Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15-Tuổi trẻ với vấn đề Hổ Thẹn

06/02/201115:45(Xem: 2360)
15-Tuổi trẻ với vấn đề Hổ Thẹn

ĐẠOPHẬT VÀ TUỔI TRẺ

Hòa thượng ThíchThanh Từ
-15-

Tuổi trẻ với vấnđề Hổ Thẹn

Nói đến hổ thẹn,đa số thanh niên hiện thời cho đó là tánh của đám thiếunữ thời "khuê môn bất xuất" còn lưu lại. Những cử chỉe lệ, rụt rè, nhút nhát là biểu hiện của tính hổ thẹn.Vì thế với cái thời văn minh này phải thủ tiêu tính hổthẹn ấy đi. Nhưng với Phật giáo, tính hổ thẹn lại đượcđề cao. Hổ thẹn là chiếc áo trang sức đẹp nhất củangười tu. Hổ thẹn là động cơ tiến thủ trên đường hànhthiện. Ðể giải quyết nghi vấn này, chúng ta thử xét lạicoi tại sao?

Sở dĩ thanh niên hiện thời đòitiêu diệt tính hổ thẹn, vì hiểu hổ thẹn là mắc cỡ.Một thiếu nữ bất ngờ gặp anh chàng thanh niên thì bướcđi khóm róm, lời nói ấp úng, lắm khi lại kiếm chỗ trốnlà khác. Bởi sự rụt rè nhút nhát ấy khiến con người mấtcả tính tự nhiên.

Tại sao người ta lại hay mắc cỡ?Vì những người ấy không có sức tự chủ, một khi xúc cảnhđột ngột, hoặc bị ai chăm chú đến, đâm ra luống cuống,mất bình thường. Như trước con mắt chăm chú nhìn của người,họ phải cúi mặt chẳng hạn. Con người không tự chủ ấy,dù việc phải việc quấy, họ cũng thấy ngại ngùng sợ sệttrước khi nói hay làm.

Hổ thẹn không phải thế. Vì hổlà hổ với mình, thẹn là thẹn với người. Mỗi khi nghĩđến việc quấy, ta xấu hổ tự trách rằng: Ta là con ngườicó đủ nhân phẩm thế này, được trí khôn thế kia, mà đilàm điều quấy vậy sao? Lại vì e thẹn chúng bạn phê bình,chỉ trích, nên vừa nghĩ đến việc quấy, ta dừng ngay. Vìthế hổ thẹn là then chốt của cánh cửa tội lỗi. Duy thứchọc liệt hổ thẹn vào nhóm thiện tâm sở. Hổ thẹn làmột động lực ngăn điều quấy, dứt những sự lỗi lầm.Nó rất thiết yếu, quan trọng đối với người dứt ác,tu thiện.

Khi có nghĩ sai, làm quấy, mới cóhổ thẹn. Nếu không nghĩ sai làm quấy, bao nhiêu người, hoặcai đi nữa vẫn không có hổ thẹn. Hổ thẹn là di sản củatính tự chủ, tự trọng. Con người tự chủ nên vừa nghĩquấy là bị lương tâm dầy vò hình phạt ngay. Bởi biếttự trọng nên rất thẹn thuồng, không muốn để ai chỉ trích,quở trách mình. Vì thế, hổ thẹn không có nghĩa là mắccỡ. Nếu có, chỉ là một khía cạnh nào thôi.

Con người, nếu không biết hổthẹn thì còn gì nhục nhã bằng. Vì chính họ không biếtxấu hổ với những hành vi bất chánh, lại không sợ ngườiphê bình chỉ trích, kẻ ấy còn việc xấu nào mà không dámlàm, điều ác nào mà không dám dự. Cá nhân họ ngày càngrơi sâu xuống hố tội lỗi. Không biết hổ thẹn thì cóbao giờ họ thức tỉnh ăn năn. Gia đình nào mắc phải mộtđứa con như thế, thật là đại vô phúc. Kẻ ấy gần ai,người ta đều nhờm gớm tránh xa, như tránh xa con chuột ghẻ.Những việc thương luân bại lý, những việc tàn ác đê hènhàng ngày diễn ra trong xã hội, đều do những hạng ngườinày chủ động. Nếu trong một xã hội mà có nhiều ngườinhư thế, thật là một tình trạng bi đát vô cùng của xãhội ấy. Ðức Phật dạy rằng: "Nếu con người không biếthổ thẹn thì trên thế gian này không còn biết phân biệtcha mẹ, anh, em, lớn, nhỏ cùng với loài cầm thú không khác."-- (Kinh Tăng Nhất A-hàm, phẩm Tàm Quí)

Trái lại, người biết hổ thẹnlà người cao thượng, liêm khiết. Do biết hổ thẹn đốivới bản thân, người ta cố tránh lỗi, dứt quấy để bảotồn danh dự cá nhân mình. Như cậu A một hôm thấy bạn bỏquên cây bút chì trên bàn học, cậu định ý lấy giấu đểxài. Nhưng cậu bị lòng hổ thẹn quở trách: mình như thếnày mà tham à! Nếu bạn nhìn thấy cây bút chì thì phải nóilàm sao? Và còn mặt mũi nào thấy chúng bạn... Vì thế, hômsau vào lớp, A đem cây bút chì trả lại cho bạn.

Lại nữa, tính hổ thẹn chẳngnhững cải thiện con người xấu trở thành tốt, mà còn làmđộng cơ thúc đẩy con người tiến bộ trên đường họcvấn, cũng như trong các công nghệ. Như một hôm vào giờ trảbài thầy kêu B lên, rủi hôm ấy cô bận việc, học bài khôngthuộc, lên đọc chữ đặng chữ mất, lộn đầu lộn đuôi...chúng bạn cười ầm lên! Thầy giáo cũng quở trách. Hổ thẹnquá, từ đó về sau dù bận việc gì, cô cũng rán học chothuộc, không dám bỏ một bài nào. Thực vậy, sự tranh đuahọc tập, sự cải tiến các ngành kỹ nghệ, đều phát nguyêntừ tâm hổ thẹn mà ra.

Những chứng cớ đơn sơ ấy, cóthể cho ta thấy sự có mặt của tính hổ thẹn nơi con ngườinào, người ấy sẽ tốt và tiến cả mọi mặt.

Nơi cá nhân tính hổ thẹn đã đóngvai quan trọng dường ấy, với gia đình và xã hội, hổ thẹncần thiết thế nào? Bảo vệ được cang thường, luân lý,giữ được gia thanh quốc túy đều nhờ tánh hổ thẹn cả.Như một chàng thanh niên con nhà lễ giáo, gặp lúc vận cùngbuộc phải xa quê hương tìm sanh kế. Khi ấy chàng phải sốngtrong cảnh chung chạ với bọn bất lương, chúng xúi giụcchàng góp tay vào việc trộm cướp với chúng. Nhưng chàngnhất mực từ khước, vì chàng nhớ đến danh giá, thể thốngcủa chàng và ông cha chàng. Nhiều khi sự sống quá thiếuhụt, chàng vừa nghĩ nên nhập bọn với chúng để sống,liền đó chàng thấy xấu hổ, tự trách: danh giá ta thế này,tông môn ta thế ấy mà đi ăn trộm à? Thật là nhục nhãhổ thẹn! Nhờ đó, chàng dừng được ý niệm quấy, thàchịu chết chớ không làm điều nhục nhã.

Biết giữ gìn phẩm giá mình, biếttôn trọng thanh danh tổ tiên mình, những con người ấy ởtrong xã hội không bao giờ dám làm điều phi pháp. Một ngườinhư thế, trăm ngàn người như thế, thì xã hội này có thểnói là cảnh Cực Lạc. Muốn xây dựng xã hội tốt đẹp,trật tự mà phủ nhận tính hổ thẹn, thực là kẻ muốncó quả cam mà gieo hạt ớt. Bởi nhằm mục đích xây dựngxã hội, nên Phật giáo rất chú trọng phát huy tính hổ thẹn.

Tuy thanh niên là tuổi cần phảicó nhiều hổ thẹn và gắng nuôi nó càng lớn càng hay. Vìthanh niên là tuổi cầu tiến, nếu thiếu hổ thẹn tức nhiênđộng cơ tiến thủ đã mất. Tương lai xã hội ở nơi thanhniên, muốn biết xã hội ngày mai tốt xấu thế nào, cứ nhìnthẳng vào thanh niên hiện tại thì rõ. Mà điều kiện cầnthiết tạo thành một thanh niên tốt, một phần lớn là dotính hổ thẹn. Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng:Thiếu hổ thẹn, thanh niên dễ trở thành ác độc; thiếuhổ thẹn, xã hội sẽ chìm trong đen tối của dục vọng.











Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 120309)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15514)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10870)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24313)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13183)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15464)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31228)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12066)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6738)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26620)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567