Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11-Tuổi trẻ với lòng Từ Bi

06/02/201115:45(Xem: 2324)
11-Tuổi trẻ với lòng Từ Bi

ĐẠOPHẬT VÀ TUỔI TRẺ

Hòa thượng ThíchThanh Từ
-11-

Tuổi trẻ với lòngTừ Bi

Ðang độ hoa niênlòng tràn đầy vui vẻ, em nhìn cảnh chung quanh đều hiệnbày một vẻ tươi sáng đáng yêu. Nét yêu đời biểu lộtrong đôi mắt sáng, trên đôi môi nở nụ cười của em. Emtự thấy cùng mọi người, cùng vạn vật như chung niềm hoanhỉ. Vì thế, lòng yêu thương của em tràn trề vô hạn.

Tuy nhiên, mỗi lần có kẻ đau khổhiện ra trước mắt em, em tự nghe cõi lòng se lại, mặc dùkẻ ấy không phải bà con thân thuộc của em. Rồi em muốnlàm sao cho họ hết khổ, cho họ cùng vui như em. Ấy là "lòngtừ bi" đã chớm nở trong lòng em vậy. Em hãy cố gắng vunquén cho nó sanh trưởng sum suê lên.

Nghe nói từ bi, nhưng em chưa hiểunghĩa thế nào. Ðây, em hãy nghe: Từ bi là lòng thương baola, lúc nào cũng sẵn sàng san sẻ những nỗi đau khổ củangười và đem hạnh phúc an vui cho họ. Lòng thương ấy gieomầm trên đất khổ đau và sanh trưởng trong ánh sáng trítuệ. Vì thế, ai mang nặng lòng thương này thì không bao giờan nhiên khi nhìn kẻ trước mắt mình đang âm thầm nuốt lệhoặc đang rên siết kêu thương, mà họ nguyện chia sớt, gánhvác cho người vơi đi, nhẹ bớt đôi phần đau khổ.

Lòng thương ấy chẳng phải củariêng ai, mà là chung tất cả. Như trước mắt mọi người,một kẻ cô thế bị bọn côn đồ hoành hành, đánh đậpthảm hại, trông thấy cảnh ấy, dù người khô khan thế nào,cũng nghe trong lòng chua xót! Hoặc giả hôm nào đó, em đếnhí trường xem một vở bi kịch. Ðến lúc hoạn nạn đau khổcủa những vai trên sân khấu, em cũng như người cảm nghetim đập mạnh, giòng lệ tự nhiên trào!

Nhưng em sẽ nghi ngờ! Tại sao ngườita đã sẵn lòng thương yêu nhau khi hoạn nạn, mà trong xãhội hiện tại lại có những kẻ làm nhiều việc táng tậnlương tâm, gây cho người một cuộc sống đầy máu và lệ?

Em ạ! Ấy là lòng thương của họbị hướng dẫn sai đường. Dĩ nhiên lúc thiếu thời, ai cũngcó lòng thương rộng rãi, nhưng lớn lên lòng từ bi thu hẹplại, đặt vào cái khung nhỏ bé, đôi khi bị pha trộn vớisự đen tối thành ra mù quáng. Ấy là họ chỉ thấy có vợ,có con và cá nhân họ... , bao nhiêu tình thương đều dồncả vào cái khung nhỏ hẹp ích kỷ ấy. Mặc ai kêu khóc, mặcai thở than đều không làm lay chuyển được họ. Thế rồi,để được lòng người yêu, để thỏa mãn cá nhân, họ cóngại gì giày đạp trên hạnh phúc kẻ khác.

Lại nữa, có một số người vôtình hoặc cố ý, họ tự tiêu hoại lòng thương. Như khi gặpmột người đói lạnh, anh A nghe lòng thương trào lên, mặcdù trong tay sẵn có phương tiện cứu giúp được, mà anh giảbộ lờ đi không muốn để ý đến. Một lần như thế, hailần như thế... quen dần, sau này gặp người đau khổ trướcmắt, nhưng tim anh đã trở thành sắt đá. Những con ngườinhư thế là họ tự tiêu diệt lòng thương rộng lớn, đểgom về một cái lạch nhỏ hẹp cá nhân. Một cây cổ thụrườm rà, nếu mỗi ngày người ta chặt một nhánh, lâu rồicây ấy chỉ còn một thân đơn trơ trọi.

Trái lại, anh B mỗi lần gặp ngườihoạn nạn, lòng thương dấy khởi, anh liền tìm mọi phươngtiện giúp người. Một lần như thế, nhiều lần cũng thế,đến một hôm gặp người khổ mà không tìm ra phương tiệnđể giúp, lúc ấy lòng từ bi bị giày vò, lương tâm anh bịcắn rứt, anh tự coi như làm không tròn bổn phận của mình.Rồi anh chạy ngược, chạy xuôi, tìm cho ra phương tiện giúphọ, anh mới yên lòng. Thế là anh B đã biết khai thác lòngthương của mình càng ngày càng sâu rộng.

Em ạ! Lòng thương là một củabáu vô giá, nó làm cho người này người khác thông cảm nhau.Nếu em đem một món đồ quí tặng cho người mà em không cólòng thương mến chân thật đối với họ thì món đồ ấycũng thành vô giá trị. Nếu thiếu lòng thương, thế giớinày sẽ đen tối, nhân loại sẽ đi đến chỗ diệt vong.

Ðã là của quí, ai nỡ để lòngthương phải tiêu mòn? Do đó một thiếu niên, em phải bảovệ tô bồi cho lòng thương càng ngày càng to rộng. Tuy nhiênvới tuổi trẻ của em, lòng thương dễ bộc phát, mà cũngdễ lạc lầm. Em cần phải khôn khéo hướng nó đi đúng chiều,phải chỗ. Chỗ thích hợp với lòng thương là cảnh đau khổ,chiều tươi đẹp nhất là ngọn hải đăng trí tuệ.

Ðứng trước cảnh khổ của người,em thấy lòng đau xót, ra tay cứu giúp họ. Bất luận việcnhỏ, việc lớn miễn họ khổ là em thương, em cứu giúp họ.Thế là lòng thương của em chan rải trên mọi nỗi khổ đaucủa người, để rồi tiêu hoại tất cả mầm đau khổ. Nhờlòng thương đặt trong cảnh khổ, nên nó bình đẳng, khôngthiên lệch. Nếu có nghiêng chăng, chỉ nghiêng về đầu cânnào nặng đau khổ. Thấy người đẹp bị khổ em thương,thì gặp người mù đói khát em cũng thương. Chỉ thương ởnỗi khổ của họ, chớ không phải thương vì sắc diện,vì cảm tình. Do đó đức Phật dạy hàng Phật tử muốn khởitâm từ bi phải quán nỗi đau khổ của chúng sanh.

Thật vậy, có cảm thông nỗi khổcủa người mới có lòng thương người chân thật thiết tha.Có thông cảm sự giày vò trong cơn đói của người, em mớisốt sắng cho họ cơm. Có thấu rõ sự buồn tủi, nỗi khổđau của kẻ tật nguyền, em mới sẵn sàng yên ủi, giúp chéncơm manh áo cho người. Trong kinh Phật có câu: "Ðời làbể khổ."Nói khổ đây, không có nghĩa để người tachán nản, thở than, mà để nhắc nhở mọi người hãy thươngyêu nhau, giúp đỡ nhau và đừng gây khổ thêm cho nhau nữa.Ðời đã khổ lắm rồi, ta hãy san sớt, đùm bọc và nângđỡ nhau, đừng đổ dồn thêm những tảng đá nặng khi ngườikia đã kiệt lực. Cùng đi một chuyến tầu, rủi gặp cơnbiển động, mọi người đều kinh hoàng khủng khiếp, khiấy có những người dại sóng ụa mửa dính ta, hoặc đụngchạm vào người ta, nếu không có thuốc cứu giúp họ, khôngdìu đỡ họ, thì ít ra ta cũng tha thứ những lỗi cỏn concủa họ.

Nói thế em sẽ nghi: Lòng thươngbắt nguồn từ sự đau khổ, thì những gia đình khá giả,cha mẹ không có đói lạnh, vậy kẻ làm con không thương sao?- Không phải thế đâu em. Mặc dù cha mẹ không phải đóilạnh, nhưng người đã khổ sở nhọc nhằn với con quá nhiều.Từ khi con lọt lòng cho đến khi khôn lớn, kẻ làm cha mẹđã hồi hộp lo âu cho con biết bao nhiêu lần. Một khi sổmũi, một chút ấm đầu... của con, cha mẹ đã nóng lòng,sốt ruột, chạy ngược, chạy xuôi lo thầy trị thuốc v.v...Như vậy, kẻ làm con phải biết cảnh khổ ấy, mà thươngcha mẹ trước nhất.

Lòng thương phát nguyên từ gia đìnhlần ra xã hội, như vết dầu loang. Nếu chỉ khu biệt lòngthương trong phạm vi gia đình thì không phải lòng từ bi. Tráilại, thương bao la bên ngoài mà bỏ sót gia đình, ấy cũngkhông phải từ bi. Lòng từ bi nghĩa là thương khắp hết,nhưng bao giờ cũng từ gần đến xa.

Giống từ bi phải gieo trên đấtđau khổ, nhưng cần phải có ánh nắng trí tuệ nó mới nẩylộc, đâm chồi và đơm hoa kết quả. Có trí tuệ, lòng thươngkhông bị mù quáng lạc lầm. Khi ta gặp hai người cùng đóilạnh, nhưng một người vẻ mặt hiền hòa, cử chỉ đằmthắm dễ thương, một người gương mặt dữ dằn, cử chỉthô bạo đáng ghét. Nếu thiếu trí tuệ xét đoán, ta chỉưng cứu người dễ thương, mà làm ngơ trước người đángghét. Thế là, lòng thương đã bị thiên lệch, không còn nghĩatừ bi.

Ðã sẵn lòng thương, nhưng chỉbiết thương để mà thương thì chưa đủ biểu hiện lòngtừ bi. Muốn thể hiện lòng từ bi, ta phải ra tay cứu giúpmọi người. Thấy cái khổ của người, ta vẫn coi như cáikhổ của ta. Phải thật tâm tận lực cứu giúp họ, mà khôngmong một sự đền đáp nào cả. Nếu cứu giúp mà mong đềnđáp, ấy chỉ là sự cho vay. Cứu giúp không đợi việc lớnmới quan trọng, dù việc bé tí ti mà làm với một tâm lượngrộng lớn, tự nhiên nó trở thành lớn. Ðức Phật xưa kiavẫn hoan hỉ xỏ kim hộ ông A-na-luật-đà. Vì thế, khi tacứu giúp người, ta không nên chọn lựa việc nhỏ, lớn cũngnhư kẻ thân, sơ.

Muốn bảo vệ lòng từ bi khôngcho thối thất, ta phải hạn chế sự phóng túng của mình.Một câu nói đùa có thể tổn thương người, ta không nênnói. Một hành động chơi vui có thể hại mạng loài vật,ta vẫn không chơi. Nhà luân lý học Pháp, ông Vauvenargues nói: "Ðối với một người hung tợn nhất dù ai nói thế nàomặc lòng, nếu người ấy hãy còn yêu loài vật thì chưaphải là một người hung tợn."Người ta nhiều khi vìmột trò chơi mà đã tàn sát sanh mạng các loài vật, nhưbắn chim chẳng hạn. Họ có biết đâu, đó là những hànhđộng làm tiêu ma lòng từ bi của họ?

Cần cho lòng từ bi tăng trưởng,ta phải dẹp bớt tánh vị kỷ, luôn nhớ đến người, đếnmọi loài hơn nghĩ đến mình. Nếu có lợi cho bản thân ta,mà đau khổ người hay vật thì nhất định không làm. Cốlàm việc hại người, hại vật để thỏa thích thị dụcmình, hành động ấy phi từ bi. Sự ăn chay của người tunhằm m?c tiêu này.

Lòng từ bi là ban rải hạnh phúccho người, cho muôn loài. Cây thiếu nhựa sống thì cây khôhéo, con người thiếu từ bi con người khổ não. Có từ bithì nhân loại mới yêu thương nhau, tương trợ nhau. Làm gìcó chiến tranh, làm gì có tang tóc, nếu mọi người sẵn lòngtừ bi? Trái lại, nếu con người không có chút từ bi thìthế giới này sẽ thấy dẫy đầy lửa và máu! Cho nên muốnđem hòa bình cho nhân loại, đem hạnh phúc cho chúng sanh, chúngta phải cực lực cổ võ từ bi. Từ bi đến đâu thì đauthương tan đến đấy.

Từ bi đã quan trọng dường ấy,là một thiếu niên, em đâu thể nào cam chịu để cho lòngtừ bi của mình phải tiêu mòn. Em hãy cố gắng khai thác vàthực hiện từ bi. Chỉ mong có năng lực thiếu niên mới khamsan sớt, gánh vác những đau khổ, nhọc nhằn thế cho người.Nếu đợi đến ngày da dùn gối mỏi, người ta mới nghĩđến việc từ thiện, việc cứu vớt người thì đã quámuộn màng!

Khoảnh đất tâm hồn của thiếuniên trong trắng, nên rất thích hợp cho giống từ bi sanh trưởng.Vậy em hãy cụ thể hóa lòng từ bi trên hành động, lờinói và ý nghĩ của em. Làm thế nào khi nhìn vào em, ngườita thấy là hiện hình của từ bi. Ðược thế, đời sốngcủa thiếu niên mới đáng quí đáng mến.







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 120949)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15619)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10914)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24377)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13227)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15578)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31501)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12200)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6780)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26712)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567