Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10-Tuổi trẻ với hạnh Nhẫn Nhục

06/02/201115:45(Xem: 2623)
10-Tuổi trẻ với hạnh Nhẫn Nhục

ĐẠOPHẬT VÀ TUỔI TRẺ

Hòa thượng ThíchThanh Từ
-10-

Tuổi trẻ với hạnhNhẫn Nhục

Em là một thiếuniên, quả tim chứa đầy máu nóng, mỗi khi bị ai nhục mạmáu trong người sôi lên, toàn thân nóng rực, rồi em muốntrả thù bằng cách nào cho đã cơn giận dữ. Hoặc khi suynghĩ sắp làm một việc gì, lòng em nóng nảy bồng bột muốnlàm trong chốc lát cho xong.

Sự nóng nảy và nông nỗi ấy đãnhiều lần khiến em phải hối hận và đau khổ. Lắm lúcem cũng muốn bình tĩnh lại, nguội đi một chút, nhưng khigặp việc rồi cũng chứng nào tật ấy. Vì muốn giúp em mộtphương tiện để tự chủ lấy mình, tôi xin giới thiệu emHẠNH NHẪN NHỤC do đức Thế Tôn đã dạy.

Nhẫn nhục không có nghĩa là ươnhèn khiếp nhược, khom lưng cúi đầu trước mọi hành độngbạo tàn của người mà là kiên gan bền chí nhịn chịu mọisự mạ nhục, sự khó khổ, sự khen ngợi cũng như sự thắngthế, để hoàn toàn làm chủ lấy mình, để sau rồi xây dựnglại họ.

Muốn nhịn chịu được sự nhụcmạ, em nên nghĩ thế này: người mắng ta, vì tại ta làm quấyhay vô cớ tự họ đặt điều?

Nếu ta làm quấy nên họ mắng thìđiều ấy rất đáng, còn gì mà phải giận trách. Ðã khônggiận trách là chớ, mà ta lại phải xin lỗi người là khác.Vì tại ta gây nhân nên họ mới trả quả. Người gây nhânmới là người đáng tội. Như hôm nào đó, em đứng trướcsân, bỗng nhiên con Vện rượt con Mèo chạy ngang qua em. Mèoliệu chạy không kịp, đứng lại thủ thế. Vện vừa nhàotới, Mèo vớ cho một cái xể mặt. Trước cảnh đó, em nêntrách Mèo hay trách Vện? Cũng thế, ta lầm lỗi bị ngườimạ nhục, thì nên tự trách, không nên oán giận người. Cóthể mang ơn họ là khác, vì họ cho ta một bài học xứngđáng để nhớ mãi mà tránh.

Nếu ta không làm điều gì quấy,vô cớ tự họ bịa chuyện để mạ nhục ta, ta nên nghĩ:Người ấy không biết lẽ phải quấy, họ đã mất hết tríkhôn, là một kẻ cuồng không khác, ta chỉ nên thương xóthơn là giận trách. Hơn thua với kẻ cuồng thì ta cũng cuồngnốt. Hơn nữa, nếu em thấy là phải mà bị họ mạ nhục,em cứ lặng im giữ cái phải của em. Nếu em mắng chửi lạihọ, thì em cũng quấy như họ. Như có anh chàng mặc bộ đồtrắng muốt đi trên lộ, gặp bọn chăn trâu đang chơi bùn,mình mẩy lem luốc. Chúng ghét cái trắng sạch của anh, nênhốt bùn vãi anh. Lúc đó anh nên chạy, hay nên hốt bùn vãilại chúng?

Nếu anh muốn giữ cho tròn trắngsạch, cố nhiên anh phải chạy. Cũng vậy, muốn toàn vẹnlẽ phải, em nên nhịn kẻ quấy, đợi qua cơn nóng giận củahọ, em sẽ phân giải thì kết quả hơn.

Hoặc giả em là người tốt, kẻxấu thấy ganh ghét em, họ đến mạ nhục em, khi ấy em nêncoi lời mạ nhục như cơn gió thoảng, không cần chống đối.Kẻ mang việc xấu đến; họ sẽ tự chịu xấu lấy. Phậtdạy: "Kẻ ác hại người hiền, như ngửa mặt lên trờiphun nước bọt, nước bọt không tới trời, trở lại rơitrên mình, như ngược gió tung bụi, bụi chẳng tới người,trở lại làm nhơ mình..." -- (Kinh Tứ Thập Nhị Chương)

Khi bị mạ nhục, nếu em không dằnđược cơn nóng giận, tức nhiên em chửi mắng đánh đậplại họ. Rồi cứ thế mãi, họ vay, em trả; vay trả, trảvay không bao giờ dứt. Như Xoài mắng Ổi, Ổi đánh Xoài.Xoài tìm cách trả thù, Ổi lo phương báo oán, oán thù khôngbiết bao giờ hết. Chi bằng ta áp dụng câu: "Oan gia nênmở không nên kết"(Khổng Tử)hoặc câu: "Lấyânbáo oán, oán liền tiêu diệt"(Phật dạy),thì nhẹ nhàng rảnh rang biết mấy.

Tuy nhiên, nói thế em sẽ ngờ rằng:Nhịn họ e họ sẽ cho mình là khiếp nhược? - Không! Khôngphải thế đâu! Em không nhớ Hàn Tín chịu lòn trôn tên duđãng tại chợ Hoài Âm đó sao? Chịu nhục như vậy mà saunày ai dám chê Hàn Tín là khiếp nhược? Nếu có, ấy chỉlà bọn vũ phu thiếu trí mà thôi. Em là người cao thượngcó chí lớn, em nhịn những lời nhục mạ của bọn bất lương,không phải vì em sợ họ mà chính vì cái chí lớn của em.Như em có cái chén kiểu quí, có người đem muỗng dừa haybát sành đến chọi thử với chén quí của em. Khi ấy, emnên chọi hay nên nhịn thua họ?

Thảng hoặc, em cho rằng nhịn họđể bảo vệï tính tốt, lẽ phải và chí lớn của mình,để mặc tình họ gây tội ác, như vậy tỏ ra mình ích kỷtiêu cực, không có tinh thần xây dựng cho người? Không phảinhịn họ là ích kỷ đâu em! Nhịn là phương pháp lợi ngườitoàn vẹn. Vì khi người ta nóng mới thóa mạ em, khi ấy emcũng nóng, chống đối lại họ. Hai cái nóng cùng gặïp nhauthì phải nổ. Như vậy khi nóng giận chống đối người,không có nghĩa là xây dựng họ, mà chính là gây oán thù.Nếu ai nói: "Tôi chống lại là vì tôi thương, muốn cảithiện giùm họ", ấy là lấy lời nhân nghĩa để che đậycái tính xấu nóng nẩy của mình.

Chẳng những ta nhịn chịu sự nhụcmạ, mà còn phải nhịn chịu sự khó khổ. Bởi vì con ngườisanh trên đời, không phải đến đâu cũng gặp toàn tháp ngàvà nhung gấm, mà phải đương đầu với phong ba bão tố. Nguờicó sức nhịn chịu được những trở ngại mới mong đạtđược kết quả tốt đẹp cao quí. Bằng không nhịn được,dễ sanh nản lòng thối chí. Dù người có sức mạnh cử nổitrái tạ ngàn cân, có tài chọc trời khuấy nước, mà khôngcó chí kiên nhẫn, khi gặp sự thất bại dồn dập đến mìnhthì nhăn mày, héo mặt, con người ấy không làm nên việcgì đáng kể. Trái lại, người yếu đuối, tài lực tầmthường mà bền gan chịu đựng, mỗi lần vấp ngã chỉ xemđó là một kinh nghiệm, càng thất bại nhiều thì kinh nghiệmcàng giàu, chí càng dẻo dai bền vững, con người thế ấykhông việc gì làm chẳng được. Có vị Tỳ-kheo hỏi Phật:"Cái gì mạnh hơn cả?"Phật dạy: "Nhẫn nhục mạnhhơn cả."(Kinh Tứ Thập Nhị Chương)Thật vậy, chỉ cóngười nhịn chịu được mọi khó khăn, vượt qua mọi trởngại mới mong lập được sự nghiệp vĩ đại trên đời.

Bị nhục mạ, gặp cảnh trở ngạituy khó nhịn, nhưng người ta dễ biết đề phòng, nên cóthể nhịn được. Ðược ngợi khen, gặp việc thắng thếlà điều tốt, thỏa thích ý mình, nên ít ai để ý dè dặt,do đó mặc tình tâm phóng túng, gây họa rất to. Như xe vàođường hiểm nguy không lật, mà thường lật ở đường thẳng.

Người bị nhục mạ nhịn khôngđược cơn tức giận, nên gây tai họa, kẻ gặp cảnh trởngại, nhịn không được lòng buồn nản, nên bỏ hư hỏngcông việc, ta được ngợi khen, được thắng thế, nếu khôngnhịn được lòng tự đắc của mình, nên dễ sinh ngã mạnkhiến mọi người đều ghét. Như trò Kiêu lâu nay tuy họcdở mà nói năng nhỏ nhẹ khiêm tốn, nên được cả lớpai cũng thương. Một hôm đến giờ toán, thầy giáo cho bài,may sao anh làm rồi sớm lại trúng, khi các bạn anh làm chưarồi. Thầy giáo thấy thế khen ngợi anh trước chúng bạn.Có lẽ đây là lần thứ nhất, Kiêu được hơn chúng bạnvà thầy khen, mắt anh sáng lên, nhìn chúng bạn thấy họ tầmthường quá. Từ đó về sau, ai trông thấy Kiêu không cònlà một trò khiêm tốn dễ thương, mà là đứa bé khinh mạnđáng ghét.

Khi biết nóng giận là tính dữ,nản chí là nết hư, thì ngã mạn cũng là tật xấu. Nhưngkhó trị nhất là ngã mạn, vì ta không thể biết được nókhởi tự bao giờ, chỉ có kẻ khác biết thôi. Phật dạy:"Có thế lực mà khôngỷ mình là khó."Muốn nhịnchịu được sự khen ngợi, ta nên nghĩ thế này:

Tiếng ngợi khen của người đờiít khi đúng sự thật. Hoặc họ muốn làm đẹp lòng ta đểnhờ ta giúp một việc gì, nên họ khen? Hoặc họ khen là đểgợi tính hiếu thắng, tự cao của ta, đặng đưa ta về chỗhư hèn? Hoặc vì nể ta, khen cho ta được vừa ý... Tất cảsự khen ấy đều không đúng sự thật, đã không đúng sựthật thì có gì mà ta mừng, tự đắc?

Nếu người khen biết được ta,và trăm phần trăm đúng sự thật, thì ta nên nghĩ: Sự thànhcông tốt đẹp ấy không phải tài của ta, mà do phước lànhđời trước còn lưu lại. Ðã do phước lành mà được việc,khi được ta cần phải gieo giống phước lành nhiều hơn đểsau này khỏi mất, mà tính tự cao, ngã mạn là thứ thuốcđộc làm ung tất cả mầm phước đức, ta cần phải tránh.

Người gặp những trường hợptrên mà không nhẫn nhục thì sau sanh hối hận. Như Tý bịSửu mắng, không dằn được cơn nóng, Tý đánh Sửu trọngthương. Anh Sửu trông thấy, nóng lòng vì em, chụp gốc câyđập Tý lỗ đầu. Rốt cuộc cả hai đều trọng bệnh vàcùng vào bệnh viện. Như câu cách ngôn Tây phương: Sống vìlưỡi kiếm, chết vì lưỡi kiếm (Qui vit par l’épée, meurtpar l’épée).

Bao nhiêu sự buồn khổ thời gianTý nằm trong bệnh viện, có phải tại ai có ác ý muốn hạiTý chăng? Hay chính tự Tý chuốc lấy? Sự thực không ai làmkhổ mình. Nếu thắng được cơn giận dữ, làm gì Tý phảinằm trong bệnh viện thế này. Cho biết mọi khổ đau đếnvới mình phần nhiều là tại mình không nhịn được lòngnóng nảy bồng bột của mình mà ra. Như ngài Thích-đề-bà-nahỏi Phật: "Vật gì giết an lạc? Vật gì giết vô ưu?Vật gì gốc của độc, nuốt hết tất cả thiện?"Phậtđáp: "Sân hận giết an lạc. Sân hận giết vô ưu. Sânlà gốc của độc. Sân nuốt tất cả thiện."

Chẳng những thế, người khôngnhẫn ít khi làm chủ được mình mà thường bị ngoại cảnhchi phối. Như Hận không muốn gây sự với Manh nhưng Manh khiêukhích, không chịu nổi cơn nóng giận, Hận chửi đánh ẩuđả. Thế rồi, cả hai cùng chịu khổ. Hoặc như Tốc muốnhọc đến cử nhân nhưng thi trung học rớt vài phen, thốichí anh muốn trở về cày ruộng... Những người như thếđều bị hoàn cảnh lung lạc, không có chí vững bền tựchủ.

Người biết nhẫn dù gặp việclớn cũng biến thành nhỏ, dữ hóa hiền, không mấy khi phảihối hận, tâm thường an lạc. Phật dạy:"Nếu có ngườitrí ưa tu nhẫn nhục, người ấy dáng điệu hòa nhã, hằngtươi tỉnh, ưa vui cười, mọi người trông thấy đều hoanhỉ, nhìn không biết chán..." -- (Kinh Ưu-bà-tắc, phẩm NhẫnNhục.)

Lại nữa, người hay nhẫn nhụclà đã tạo cho mình một nghị lực phi thường, thắng cảnội tâm và ngoại cảnh. Phật dạy: "Người hay nhẫn nhụcmới đáng gọi là bậc hữu lực đại nhân."(Kinh PhậtDi Giáo)Thật vậy, bậc đại nhân bao giờ cũng kiên nhẫn,bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh. Chỉ có bọn vũ phu mớinóng nảy hấp tấp, làm việc theo nộ khí nhất thời.

Xét qua sự nhẫn nhục, em đã thấyrõ chỗ quí, tiện và lợi hại thế nào rồi. Giờ đây mờiem bắt tay vào việc tập luyện hạnh nhẫn nhục. Có thựctập em mới thấy sự lợi ích thiết thực của nó. Ðốivới tuổi thiếu niên mà thiếu nhẫn nhục thì không mong thànhcông, lập nghiệp gì cả. Bởi vì trong lúc thiếu thời, sốngvề tình cảm hơn lý trí, nên phải tập nhẫn nhục để hạnchế bớt sự sôi nổi bồng bột trong lòng.

Hơn nữa, tuổi thiếu niên em chưatừng nếm mùi cay chua của cuộc đời - nếu có cũng chútít thôi - nên kinh nghiệm đời em chưa có, vì thế tâm em dễhăng hái, cũng dễ chán nản. Tập nhẫn nhục sẽ giúp em cóđủ thì giờ cho lý trí làm việc, nhẫn nhục sẽ tập choem có tính bền dẻo khi va chạm cuộc đời. Vì thế đờiniên thiếu của em rất cần có nhẫn nhục.

Muốn đạt được hạnh nhẫn nhục,em cần phải quán từ bi. Vì có nước từ bi mới dập tắtđược ngọn lửa nóng giận. Từ bi sẽ giúp em hăng hái hoạtđộng, kiên nhẫn vượt mọi khó khăn để thành công trêncông trình lợi tha viên mãn.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 120205)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15491)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10859)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24290)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13166)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15436)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31192)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12051)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6733)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26599)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567