              Thế Tôn trả lời rõ ràng

       Làm con thoải mái, vô vàn hân hoan,

          Được chúng con sẵn sàng chấp nhận.

          Ngài tường tận lại giải thích rành

              Bốn giai cấp sao tịnh thanh ?

       Tiếp theo con hỏi ngọn ngành Chư Thiên

          Rồi Phạm Thiên – Ngài đều giải đáp

          Rất thích hạp, khiến con hân hoan

              Thoải mái, chấp nhận dễ dàng,

       Vì con hoan hỷ, hoàn toàn giải nghi.

          Những điều gì chúng con đã hỏi

          Ngài liền nói tường tận, sâu xa.

 

              Bạch đức Thế Tôn Phật Đà !   

       Chúng con phận sự rất là đa đoan

          Nhiều công vụ còn dang dở cả,

          Xin từ giã Thế Tôn để đi ”.

 

        – “ Đại Vương hãy làm những gì 

       Mà ngài nghĩ phải thực thi, hợp thời ”.

 

          Vua tín thọ những lời Thiện Thệ

          Đứng dậy rồi đảnh lễ Như Lai

              Thân bên hữu hướng về Ngài,

       Đoạn vua rời khỏi nơi này ra đi ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

*  *  *

(  Chấm dứt  Kinh  số 90  :  KANNAKATTHALA   –

KANNAKATTHALA   Sutta  )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/02/2024(Xem: 559)
Tôi lấy tựa đề này vì tôi thích ý tưởng của Nam Lê khi anh đặt tên cho chương đầu tiên trong quyển sách của anh có tên là ‘The Boat’ (Chiếc Thuyền), một quyển sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đoạt được nhiều giải thưởng văn học ở Anh, ở Úc và ở Mỹ. Chương sách đầu tiên đó được tác giả đặt một cái tên khá dài: ‘Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice’ (Tình Yêu và Danh Dự và Thương Hại và Kiêu Hãnh và Tình Thương và Hy Sinh).
21/02/2024(Xem: 486)
Cuộc đời của mỗi người ai cũng có cho riêng mình một vùng trời ký ức, chỉ là một đời sống bình dị thôi, nhưng lưu lại và đọng sâu trong trí nhớ. Giữa cuộc sống bộn bề ở nơi xứ người, có thể khiến người ta quên đi rất nhiều thứ. Nhưng chắc chắn rằng, tận sâu trong một góc của trái tim, luôn có hình ảnh quê nhà và hình bóng của Mẹ của cha. Nhớ những con đường dẫn vào nhà, trở về với những điều thân thuộc, về cùng với Mẹ bữa cơm chiều .....Và ký ức của tuổi thơ trở về .
07/02/2024(Xem: 475)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo. Sau đó vài năm, tôi viết thêm vài mục với lời tựa mới là ‘Thực Tiễn’. Bây giờ sau 10 năm, quyển sách lại được ‘tái sanh’ lần thứ ba với tựa mới ‘Kẻ Sống Lang Thang trên Bờ Biển’. Tôi đã thay tên mới, tên mà tôi cảm thấy thích hợp hơn cả. Từ trước đến nay, tôi luôn thích đi bộ dọc theo bờ biển nhìn sóng biển đưa vào đủ thứ thập vật: vỏ sò, đá cuội, gỗ mục, v.v.. . Đây là một lối nhìn khác về cuộc sống, mở ra cho thấy những điều không ngờ tới, rút ra được những bài học, tự hỏi ta có thể biến thành hữu dụng, những gì mà người khác cho là vô dụng
31/01/2024(Xem: 1251)
Hello có nghĩa Xin chào Goodbye tạm biệt, thì thào Whisper Lie nằm, Sleep ngủ, Dream mơ Thấy cô gái đẹp See girl beautiful I want tôi muốn, kiss hôn Lip môi, Eyes mắt ... sướng rồi ... oh yeah! Long dài, short ngắn, tall cao Here đây, there đó, which nào, where đâu
27/01/2024(Xem: 514)
Phần này bàn về các cách dùng Trì Trì, mlồi/mlô, chiem thành (~ Chiêm Thành/NCT) từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời hay sau đó. Nhân tiện nhìn rộng ra và bàn thêm về tên gọi Chàm, Chăm và *Lâm (trong quốc hiệu Lâm Ấp). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài
14/01/2024(Xem: 515)
Một buổi sáng, trên đồi hoang vu với tinh mơ còn vương chút nắng mới, những cánh hoa khép mình điêu tàn dưới bình minh tràn đầy nhựa sống. Tuy nhiên, cũng có những nụ hoa mới hé nở đang mơn trớn với thanh khí của đất trời giữa bao la thiên biến. Bên kia vòm trời, mây vẫn bay cho những cuộc mộng tàn phai trong từng phút giây sinh diệt. Con bướm đa tình cũng vờn dưới nắng mai giữa hoa tàn nguyệt tận của kiếp đời lưu biến. Sự sanh diệt của hiện tượng vạn hữu vẽ nên một bức tranh muôn màu cho thiên thu bất tận. Cái huyền diệu của cuộc đời hầu như phô diễn trùng trùng trước thiên di tuyệt náo. Khung trời mới của trăm nay hay nghìn năm về lại tắm gội dòng biến hiện giữa ngàn thu tuế nguyệt.
13/01/2024(Xem: 969)
Mời các bạn chiêm nghiệm nhưng danh ngôn để biết vị Thầy tốt nhất của mình bạn nhé! -“Cuộc sống là một chuỗi trải nghiệm, mỗi trải nghiệm lại giúp ta lớn lao hơn, dù đôi khi khó nhận ra điều này. Bởi thế giới được dựng lên để phát triển bản lĩnh và ta phải học được rằng những bước lùi và nỗi đau ta phải chịu đựng giúp ta tiến về phía trước." - Henry Ford -“Bạn phải sống trong hiện tại, ném mình lên từng con sóng, đi tìm sự vĩnh hằng trong từng khoảnh khắc." - Henry David Thoreau -“Chúng ta không học được từ trải nghiệm… chúng ta học được từ việc suy ngẫm lại về trải nghiệm." - John Dewey -“Sự tương tác giữa tri thức và kỹ năng với trải nghiệm là chìa khóa của việc học hỏi." - John Dewey -“Hối tiếc trải nghiệm của bản thân là ngăn chặn sự phát triển của chính mình. Phủ nhận trải nghiệm của bản thân là thì thầm lời nói dối trên môi cuộc đời của chính mình. Điều đó không gì khác chính là phủ nhận tâm hồn mình." - Oscar Wilde -“ Nguồn tri thức duy nhất là kinh nghiệm - Al
10/01/2024(Xem: 1889)
Tôi bắt đầu dịch thơ của Thầy Tuệ Sỹ vì khâm phục đức độ và lòng dũng cảm của Thầy. Khi nhận được những góp ý từ những người hâm mộ thơ Thầy là bài dịch của tôi giúp họ hiểu thơ Thầy hơn, thì khi đó tôi mong muốn dịch toàn bộ các bài thơ của Thầy sang tiếng Anh. Cuốn sách này được viết vì cái mong muốn này đã lớn thành cái đam mê. Có dịch thơ của Thầy, tôi mới thấy rất rõ ràng những bài thơ của Thầy là một cống hiến to lớn không chỉ cho văn hóa Việt Nam mà còn cho Phật giáo thế giới. Thầy đã đem Thiền vào thơ bằng ngôn ngữ của một con suối, một hạt cải hay hai kẻ yêu nhau. Sự trừu tượng hóa này khiến cho rất khó hiểu được thơ Thầy. Nhiều bài, tôi phải suy nghĩ cả ngày, đôi khi cả mấy ngày, mới hiểu ẩn ý của Thầy. Công việc này không đam mê không làm được.
07/01/2024(Xem: 707)
Nước Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ban đầu chỉ là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, dần dần tiến về Nam sáp nhập nhiều phần lãnh thổ khác để có được diện mạo như hôm nay. Quá trình phát triển ấy cũng nhiều thăng trầm nghiệt ngã, có lúc tưởng như diệt vong nhưng rồi laị phục hồi và phát triển trở laị. Nước Việt chịu nhiều ảnh hưởng của các nền văn hoá: Trung Hoa, Ấn, Champa, Khme, Pháp, Mỹ…Ngay từ thuở ban đầu chỉ là thời đaị bộ lạc, bộ tộc. Tộc Việt cũng đã có một nền văn hoá riêng, tiếng nói riêng:
03/01/2024(Xem: 1698)
Nguyệt San Chánh Pháp số 145_tháng 12 năm 2023: Tâm chí nhỏ thì nhìn cuộc đời trong phạm vi trăm năm, thấy mục đích sống trong vòng gia đình, xã hội, tôn giáo, quốc gia. Tâm chí rộng hơn thì hướng đến lợi ích của nhân loại, của thế giới, trong hiện tại và nhiều thập niên hay thế kỷ tương lai.Giới hạn nhỏ, lớn là ở nơi không gian và thời gian. Mục tiêu nhỏ, lớn thì đặt nơi lợi ích của cá nhân hay số đông. Nhưng dù ngắn hạn hay dài hạn, con đường tất yếu của đời sống nhân loại là giáo dục. Con đường của Phật giáo ở cuộc đời này cũng không ngoài lãnh vực giáo dục, thuật ngữ thiền môn gọi là giáo hóa, hóa độ, hoằng pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567