Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01-Đạo Phật và Tuổi Trẻ

06/02/201115:45(Xem: 2424)
01-Đạo Phật và Tuổi Trẻ

ĐẠOPHẬT VÀ TUỔI TRẺ
Hòa thượng ThíchThanh Từ
-01-

Đạo Phật và TuổiTrẻ

Lâu nay đa số ngườiViệt Nam cho rằng: Ðạo Phật là dành riêng cho các bậc giànua tuổi tác, nhờ câu kinh tiếng kệ an ủi những ngày tàn;hoặc kẻ bị tình đời đen bạc hay người đã mấy phen vấpngã trên bước công danh quay về nương tựa cửa thiền, nhờgiọt nước cành dương rưới dịu đôi phần sầu hận; hoặcnhững người đau ốm tật nguyền sống thừa thãi ngoài xãhội về núp bóng từ bi, nhờ hột cơm, manh áo của đàn-natín thí để đỡ phần cơ cực... Quan niệm ấy đã ăn sâutrong tâm não dân chúng, nên khi thấy một thanh niên cạo tócxuất gia, hoặc đến chùa lễ Phật thì họ xầm xì cho làchán đời, là bi quan, là trốn nợ xã hội. Nhưng họ đâungờ đạo Phật là "đạo của tuổi thanh xuân đang căng nhựasống và tha thiết yêu đời".

Nói thế, không phải cố gò bóđạo Phật cho gần với tuổi trẻ, mà vì thật tánh củađạo Phật rất thích hợp với hàng hoa niên. Sự thích hợpấy bởi những điểm:

Thanh tịnh: Ðạo Phật cốtđào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cựclực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đangtrú ẩn trong tâm giới người. Nhưng từ lúc thanh niên, ngườita phải cất mình ra khỏi cổng nhà cha mẹ, bắt tay vào việccạnh tranh, chiến đấu với đời, từ đó những tánh xấu,tham lam, sân hận... càng ngày tập nhiễm càng sâu, đến đentối cả tâm hồn. Lúc tuổi già muốn gột rửa nó là cảmột sự khó khăn. Như chiếc áo trắng đã nhuộm chàm, muốngiặt tẩy trắng lại không phải là việc dễ. Trái lại,tuổi thiếu niên tâm hồn còn trong trắng, những tính xấunếu có, cũng chỉ một vài điểm nhỏ thôi. Nếu họ sớmbiết thức tỉnh quyết tâm tẩy trừ thì rất dễ dàng, nhưchiếc áo trắng vừa vấy vài vết nhơ, giặt tẩy rất mausạch. Vì thế tuổi thiếu niên rất thích hợp với đứcthanh tịnh của đạo Phật.

Chân thật: Ðạo Phật làđạo như thật, người tu theo đạo Phật cần phải xa lìanhững điều giả dối để trở về với sự thật. Phậtcấm nói dối và dạy quán vô thường, bất tịnh, khổ...đều nhắm mục đích này. Tuổi trẻ là ngây thơ chất phác,nghĩ sao nói vậy, nên ít biết dối trá xảo quyệt; nhưngđến lúc thành niên, để bắt chước theo thói xã giao, hoặcvì sự mưu sanh, người ta lần lần tập nhiễm những điềuxảo trá và xa dần sự thật. Khi đi xa mà muốn quay về lànhọc nhằn hơn lúc ở gần; vì thế tuổi trẻ còn chất phác,nhiều thành thật, nên rất gần với đạo Phật.

Từ bi: Ðạo Phật là đạoTừ bi, là đạo cứu khổ chúng sanh bằng mọi phương tiệnvà mọi hình thức. Người tu theo đạo Phật là hy sinh đờimình để mưu hạnh phúc cho chúng sanh, và mở tâm lượng baola trùm tất cả mọi loài trong tình thương bình đẳng. Vớitâm lượng ấy, với chí hy sinh ấy, người lưng còng, mácóp có thể đảm đang nổi chăng? Người ốm đau bệnh tậtcó thể gánh vác được không? Và người thực hiện đượcđiều này có thể gọi là bi quan yếm thế chăng? - Cố nhiênphải là người niên tráng lực cường, thân hình căng đầynhựa sống, mới đủ khả năng sớt cơm, chia áo và gánh vácnhững điều khó khổ nhọc nhằn cho chúng sanh. Hơn nữa, tuổithiếu niên là tuổi phóng tầm mắt nhìn khắp vũ trụ baola và muốn ôm cả nhân loại vào lòng; nhưng đến khi đãcột mình trong bổn phận làm vợ, làm chồng, làm cha, làmmẹ... thì chí cả ấy bị đóng khung trong gian nhà chật hẹpcủa gia đình, rồi dần dần nó bị tiêu ma như hạt sươngtan theo dưới ánh nắng. Ðang khi tâm hồn khoáng đãng củatuổi thanh xuân mà gặp được tình thương vô bờ bến củatâm lượng Từ bi thì, ôi! Sung sướng nào hơn nữa?

Tinh tấn:Phật quả là mộtquả vị vô thượng. Người muốn đạt được quả vị nàyphải trải lắm công phu nhọc nhằn khổ sở, với thời giandài đằng đẵng, đâu phải tu một sớm một chiều mà chứngđược, trừ những bậc Bồ-tát thị hiện. Công trình tu tậpnhư một bộ hành trèo núi cao mấy mươi cây số; muốn đếnđược đỉnh, người bộ hành phải dẫm qua lắm đoạn đườngchông gai, đá sỏi, vượt qua nhiều vách đá cheo leo và trảiqua những đèo cao, hố thẳm, nhiên hậu mới mong ngồi bóngmát trên đầu non chót vót và ngắm xem bức sơn thủy muônmàu ngàn sắc của trần gian. Như vậy, muốn thực hiện đượccông phu này, phải đòi hỏi ở người có cặp chân cứngrắn, đôi mắt tinh anh, sức lực dồi dào và đủ tinh thầnquả cảm. Thanh niên là tuổi máu nóng đang lên, nhựa sốngcăng thẳng, đời sống còn dài, nên dễ thực hiện đượccông tác này. Ðức Thích-ca ngày xưa nếu đợi sáu, bảy mươituổi mới đi tu, chắc ngày nay chúng ta không biết đượcmùi pháp vị là gì.

Trí tuệ: Ðức Phật là đấngđã giác ngộ. Người tu theo đạo Phật là noi theo con đườngsáng suốt của Ngài đã qua để đến thành trì giác ngộ.Muốn được giác ngộ cần phải có trí tuệ, vì trí tuệlà ánh sáng quét sạch màn đêm và soi tỏ mọi vật, khiếnchúng hiện bày chân tướng dưới mắt người. Tuy nhiên, muốncó trí tuệ ta cần phải có thân hình tráng kiện, như nói:"Một tâm hồn sáng suốt trong một thân thể tráng kiện";hay ngược lại, cũng thế. Như vậy tuổi trẻ rất dễ phátkhởi trí tuệ, người già yếu trí tuệ cũng bị ảnh hưởngphải lu mờ. Bằng chứng, cùng một bài học mà người trẻhọc mau thuộc, người già học rất lâu. Do đấy nên tuổitrẻ là tuổi rất thích hợp với đạo Phật.

Mặc dù đạo Phật rất thích hợpvới tuổi trẻ, nhưng với bậc lão thành, với người khổsở, với kẻ chán đời... vẫn được đạo Phật tiếp độ.Vì đạo Phật là đạo bình đẳng, giáo lý Phật là giáolý phổ biến vậy. Mái tóc xanh gần đạo Phật ở đức thanhtịnh... thì người đầu bạc cũng nhờ "tín" của đạo Phậtmà vui vẻ những ngày tàn. Tuổi hoa niên thể theo đức từbi mở rộng lòng thương, thì người khổ sở cũng nhờ bàntay từ bi ấy xoa dịu đôi phần đau khổ. Hàng tráng niênđến với đạo Phật là cầu giác ngộ, cầu thành Phật quả;người chán đời đến với đạo Phật để nhờ câu kinhthâm diệu, nhịp mõ trầm hùng, tiếng chuông cảnh tỉnh màlần lần cổi sạch mọi nỗi oán hờn.

Tóm lại, đạo Phật là đạo chungtất cả, nhưng thích hợp nhất là tuổi trẻ. Vì tuổi trẻmới có đủ phương tiện thực hiện triệt để giáo lý caosiêu của Phật, và tuổi trẻ mới đủ bầu nhiệt huyếthăng hái quả cảm trên con đường tự giác, giác tha, dù gặpmọi gian nguy khó khổ. Do đó nên Phật dạy bốn pháp kiêncố đến quả Bồ-đề, "tuổi trẻ biết mộ đạo tu hành"là một trong bốn điều ấy vậy. Tuổi trẻ là tuổi thíchhợp với đạo Phật, vậy những bạn thanh niên không nênluống phí thời giờ, phí thời kỳ quí báu ấy, đợi đếnkhi sức kiệt hơi tàn, có hối tiếc cũng không kịp. Phậtdạy: "Ngươi nói: 'Tôi còn trẻ cần phải chơi bời vuivẻ, đến ngày già sẽ tu'. Nhưng cái chết có khác nào kẻcướp cầm gươm bén theo rình rập ngươi, một miếng mồingon của nó; như vậy làm sao ngươi chắc mà đợi đến ngàygià đặng đưa tâm trí qua đường Ðạo đức?".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 121037)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15637)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10917)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24379)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13236)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15583)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31516)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12216)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6784)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26724)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567