Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07-Phương pháp lập nghiệp vĩnh cửu

06/02/201115:45(Xem: 2403)
07-Phương pháp lập nghiệp vĩnh cửu

ĐẠOPHẬT VÀ TUỔI TRẺ

Hòa thượng ThíchThanh Từ
-07-

Phương pháp lậpnghiệp vĩnh cửu

Ðã làm người, aikhông muốn lập công danh hiển hách, sựï nghiệp vẻ vangđể lưu truyền vạn đại. Sự ước mong là thế, nhưng trênđường lập nghiệp đã biết bao người, hoặc đuối sứcquằn quại tắt thở bên vệ đường, khi nhìn thấy thànhtrì sự nghiệp còn xa lắc; hoặc đã rỗ chân, sầy trán màtìm không thấy bóng thành trì sự nghiệp ở đâu, rồi âmthầm nuốt hận quay về với hai bàn tay trắng và gương mặthốc hác héo sầu. May ra, cũng có vài người đến thành sựnghiệp, nhưng khi đến nơi nó đã trở thành giả ảnh tantheo như sương mù buổi sớm, bọt nước chiều hôm.

Tại sao có những cuộc dở dangvà thất bại ê chề trên con đường tìm sự nghiệp?

Là vì động cơ lập nghiệp củangười đời là lòng tham, mà lòng tham không bờ bến, cònsức người có chừng; nên chi đều thất vọng. Người ômlòng tham chạy tìm sự nghiệp, thì ôi! Khác gì kẻ mang kiếngxanh soạn tìm tờ giấy trắng, biết bao giờ gặp được.Ngày xưa có một nhà vua muốn xem thử lòng tham của ngườilên đến độï nào. Ông ra lệnh cho một lực sĩ rằng: "Từmai sớm khi mặt trời hừng mọc, cho đến chiều hôm khi mặttrời vừa lặn, ngươi chu vi đất được bao nhiêu ta sẽ chongươi hết." Chàng lực sĩ hớn hở lui về, dự bị lươngthực dùng một ngày. Hôm sau vừa sớm tinh sương, chàng chựcsẵn trước đền vua. Mặt trời vừa ló dạng, chàng cắmđầu chạy. Chàng chạy hăng quên cả cơm nước. Mặt trờiđã đứng đầu, chàng nhìn quay lại thấy khu đất còn nhỏxíu. Bóng đã ngả dài, tranh thủ với thời gian, chàng chạynhanh hơn, cho đến thân hình chàng chỉ còn là một vật chaođộng dưới bóng mặït trời. Vầng ô vừa kề đầu núi,chàng vận dụng hết tàn lực chạy cho đến đích, khi mặttrời vừa lặn. Ðến đích, thì ôi! Chàng chỉ còn là mộtxác không hồn.

Lại nữa, nền móng và nguyên liệuxây cất sự nghiệp, người đời đã đặt và dùng sai lầm,nên chỉ sớm đổ vỡ. Tòa lâu đài sự nghiệp họ đặttrên vũng bùn tham lam, nguyên liệu xây cất tòa lầu ấy, toànbằng xương và máu thì làm sao thành tựu vững bền được!Bằng chứng, sự nghiệp của Tần Thủy Hoàng ở Trung Hoa hồithế kỷ thứ III rất to tát và vĩ đại, nhưng kết tinh bởilòng tham lam và xây đắp bằng xương máu của muôn dân, nênchi ông cố tìm mọi phương thế để gìn giữ nó, mà rốtcuộc cũng không trường tồn. Ðến công nghiệp vẻ vang vàoai hùng của Napoléon ở Pháp vào đầu thế kỷ XIX, cũng dođộng cơ tham lam vô bờ bến của ông. Muốn thôn tính hếtcác nước Âu châu, nên công nghiệp ấy chóng tàn như hoa phùdung buổi sáng, và sau cùng ông bị an trí tại đảo SainteHélène. Lại giữa thế kỷ XX, sự nghiệp rực rỡ nhất thờicủa Hitler đã làm vang động thế giới, nhưng cũng bởi lòngtham muốn làm bá chủ thế giới, nên ước nguyện chưa thànhmà đời ông đã mai một... Có câu: "Xây dựng sự nghiệpmình trên xương máu của người chỉ là mầm tan hoại."

Như trên đã thấy, càng tham lambao nhiêu thì càng chóng tan hoại và đổ vỡ bấy nhiêu. Vậychúng ta không nên dùng động cơ tham lam gây dựng sự nghiệp,mà cần phải lấy nguyên liệu từ bi đắp xây thành trì sựnghiệp thì mới kiên cố và trường tồn. Bởi vì kẻ thamlam muốn lập nên nghiệp cả, bao giờ cũng chăm lòng tóm thâuvơ vét của người về mình, mà tóm thâu vơ vét càng nhiềuthì gây oán, kết thù càng lắm. Ðã có oán thù, là có ngườimanh tâm phá hoại, rồi một người cố giữ gìn, mà cả nghìnmuôn người quyết phá hoại, thì dù gian hùng như Tào Tháo,mưu trí như Khổng Minh cũng không tài nào giữ nổi. Ngượclại, lấy từ bi làm động cơ lập nghiệp, tức là lấy sựban ân bố đức cho người làm sự nghiệp mình. Tuy nhiên đemtiền của và hạnh phúc mình tung vãi cho người là đời mìnhsẽ thấy khổ sở và thiếu thốn; nhưng một nụ cười nởtrên môi người đói khát khi được chén cơm, một cái nhìntri ân của người vừa thoát nạn, một cái chào cảm mếncủa người lạc lối khi được đưa đường... bấy nhiêuấy là nguồn hạnh phúc vô biên, là của tiền vô lượngcủa chúng ta vậy. Sự nghiệp ấy mới nhìn qua như không có,nhưng kỳ thật nó có rất nhiều. Bởi vì, thói thường ngườiđời hễ thương mến ai thì muốn ủng hộ, bảo vệ cho ngườiấy được an vui. Chúng ta đã gieo rắc tình thương khắp mọingười thì sự an vui đến với chúng ta vô lượng. Thế làsự nghiệp vĩ đại và vĩnh cửu chớ gì!

Hơn nữa, người có lòng từ bikhông thấy hạnh phúc và sự nghiệp riêng mình, mà chỉ thấyhạnh phúc và sự nghiệp chung của tất cả chúng sanh. Nhưvậy, càng gây cho chúng sanh được nhiều hạnh phúc, nhiềusự nghiệp, thế là hạnh phúc và sự nghiệp mình càng to.Ðức Thích-ca xa lìa đài vàng ngôi báu, chối bỏ tất cảhạnh phúc riêng, Ngài chỉ ôm bình bát đi xin ăn để gieorắc tình thương và cảm hóa nhân loại. Do đó, mà khắp nămxứ ở Ấn Ðộ thời ấy, từ vua chúa đến quan dân đềutôn kính Ngài là bậc Từ phụ, sẵn sàng hiến dâng nhữngngôi vườn đẹp đẽ, để Ngài làm nơi giảng đạo. Cho đếnngày nay cách Phật đã trên hai mươi lăm thế kỷ, mà hầukhắp các nước trên thế giới đã xây cất biết bao ngôichùa nguy nga tráng lệ để phụng thờ Ngài và trên sáu trămtriệu người kính thành, tôn Ngài là đấng cha lành. Nên trongkinh có câu: "Xả tất cả sẽ được tất cả"là thế.

Tóm lại, chúng ta phải sáng suốtkhông nên nhìn thiển cận ở sự nghiệp nhất thời mà bịlòng tham lam sai sử, rồi cả đời luống lao tâm tiêu tứ,kết quả chỉ chuốc lấy đau khổ. Chúng ta phải tung vãihạnh phúc mình cho mọi người, gieo rắc tình thương cùngkhắp nhân loại, ấy là thứ hạnh phúc chân thật, sự nghiệpvĩnh cửu của mình đấy. Một Phật tử đã biết áp dụngđiều này, Vua A-dục, nói: "Ta xem hạnh phúc của chúng sanhlà mục tiêu thứ nhất ta phải tranh đấu."



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 120217)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15491)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10860)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24292)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13171)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15438)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31194)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12052)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6733)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26600)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567