Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nuôi Dưỡng Tâm Thái Yên Bình

07/01/201806:08(Xem: 5763)
Nuôi Dưỡng Tâm Thái Yên Bình




hoa_sen (2)
Nuôi Dưỡng Tâm Thái Yên Bình

(Thầy Thích Thái Hòa giảng)


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!


Kính thưa HT Viện chủ Tự viện Bình Quang;

Kính thưa các Anh Chị Em trong BHDGĐPTTW và BHDGĐPT Bình Định;

Thưa tất cả Bà con có mặt hôm nay và thưa Đại diện Chính quyền Thôn, Xã sở tại.

Thưa quý vị!

Hôm nay là ngày 28 tháng 11 năm 2017 tại chùa Bình Quang, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, chúng tôi thay mặt cho Phái đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, xin trân trọng cảm ơn HT Viện chủ Tự Viện Bình Quang; cảm ơn quý vị đại diện Chính quyền sở tại; cảm ơn tất cả các Anh Chị Em BHDGĐPT Bình Định cũng như Bà con trong Xã nhà của chúng ta đã có mặt hôm nay, trong buổi lễ tặng quà bị thiệt hại do cơn bão số 12 đã gây ra cho Bà con chúng ta, và nhân nơi đây chúng tôi cũng xin chia sẻ đến Bà con một vài điều trước khi Bà con nhận món quà, bằng tất cả tấm lòng của Phái đoàn chúng tôi

Thưa quý vị!

Chùa Bình Quang là ngôi Chùa quê, nhưng lại là “mái Chùa che chở hồn Dân tộc, nếp sống muôn đời của Tổ tông”. Cho nên, ở đâu có ngôi Chùa, ở đó có đời sống tâm linh, có sự duy dưỡng tinh thần cho Bà con địa phương, và lại ngôi chùa Bình Quang của chúng ta, với hai từ ngữ Bình Quang tên gọi của một ngôi chùa quê đã nói lên được đời sống hòa bình, an lạc và giữ gìn những gì truyền thống tốt đẹp của quê hương, mà Thầy tổ của chúng ta, Tổ tiên của chúng ta, các Bậc tiền hiền khai canh, khai khẩn của chúng ta đã để lại cho tất cả chúng ta cho đến ngày hôm nay. Cho nên, chữ “Bình” có nghĩa là “Bình tâm thế giới bình”. Nghĩa là tất cả chúng ta cố gắng làm thế nào, để tâm của mỗi người chúng ta được bình tĩnh, không bị xáo động trước những hoạn nạn, khiến tai nạn lớn trở thành tai nạn nhỏ và tai nạn nhỏ thì xem như không có tai nạn. Cho nên, câu đối trước cửa chùa ghi “bình tâm thế giới bình”. Nghĩa là “tâm bình yên thì thế giới yên bình”. Còn chữ Quang câu đối trước cửa chùa lại ghi: “Quang thiên quang Tổ ấn”. Quang thiên là ánh sáng của bầu trời thanh trong không có bất cứ gợn mây nào. Ánh sáng ấy là ánh sáng từ bản nguyên tâm địa mà lưu xuất, nên gọi là quang thiên. Và ánh sáng ấy được chư Tổ ấn chứng ngay nơi tâm mình, nên gọi là “quang Tổ ấn”. Tổ ấn là dấu ấn giác ngộ của Tổ. Dấu ấn của Chư tổ ấn vào nơi ánh sáng ấy, để xác chứng rằng: “Ở nơi con người nào, ở nơi xứ sở nào, mà có ánh sáng lưu xuất từ tâm yên bình, thì ở nơi con người ấy, ở nơi xứ sở ấy có sự yên bình. Trong gia đình nào mà các thành viên có tâm yên bình thì gia đình đó có cuộc sống hòa bình. Nghĩa là gia đình ấy có nếp sống trên thuận, dưới hòa, trong ấm ngoài êm. Bậc làm cha mẹ thì hết lòng chăm sóc con cái, con cái thì hết lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, và quê hương xứ sở nào mà mọi thành viên trong quê hương xứ sở ấy có tâm thái yên bình, thì quê hương đó có những cơ hội để phát triển và làm đẹp, làm giàu mạnh cho xứ sở của mình trong một quy luật nhân duyên, nhân quả tự nhiên.

Nhân duyên là nhiều duyên tố tương tác với nhau để hình thành và nhân quả là kết quả hình thành từ nhân duyên. “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.  Cho nên, tâm ta yên bình, ta sẽ đóng góp vào sự hòa bình cho quê hương. Tâm ta yên bình, ta có khả năng gắn kết mọi thành phần xã hội với nhau để cùng sống chung trong hòa bình và chúng ta cùng bắt tay nhau xây dựng một quê hương yên bình.

Vì vậy, buổi từ thiện của chúng tôi đến với bà con không phân biệt Đông hay Tây, Nam hay Bắc, giàu hay nghèo, sang hay hèn, trí thức hay bình dân. Vì sao như vậy? bởi vì, tôi đứng góc này, chị đứng góc kia, anh đứng góc nọ, nhưng khi cơn lũ hay bão táp tai nạn ập đến với chúng ta thì chúng không chừa một ai trong chúng ta. Cho nên, khi tai nạn bão lũ ập đến, thì người giàu cũng có cái khổ của người giàu, người nghèo cũng có cái khổ của người nghèo, người có học cũng có cái khổ theo cách của người có học, người ít học cũng có cái khổ của người ít học, người làm chính quyền cũng có cái khổ của người làm chính quyền, mà người dân cũng có cái khổ của người dân. Người già có cái khổ của người già, trẻ em có cái khổ của trẻ em. Nên, trong những trận bão lũ này, nếu chúng ta có nhân duyên với chúng, thì hậu quả xảy ra, chúng không chừa một ai có nhân duyên với chúng cả.

Do đó, chúng tôi học theo lời Phật dạy: “Đem tâm yên bình, tâm từ bi mà đối xử với mọi người, đối xử với thiên hạ”. Nên, món quà từ chư Tôn đức thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, gửi đến bà con chỉ là món quà của tâm từ bi, tâm đồng cảm, tâm sẻ chia, để góp một phần nào xoa dịu sự mất mát to lớn của bà con chúng ta bị thiệt hại trong cớn bão lũ vừa qua.

Thưa quý vị!

Bì thư này, có bốn trăm ngàn đồng VN và một bịch gạo 08 kí lô gửi tặng đến bà con. Quý vị nhận bì thư này, nhận 08 cân gạo này, tôi đề nghị: với bì thư có bốn trăm ngàn đồng, quý vị chỉ tiêu đi ba trăm tám mươi ngàn đồng thôi, còn hai mươi ngàn đồng quý vị giữ lại, để có thể giúp đỡ, chia sẻ đến những ai nghèo khó hơn mình. Vì sao như vậy? Bởi vì như người xưa nói: “Hữu phước bất khả hưởng tận”. Nghĩa là có phước thì không nên hưởng hết. Nhờ vậy mà phước đức của mình còn hoài, nó còn từ đời này sang đời khác, vì nhờ có phước đức, nên tai nạn đến với mình nặng thành nhẹ, nhẹ thành ra không có gì. Mong bà con hiểu cho điều này. Đối với tám cân gạo, bà con đem về nấu cơm, đơm chén cơm trắng để cúng dường Phật, cúng dường Tổ tiên hay cúng dường trời đất, cúng dường những người đã hy sinh cho mình được sống trước khi dùng. Chúng ta cúng dường như vậy là để làm gì? Là để tỏ lòng hiếu kính của chúng ta đối với các Đấng cao cả, không những nuôi dưỡng chúng ta bằng cơm ăn, nước uống mà còn nuôi dưỡng chúng ta bằng những giá trị tinh thần, bằng những giá trị truyền thống tâm linh.

Cúng dường như vậy, chúng ta vừa báo đáp được công ơn mà đồng thời vừa nói lên sự biết ơn của chúng ta với tất cả. Nhờ vậy, phước đức của chúng ta tăng trưởng.

Hạnh phúc thay cho những ai biết ơn và may mắn thay cho những ai “ăn quả nhớ kẻ trồng cây; uống nước nhớ nguồn!”. Chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây; uống nước nhớ nguồn”, thì phước đức của chúng ta sẽ được kéo dài, cho nên tai nạn nhiều thành tai nạn ít, tai nạn ít thành không có tai nạn.

Trái lại, tai nạn dành cho những ai “ăn quả không nhớ kẻ trồng cây; uống nước không nhớ nguồn”, những người như vậy, tai nạn ít trở thành tai nạn nhiều, tai nạn nhiều trở thành tai nạn không ai cứu nổi.

Do đó, hôm nay món quà này, tuy không bao nhiêu, nhưng những giá trị tình cảm mà chúng tôi chia sẻ đến với quý vị là bảo vật trân quí.

Một vài tâm tình chúng tôi xin chia sẻ đến với bà con như thế, mong bà con hoan hỷ, nhận nơi đây tấm lòng chân tình của Phái đoàn chúng tôi.

Nam Mô A Di Đà Phật

 

Đệ tử: Nhuận Pháp Nguyên kính phiên tả.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2017(Xem: 15577)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 10890)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24347)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13207)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15518)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31439)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12151)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6775)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26670)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 14127)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567