Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03-Ðức Thanh Tịnh

06/02/201115:45(Xem: 2307)
03-Ðức Thanh Tịnh

ĐẠOPHẬT VÀ TUỔI TRẺ
Hòa thượng ThíchThanh Từ
-03-

Ðức Thanh Tịnh

Muốn xây dựng mộtxã hội tốt đẹp mà không lo hoán cải con người, ấy chỉlà việc mò trăng đáy giếng. Nhằm mục đích xây dựng xãhội, đạo Phật bắt đầu hoán cải từng cá nhân, chẳngnhững trong hạng thành niên, mà đến hàng trẻ thơ non dại.Nền tảng tạo thành một con người tốt đẹp là thanh tịnh.Thanh tịnh là trong sạch. Trong sạch không có nghĩa thoát lyngoài cảnh trần tục, mà chỉ ở ngay trong cõi đời ô trược,nhưng không bị nhiễm ô, thế mới thật là trong sạch. Nhưhoa sen tuy nằm giữa đống bùn nhớp nhúa, mà hương vị vẫnthơm tho. Vì thế khi nói đến đức thanh tịnh, đạo Phậthằng mượn hoa sen để biểu thị. Ðức Phật nghiễm nhiênngự trên đài sen. Muốn thực hiện đức thanh tịnh, ngườiPhật tử tập dần từ thô đến tế, từ cạn đến sâu theothứ tự: hành độâng thanh tịnh, ngôn ngữ thanh tịnh, vàtư tưởng thanh tịnh.

Hành động thanh tịnh.

Trước nhất người Phật tử giữgìn thân thể sạch sẽ, sự ăn mặc vén khéo giản dị, chođến khi đi đứng phải đoan chính; tránh mọi xa hoa, phù phiếmvà vô độ. Mặc một bộ đồ bóng dợn, ướp nước hoa nồngnặc... cử chỉ ấy, đối với người Phật tử vẫn thấykhông thanh tịnh chút nào.

Người Phật tử lập đức thanhtịnh, không bao giờ ỷ tài năng thế lực đánh đập, lấnhiếp người hay vật khi thấy họ thân cô, thế quả. Càngtránh xa hơn, đối với sự giết hại dù con vật nhỏ bévô cớ, người Phật tử không nỡ giết. Vì đó là hành độngxấu xa. Cho đến một cái nhìn ngạo nghễ, một cử chỉ khinhkhi, người Phật tử cũng không khi nào có. Bởi vì một hànhđộng xấu xa dù lớn, dù bé cũng có thể làm hoen ố đờitrắng trong của người Phật tử. Họ tránh xa những cử chỉxấu như người hiền tránh xa những đám ẩu đả và đôichối.

Những hành động bạo ác, ngườiPhật tử không bao giờ làm, nhưng với cử chỉ lành, hànhđộng tốt, họ tích cực hoạt động. Vì hành động thanhtịnh không phải chỉ bảo thủ riêng mình mà phải cứu giúpnâng đỡ mọi người. Bởi thế nên bàn tay Phật tử lúcnào cũng chực vuốt thẳng những nét nhăn trên trán cho kẻthảm sầu, thoa dịu những vết thương cho người đau khổvà lau khô giòng lệ lăn trên má của cô nhi... Bàn tay ấysẽ mở lồng cho đàn chim sắp bị nhổ lông được vỗ cánhtung bay về bầu trời cao rộng, vỗ về một con vật bị ngườihành phạt đau thương, cho đến lượm gai trên đường rộngvà nhặt đá trên lộ quan... Tựu trung, mọi hành động trênđều nhằm mục đích cứu người, cứu vật.

Ngôn ngữ thanh tịnh.

Lời nói là một lợi khí rất sắcbén, nó có thể giết người, giết mình một cách dễ dàng,nếu là lời nói ác. Nên Phật dạy: "Người đời luỡibúa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ giết mình do lời nóiác."Lời nói ác không chỉ mắng chửi, trù rủa... màlà nói lời ngọt như đường, êm như nhạc, nhưng để lừabịp người, cũng là nói ác. Lời nói ác tức là bất tịnh,ô uế, nên người Phật tử không bao giờ để nó thốt ranơi cửa miệng mình. Nếu lỡ vô tình hay bại trận vì cơnnóng giận đã thốt ra những lời thô ác, người Phật tửlấy làm nhục nhã, xấu hổ, phải chí thành sám hối và tuyệtđối không dám tái phạm.

Lời nói có thể là lưỡi kiếmbén giết người nếu trong tay kẻ bạo ác, thì nó cũng cóthể là cây đuốc sáng đưa người ra khỏi rừng mê, hay hoànlinh đơn cứu người trong cơn bệnh ngặt nếu trong tay nhàđạo đức, kẻ từ tâm. Vì thế người Phật tử cấm chỉnói lời thô ác, nhưng thao thao nói những lời hiền hòa, êmdịu và chân thật. Rất cần những lời nói hiền hòa đểkhỏa bằng hầm hố thù hiềm đã đào sâu giữa mình và người,hoặc người với người. Có những lời êm dịu, ta mới khuyênlơn được những người uất hận khi gặp cảnh nghịch lòng,kẻ thất chí vì tình đời phụ bạc và tát vơi được phầnnào nguồn lệ thảm của người tật nguyền, khốn khổ...Nhờ lời nói chân thật mới xiển dương được chân lý vàvạch rõ lẽ chánh tà. Tóm lại, tất cả lời nói có tánhcách giúp ích người, có lợi cho xã hội đều là lời thanhtịnh, người Phật tử phải hằng tập và nói những lờiấy.

Tư tưởng thanh tịnh.

Ðộng cơ chính gây nên tội ác,hoặc khiến đời sống con người phải ngầu đục, nhớpnhơ trong biển sanh tử là tư tưởng; ngược lại, tạo vôlượng phước đức đưa con người đến quả thanh tịnh giảithoát cũng do tư tưởng. Tư tưởng thủ một vai trọng yếunhất trong đời người. Người nên, hư, tốt, xấu, tiến,thối... đều do tư tưởng quyết định. Vì thế người Phậttử phải gạn lọc đào thải những tư tưởng xấu, tăngtrưởng những tư tưởng tốt, để tâm hồn được thanh tịnh.

Muốn đào thải những tư tưởngxấu, ta phải anh dũng chiến thắng bọn giặc tham lam, sânhận, tự ái, ngã mạn..., xua đuổi chúng ra ngoài tâm giớita. Bọn chúng được kêu một danh từ gọn hơn là "phiềnnão", ngày nào bọn phiền não còn lẫn trong tâm ta, thì ngàyấy trí ta rối loạn, tâm ta vẩn đục. Phiền não là sóng,là cấu bợn, mà tâm là nước. Sóng dừng, cấu bợn lặng,tức là tâm nước trong. Sự ngầu đục trong tâm hồn ta bởiphiền não tạo nên, ta có thể dùng một vài bằng chứng đểminh xác nó. Một tên bợm móc túi, sở dĩ dám thò tay móctúi người trước "thập mục sở thị" là vì nó chỉ thấycó tiền... hay nói bằng cách khác, nó trở thành tôi mọicủa lòng gian tham sai sử. Nên chi lúc ấy, nó có thấy gìtù tội, biết gì xấu xa. Một bằng chứng nữa, khi ta gặpcảnh nghịch ý, cơn giận dữ nổi lên, khi đó ta còn đủlý trí suy xét phải quấy nữa chăng, hay mặc tình để chocon quỉ giận dữ thúc đẩy? Nếu còn suy nghĩ kịp thì cơngiận tan, bởi đã nô lệ bọn quỉ sân hận, nên mới xảyra cuộc xô xát bằng miệng, bằng tay. Người Phật tử muốngạn lọc tư tưởng thanh tịnh quyết phải quả cảm, tíchcực thanh trừng bọn giặc phiền não còn trú ẩn trong tâmmình.

Chẳng những thế, Phật tử cầntăng trưởng tư tưởng từ bi hỉ xả. Tâm ta chẳng khác mộtmảnh đất mầu mỡ, nếu không có lúa khoai thì cỏ dại mọc.Cũng thế, khi ta nhổ hết cỏ dại phải giâm giống lúa khoai,nếu để đất trống thì cỏ sẽ mọc lại. Trong khi cựclực chiến đấu với những phiền não, Phật tử không quêntăng cường tâm từ bi, hỉ xả... vì đó là nước cam lồđể gột rửa những nghiệp cấu bợn phiền não đang khắnchặt trong tâm hồn ta. Và nó cũng là đám mưa tưới mát muônloài đang bị lửa phiền não thiêu đốt.

Tóm lại, trong ba món thanh tịnh,tư tưởng là quan trọng hơn cả, do đó người Phật tử tuđức thanh tịnh, xem tư tưởng là phần thiết yếu nhất,gạn lọc tư tưởng thanh tịnh rồi, ngôn ngữ, hành độngtùy đó mà thanh tịnh. Như nước ở hồ lọc trong rồi, khimở vòi nào cũng đều chảy nước trong cả.

CON NGƯỜI THANH TỊNH HOÀN CẢNHCŨNG THANH TỊNH

Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàncảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh. Hoàn cảnh không nhất địnhtốt, xấu, nhơ, sạch tùy hành động tư tưởng con ngườimà chuyển theo. Một nhóm người văn minh trí thức dù ở nơithôn dã hoang vắng, nhưng một thời gian cảnh ấy sẽ trởthành tốt đẹp, thị tứ. Trái lại, một bọn người rừngchẳng hạn, cho ở giữa đô thành hoa lệ, một thời gian đôthành ấy sẽ biến ra cảnh nhớp nhúa xấu xa, nếu họ khôngđược cải thiện... Bởi thế, đạo Phật muốn cải thiệnxã hội, cải thiện quốc gia trước tiên phải cải thiệncon người. Muốn cải thiện con người, đầu tiên phải cảithiện tư tưởng. Như vậy tư tưởng, ngôn ngữ và hành độngcon người thanh tịnh thì chính cõi Ta-bà này đã thành Tịnhđộ rồi, hay thế giới này chính là thế giới Cực Lạcvậy. Ta muốn sanh về Tịnh độ, thì chính ta phải thanh tịnhtrước đã. Kinh có câu: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồngPhật vãng Tây phương."Nghĩa là: "Thân, miệng và ýhằng trong sạch, sẽ đồng như chư Phật sanh về cõi Phật."Thế mà, có một số người ước mơ sanh về cõi Cực Lạcmà miệng vẫn nói ác, tâm vẫn tham, giận... thật là tráilẽ. Tu bằng cách đó chỉ làm trò cười cho thiên hạ màthôi. Người Phật tử chân chánh không mơ ước gì hơn, ướcmơ con người mình được thanh tịnh, không tranh đấu nàobằng tranh đấu với phiền não ở nội tâm. Thắng đượcphiền não, toàn thân đều thanh tịnh, thế là vạn vật tùytâm, sống một cuộc đời tự do tự tại.

Từ trên đến đây, đã thấy đứcthanh tịnh là căn bản của người tu Phật, chẳng những cănbản của người tu, mà đức thanh tịnh cũng là cội nguồncủa một xã hội văn minh; văn minh đúng với thật nghĩa củanó. Cho nên, bất luận trong đạo, ngoài đời nếu ai muốncải thiện đời mình, cải thiện xã hội đều phải tu tậpđức thanh tịnh cả... Nhưng gần nhất và cần yếu nhấtlà Phật tử, đã biết đi chùa, lễ Phật nghe kinh mà khôngáp dụng triệt để đức thanh tịnh vào đời sống của mình,thật là phản bội với tên Phật tử.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 121181)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15677)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10936)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24412)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13268)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15595)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31553)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12239)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6796)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26763)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567