Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Phẩm ‘Vô Biên Tế” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

12/08/202021:17(Xem: 9102)
23. Phẩm ‘Vô Biên Tế” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

2.23. phẩm vô biên tế

PHẨM ‘VÔ BIÊN TẾ”

Cuối quyển 420 đến đầu quyển 423, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Vô Sở Đắc”, cuối Q.61 đến đầu Q.70, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le




 


 

Gợi ý:

Phẩm “Vô Biên Tế” của Hội thứ II, ĐBN tương đương với phẩm “Thập Vô” của Kinh MHBNBLMĐ. Đây là một phẩm khó nuốt khó tiêu hóa. Hai Kinh giải thích những cái khó khăn của Bát nhã Ba la mật nhất là vấn đề sanh diệt, thường đoạn, khứ lai của các pháp v.v… Hy vọng phẩm này mở được đạo nhãn cho những ai thọ trì nó.

Phẩm “Vô Biên Tế” của Hội thứ II, ĐBN cũng tương đương với phẩm thứ 25, “Thập Vô”(Mười Điều Không), tập 3, quyển 52, Đại Trí Độ Luận.

(Lưu ý: Xin lặp lại: Phẩm tựa cũng như chánh văn của Kinh MHBNBLMĐ do La Thập dịch từ Phạn sang Hán cũng chính là phẩm tựa và chánh văn của Đại Trí Độ Luận do Bồ Tát Long Thọ biên soạn).

 

Tóm lược:

 

(Tất cả pháp Phật vô biên tế nên phải biết đại Bồ Tát cũng

vô biên tế)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát thời trước, thời sau, giữa, ba thời đều vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Sắc vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát cũng vô biên tế; thọ tưởng hành thức vô biên tế, nên phải biết Bồ Tát cũng vô biên tế. Mười hai xứ, mười tám giới vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát cũng vô biên tế. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát cũng vô biên tế; nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát cũng vô biên tế.

Bạch Thế Tôn! Nội không cho đến không tánh tự tánh, chơn như cho đến an ẩn giới vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát vô biên tế; sáu Ba la mật cho đến 37 pháp trợ đạo vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát cũng vô biên tế; tam giải thoát môn cho đến Phật mười lực vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát cũng vô biên tế; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát cũng vô biên tế. Thanh văn thừa vô biên tế, nên phải biết Bồ Tát cũng vô biên tế; Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế, nên phải biết đại Bồ Tát cũng vô biên tế. (Tất cả pháp Phật vô biên tế nên đại Bồ Tát cũng vô biên tế)

 

(Để giải thích điểm này Đại Trí độ Luận, Phẩm thứ 25, “Thập Vô”, tập 3, quyển 52, nói:

“Hỏi: Tâm và tâm sở là vô hình, nên chẳng có thể thấy được. Còn sắc có tướng, có hình thì sao cũng nói sắc là vô biên?

Đáp: Vì sắc pháp là vô sở xứ, nên là vô sắc, là bất khả đắc, là vô biên vậy.

Do có trù lượng, có chấp xa gần, nặng nhẹ... mà phàm phu mới nói sắc có biên bờ.

Phật dạy bốn đại đều là vô sở xứ nên chẳng có biên bờ. Vì sao? Vì chẳng có thể dùng năm thức mà trù lượng về các đại được, chẳng có thể dùng đấu, dùng cân... mà đo lượng các đại được. Bởi vậy nên nói sắc là vô biên.

Lại nữa, sắc quá khứ bất khả đắc, sắc hiện tại bất khả đắc, sắc vị lai bất khả đắc, nên nói sắc là vô biên, chẳng có bờ trước, chẳng có bờ sau, chẳng có chặng giữa.

Lại nữa, biên bờ của sắc chỉ là giả danh. Đây là do phân biệt mà có. Nếu sắc tán hoại thì biên bờ là bất khả đắc. Vì sao? Vì các pháp chẳng có định tướng vậy.

Lại nữa, vô vi pháp là bất sanh, bất diệt, nên khi quán được sắc là không, thì biết rõ vô số, vô lượng, vô biên sắc pháp cũng đều là không, cũng đều ví như hư không, cũng đồng là tướng vô vi vậy.

Như vậy, Bồ Tát cũng như hết thảy pháp đều là bất khả đắc.

Bởi vậy nên nói năm ấm vô biên, thì Bồ Tát cũng vô biên, bốn niệm xứ dẫn đến mười tám bất cộng pháp vô biên, thì Bồ Tát cũng vô biên”).

 

(Nơi tất cả pháp Phật, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc(1),

lìa tất cả pháp Phật, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu bất khả đắc).

 

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi(2) sắc, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly sắc, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi (ở) thọ tưởng hành thức, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly(lìa) thọ tưởng hành thức, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi mười hai xứ, mười tám giới đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly mười hai xứ, mười tám giới, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhãn xúc đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc, ly nhãn xúc đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc, ly nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc, ly nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc, ly nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi nội không cho đến vô tánh tự tánh không, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly nội không cho đến vô tánh tự tánh không, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi pháp giới đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly pháp giới đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi bố thí Ba la mật, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly bố thí, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi ba mươi bảy pháp trợ đạo, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly ba mươi bảy pháp trợ đạo đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi tam giải thoát môn, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly tam giải thoát môn đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Phật mười lực, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Phật mười lực, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. (Ngay trong tất cả pháp Phật hay ly tất cả pháp Phật đại Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc).

Bạch Thế Tôn! Ngay nơi Thanh văn thừa, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Thanh văn thừa, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi Độc giác thừa, Đại thừa Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Độc giác thừa, Đại thừa Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Con đối tất cả pháp đây, dùng tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm các Bồ Tát đều không thấy, trọn chẳng khá được, làm sao khiến con đem Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát được!

Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát, Bồ Tát chỉ giả danh, đều không tự tánh. Như nói ngã, chúng sanh, thọ giả… rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều không tự tánh. Các pháp cũng vậy rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều không tự tánh. (Q. 420, ĐBN)

 

(Trong năm ấm không có Bồ Tát, ngoài năm ấm cũng không có Bồ Tát. Nên nói Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Suy rộng ra, ngay trong tất cả pháp Phật, lìa tất cả pháp Phật cũng không có Bồ Tát. Nên nói, Bồ Tát là vô sở hữu bất khả đắc. Đó là lý do tại sao cụ thọ Thiện Hiện trình Phật: Đối tất cả pháp đây, dùng tất cả chủng, tất cả xứ, thời tìm các Bồ Tát đều không thấy, trọn chẳng khá được, làm sao có thể đem Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát được!

Vã lại, Bồ Tát chỉ giả danh, đều không tự tánh. Nếu không có tự tánh, thì rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh). 

 

(Tất cả pháp rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi là tất cả pháp.

Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ Tát năng hành

Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề)

 

Bạch Thế Tôn! Sao là sắc rốt ráo chẳng sanh, sao là thọ tưởng hành thức rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sắc, cũng chẳng gọi thọ tưởng hành thức. Sao là mười hai xứ, mười tám giới rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi mười hai xứ, cũng chẳng gọi mười tám giới.

Bạch Thế Tôn! Sao là nội không rốt ráo chẳng sanh, sao là ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi nội không, cũng chẳng gọi ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Sao là pháp giới rốt ráo chẳng sanh, sao là chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi pháp giới, cũng chẳng gọi chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy.

Bạch Thế Tôn! Sao là sáu Ba la mật rốt ráo chẳng sanh? Sao là ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sáu Ba la mật; cũng chẳng gọi là ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến tam giải thoát môn. Sao là Phật mười lực rốt ráo chẳng sanh? Sao là bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi Phật mười lực, cũng chẳng gọi bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Sao là Thanh văn thừa rốt ráo chẳng sanh, sao là Độc giác thừa, Đại thừa rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi Thanh văn thừa, cũng chẳng gọi Độc giác thừa hay Đại thừa.

Bạch Thế Tôn! Con đâu có thể đem Bát nhã Ba la mật rốt ráo chẳng sanh dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát rốt ráo chẳng sanh được. Bạch Thế Tôn! Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ Tát năng hành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Vã lại, 5 ấm, 12 xứ, 18 giới là những thứ sinh diệt đổi dời, không có tự tánh, nên chẳng sanh. Suy rộng ra, Bồ Tát chỉ giả danh, đều không tự tánh. Nếu không có tự tánh, thì rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh. Nên nói lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ Tát năng hành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề).

 

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát nghe thuyết như thế tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối; tâm kia chẳng kinh, chẳng e, chẳng sợ, phải biết Bồ Tát này năng hành Bát nhã Ba la mật.

Bấy giờ, Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Vì duyên cớ gì nói các Bồ Tát ba thời đều vô sở hữu bất khả đắc?

Xá Lợi Tử! Các hữu tình vô sở hữu nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Hữu tình không nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Hữu tình xa lìa nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Hữu tình vô tự tánh nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Sắc vô sở hữu nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; thọ tưởng hành thức vô sở hữu nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Sắc không nên các Bồ Tát Ma ha tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; thọ tưởng hành thức không nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Sắc xa lìa nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; thọ tưởng hành thức xa lìa nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Sắc vô tự tánh nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; thọ tưởng hành thức vô tự tánh nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Mười hai xứ, mười tám giới vô sở hữu nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; mười hai xứ, mười tám giới vô sở hữu nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; mười hai xứ, mười tám giới không nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; mười hai xứ, mười tám giới xa lìa nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; mười hai xứ, mười tám giới vô tự tánh nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả pháp Phật vô sở hữu nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; tất cả pháp Phật không nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; tất cả pháp Phật xa lìa nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc; tất cả pháp Phật vô tự tánh nên các Bồ Tát ba thời vô sở hữu bất khả đắc. Vì sao?

Xá Lợi Tử! Trong không như thế, thời trước chẳng khá được, thời sau chẳng khá được, thời giữa chẳng khá được, Bồ Tát cũng chẳng khá được. Xá Lợi Tử! Hoặc không như thế, hoặc thời trước, hoặc thời sau, hoặc thời giữa, hoặc Bồ Tát, tất cả pháp như thế đều không hai không hai phần. Xá Lợi Tử! Bởi nhân duyên đây tôi tác thuyết này: Các Bồ Tát thời trước vô sở hữu bất khả đắc, các Bồ Tát thời sau vô sở hữu bất khả đắc, các Bồ Tát thời giữa vô sở hữu bất khả đắc.

 

(Thời gian do con người thỏa thuận với nhau đặt ra để giúp tiện nghi cho sinh hoạt thế gian. Thời gian chỉ là quy ước, quy ước thì không phải thật, chỉ là giả định, thi thiết mà có. Vậy, ba thời không thể nắm bắt được, Bồ Tát cũng chẳng nắm bắt được. Bởi nhân duyên đó, nên nói Bồ Tát ba thời đều vô sở hữu bất khả đắc)

 

Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Vì duyên cớ gì nói sắc vô biên tế nên phải biết Bồ Tát cũng vô biên tế; thọ tưởng hành thức vô biên tế nên phải biết Bồ Tát cũng vô biên tế? Cho đến Thanh văn thừa vô biên tế nên phải biết Bồ Tát cũng vô biên tế; Độc giác thừa, Đại thừa vô biên tế nên phải biết Bồ Tát cũng vô biên tế?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Sắc như hư không, thọ tưởng hành thức như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Như hư không ba thời bất khả đắc. Do giới biên bất khả đắc, nên nói là hư không. Sắc cho đến thức cũng lại như thế, ba thời bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Trong không thời trước bất khả đắc, thời sau, thời giữa bất khả đắc, vì giới biên đều bất khả đắc, nên nói là không. Xá Lợi Tử! Bởi nhân duyên đây tôi tác thuyết này: Sắc vô biên tế, nên phải biết Bồ Tát cũng vô biên tế; thọ tưởng hành thức vô biên tế, nên phải biết Bồ Tát cũng vô biên tế. Cho đến Tam thừa cũng lại như vậy.

 

(Tánh không như hư không rộng lớn, không có biên giới, không ai có thể nắm bắt được hư không. Nên phải biết Bồ Tát cũng không có biên tế. Đại thừa cũng lại như thế).

 

Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hin rằng:

-Vì duyên cớ nào nói tức sắc, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly sắc, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Tức thọ tưởng hành thức, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly thọ tưởng hành thức, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến tức Thanh văn thừa, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Thanh văn thừa, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Tức Độc giác thừa, Đại thừa, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly Độc giác thừa, Đại thừa, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Sắc, tánh sắc không; thọ tưởng hành thức, tánh thọ tưởng hành thức không. Vì sao? Trong sắc tánh không, sắc vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ Tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Trong thọ tưởng hành thức tánh không, thọ tưởng hành thức vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ Tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Phi sắc, tánh phi sắc không. Phi thọ tưởng hành thức, tánh phi thọ tưởng hành thức không. Vì sao? Trong phi sắc tánh không, phi sắc vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ Tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Trong phi thọ tưởng hành thức tánh không, phi thọ tưởng hành thức vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ Tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Bởi nhân duyên đây tôi tác thuyết này: Ngay nơi sắc, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly sắc, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Ngay nơi thọ tưởng hành thức, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc; ly thọ tưởng hành thức, Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến Tam thừa cũng lại như vậy.

Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hin rằng:

- Vì duyên cớ gì nói tôi đối tất cả pháp, đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời, tìm các Bồ Tát đều không thấy, trọn chẳng khá được, làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Sắc, tánh sắc không, nên sắc đối sắc vô sở hữu bất khả đắc. Sắc đối thọ tưởng hành thức vô sở hữu bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức trong sắc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thọ, tánh thọ không, nên thọ đối thọ vô sở hữu bất khả đắc. Thọ đối sắc, tưởng, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, tưởng, hành, thức trong thọ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tưởng, tánh tưởng không, nên tưởng đối tưởng vô sở hữu bất khả đắc. Tưởng đối sắc, thọ, hành, thức vô sở hữu bất khả đắc. Sắc, thọ, hành, thức trong tưởng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Hành và thức cũng lại như vậy v.v… Xá Lợi Tử! Mười hai xứ, mười tám giới tánh mười hai xứ, mười tám giới không, nên mười hai xứ, mười tám giới đối mười hai xứ, mười tám giới vô sở hữu bất khả đắc cũng giống như vậy.

Xá Lợi Tử! Nhãn xúc, tánh nhãn xúc không, nên nhãn xúc đối nhãn xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc trong nhãn xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Nhĩ xúc, tánh nhĩ xúc không, nên nhĩ xúc đối nhĩ xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc đối nhãn tỷ thiệt thân ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn tỷ thiệt thân ý xúc trong nhĩ xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xúc, tánh tỷ xúc không, nên tỷ xúc đối tỷ xúc vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xúc đối nhãn nhĩ thiệt thân ý xúc vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn nhĩ thiệt thân ý xúc trong tỷ xúc cũng vô sở hữu bất khả đắc. Thiệt xúc, thân xúc, ý xúc… cũng lại như vậy.

Xá Lợi Tử! Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, tánh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không, nên nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ trong nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, tánh nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ không, nên nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu bất khả đắc. Nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu bất khả đắc. Nhãn tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ trong nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc… cũng lại như vậy.

Xá Lợi Tử! Sáu Ba la mật, tánh sáu Ba la mật không, nên sáu Ba la mật đối sáu Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Sáu Ba la mật đối ba mươi bảy pháp trợ đạo, vô sở hữu bất khả đắc. Ba mươi bảy pháp trợ đạo trong sáu Ba la mật cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy cho đến Phật mười lực, tánh Phật mười lực không, nên Phật mười lực đối Phật mười lực vô sở hữu bất khả đắc. Phật mười lực đối bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng trong Phật mười lực cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh mười tám pháp Phật bất cộng không, nên mười tám pháp Phật bất cộng đối mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Mười tám pháp Phật bất cộng đối Phật mười lực cho đến đại từ đại bi đại hỷ đại xả vô sở hữu bất khả đắc. Phật mười lực cho đến… đại xả trong mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí, tánh Nhất thiết trí không, nên Nhất thiết trí đối Nhất thiết trí vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết trí đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vô sở hữu bất khả đắc. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí trong Nhất thiết trí cũng vô sở hữu bất khả đắc. Đạo tướng trí, tánh Đạo tướng trí không, nên Đạo tướng trí đối Đạo tướng trí vô sở hữu bất khả đắc. Đạo tướng trí đối Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí trong Đạo tướng trí cũng vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết tướng trí, tánh Nhất thiết tướng trí không, nên Nhất thiết tướng trí đối Nhất thiết tướng trí vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết tướng trí đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí trong Nhất thiết tướng trí cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Dự lưu, tánh Dự lưu không, nên Dự lưu đối Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu đối Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Nhất lai cho đến Như Lai trong Dự lưu cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến Như Lai, tánh Như Lai không, nên Như Lai đối Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Như Lai đối Dự lưu cho đến Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu cho đến Bồ Tát trong Như Lai cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Bồ Tát, tánh Bồ Tát không, nên Bồ Tát đối Bồ Tát vô sở hữu bất khả đắc. Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền vô sở hữu bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền trong Bồ Tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật, tánh Bát nhã Ba la mật không, nên Bát nhã Ba la mật đối Bát nhã Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật đối Bồ Tát tát dạy bảo trao truyền vô sở hữu bất khả đắc. Bồ Tát dạy bảo trao truyền trong Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu bất khả đắc. Dạy bảo trao truyền, tánh dạy bảo dạy trao không, nên dạy bảo trao truyền đối dạy bảo trao truyền vô sở hữu bất khả đắc. Dạy bảo trao truyền đối Bồ Tát, Bát nhã Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Bồ Tát, Bát nhã Ba la mật trong dạy bảo trao truyền cũng vô sở hữu bất khả đắc.

 

(Không có pháp nào đối với pháp nào dù nhỏ nhiệm bằng đầu mảy lông có tự tánh hòa hợp, có cộng hữu, nên nói tất cả đều vô sở hữu bất khả đắc, tất cả đều không. Nên không cộng với không cũng là không, không có đáp số nào trong phương trình này cả).

 

Xá Lợi Tử! Tôi đối tất cả pháp đây thảy, đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm Bồ Tát đều vô sở hữu cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Bởi nhân duyên đây tôi tác thuyết: Đối với tất cả pháp đây, đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm các Bồ Tát đều không thấy đâu, trọn chẳng khá được, làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật-đa dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát!

Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hin rằng:

- Vì duyên cớ gì nói các Bồ Tát, các Bồ Tát chỉ có giả danh đều vô tự tánh?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Vì danh các Bồ Tát chỉ nhiếp khách danh.

Khi ấy, Tôn giả Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Do duyên nào nên nói: Tên các Bồ Tát chỉ là tạm mượn mà có?

Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Như tên sắc chỉ là tạm mượn mà có, tên thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sắc chẳng phải là tên, tên chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là tên, tên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Trong sắc v.v... không có tên, trong tên không có sắc v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh của sắc v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc sắc v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá lợi Tử! Tên các Bồ Tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Bồ Tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Xá lợi Tử! Như tên mười hai xứ chỉ tạm mượn mà có, tên mười tám giới chỉ tạm mượn mà có. Vì sao? Vì mười hai xứ chẳng phải tên, tên chẳng phải mười hai xứ. Mười tám giới chẳng phải tên, tên chẳng phải mười tám giới. Trong xứ, giới không có tên, trong tên không có xứ giới. Chẳng hợp chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh của xứ, giới và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc xứ, giới hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Xá Lợi Tử! Như tên sáu Ba la mật chỉ tạm mượn mà có; tên ba mươi bảy pháp trợ đạo chỉ tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sáu Ba la mật chẳng phải tên, tên chẳng phải sáu Ba la mật; Ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng phải tên, tên chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo. Trong sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo không có tên, trong tên không có sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo. Chẳng hợp chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh của sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo và tên là không. Trong tự tánh không hoặc sáu Ba la mật, hoặc 37 pháp trợ đạo hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc vậy. Xá Lợi Tử! Tên Bồ Tát cũng lại như thế, chỉ tạm mượn mà có. Do đấy nên nói các Bồ Tát chỉ có giả danh đều vô tự tánh.

Xá lợi Tử! Cho đến như tên Nhất thiết trí chỉ là tạm mượn mà có; tên Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì Nhất thiết trí chẳng phải là tên, tên chẳng phải là Nhất thiết trí. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng phải là tên, tên chẳng phải là Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Trong Nhất thiết trí v.v... không có tên, trong tên không có Nhất thiết trí v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh Nhất thiết trí v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc Nhất thiết trí v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc. Xá lợi Tử! Tên Bồ Tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Bồ Tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Tôn giả Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Vì duyên cớ nào nói như nói ngã, chúng sanh, thọ mạng… rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Ngã rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Cho đến kiến giả cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; thọ tưởng hành thức cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Mười hai xứ, mười tám giới rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Nhãn xúc rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Sáu Ba la mật rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Nội không rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. 37 pháp trợ đạo rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Như vậy cho đến Phật mười lực rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Thanh văn thừa rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; Độc giác thừa, Đại thừa cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây tôi tác thuyết: Như nói ngã, chúng sanh, thọ giả v.v… rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh.

 

(Tất cả pháp rốt ráo đều vô sở hữu bất khả đắc làm sao có sanh, vì tất cả pháp đều không, không có tự tánh, nên bảo là không).

 

Tôn giả Xá Lợi Tử lại hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Do duyên nào nên nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Tự tánh các pháp hoàn toàn không hòa hợp. Vì sao? Vì tự tánh pháp hòa hợp cũng không.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Tự tánh pháp nào hoàn toàn không có hòa hợp?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Tự tánh của sắc hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của mười hai xứ, mười tám giới hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn xúc hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của sáu Ba la mật hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của ba mươi bảy pháp trợ đạo cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Cho đến tự tánh mười lực của Phật hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Cho đến tự tánh của Thanh văn thừa hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của Độc giác thừa, Đại thừa hoàn toàn cũng không có hòa hợp.

Xá lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

 

(Tự tánh của tất cả pháp hoàn toàn không có hòa hợp, nên rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh. Đó là hệ quả của cái gọi là nhân duyên hòa hợp).

 

Lại nữa, Xá lợi Tử! Các pháp chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Bấy giờ, Tôn giả Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Pháp nào chẳng phải thường cũng không có chỗ đi?

Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Sắc chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Vì sao? Vì pháp chẳng thường tự tánh tận vậy. Do đây nên nói pháp nào chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Xá lợi Tử! Pháp hữu vi chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô vi chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Pháp hữu lậu chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô lậu chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp thiện chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp ác chẳng phải thường cũng không có chỗ đi v.v... Vì sao? Xá lợi Tử! Vì pháp chẳng thường tự tánh tận vậy.

Xá lợi Tử! Do đây nên nói nếu pháp chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Các pháp chẳng thường cũng không hoại diệt.

Bấy giờ, Tôn giả Xá lợi Tử lại hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Pháp nào chẳng thường cũng không hoại diệt(3)?

Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Sắc chẳng thường cũng không hoại diệt, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thường cũng không hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy.

Xá lợi Tử! Pháp hữu vi chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô vi chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp hữu lậu chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô lậu chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp thiện chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp ác chẳng thường cũng không hoại diệt v.v… Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy.

Xá lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Tôn giả Xá lợi Tử lại hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Do duyên nào nên nói: Những sắc nào rốt ráo không sanh, những thọ, tưởng, hành, thức nào rốt ráo không sanh, cho đến những Thanh văn thừa nào rốt ráo không sanh; những Độc giác thừa, Đại thừa nào rốt ráo không sanh?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Bản tánh tất cả sắc không sanh, bản tánh tất cả thọ, tưởng, hành, thức không sanh. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức không có tạo tác nên không có sanh khởi. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức tác giả, khởi giả bất khả đắc.

Xá lợi Tử! Cho đến bản tánh tất cả Thanh văn thừa không sanh; bản tánh tất cả Độc giác thừa, Đại thừa không sanh. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa không có tạo tác nên không có sự sanh khởi. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa tác giả, khởi giả bất khả đắc.

Xá lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Sắc rốt ráo không sanh; thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo không sanh, cho đến Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa rốt ráo không sanh.

Tôn giả Xá lợi Tử lại hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Do duyên nào nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc, cũng không gọi là thọ, tưởng, hành, thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa; cũng không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Sắc bản tánh không. Nếu bản tánh là không, thì không thể thi thiết, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi là sắc. Vì sao? Vì không chẳng phải sắc(4).

Xá lợi Tử! Thọ, tưởng, hành, thức bản tánh không. Nếu bản tánh là không, thì không thể lập hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì không chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.

Xá lợi Tử! Cho đến Thanh văn thừa bản tánh không. Nếu bản tánh là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi là Thanh văn thừa. Vì sao? Vì không chẳng phải Thanh văn thừa. Xá lợi Tử! Bản tánh của Độc giác thừa, Đại thừa cũng lại như vậy. Do nhân duyên này tôi nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc, cũng không gọi là thọ, tưởng, hành, thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa, cũng không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa.

Tôn giả Xá lợi Tử lại hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Do duyên nào nên nói: Lẽ nào tôi có thể đem Bát nhã Ba la mật rốt ráo không sanh, dạy bảo, truyền trao cho các Bồ Tát rốt ráo không sanh?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tức rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì rốt ráo chẳng sanh và Bát nhã Ba la mật không hai, không hai phần(5). Rốt ráo không sanh tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là rốt ráo không sanh. Vì sao? Vì rốt ráo không sanh và Bồ Tát cũng không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói như vầy: Lẽ nào tôi có thể đem Bát nhã Ba la mật rốt ráo không sanh dạy bảo truyền trao cho các Bồ Tát rốt ráo không sanh.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

- Do duyên gì nên nói: Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ Tát có thể hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?

- Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh mà có Bát nhã Ba la mật. Cũng không thấy không lìa rốt ráo chẳng sanh mà có Bồ Tát. Vì sao? Vì hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc Bồ Tát cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có sắc, cũng không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có 12 xứ, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có 18 giới. Vì sao? Vì hoặc mười hai xứ, hoặc mười tám giới cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có nhãn xúc, cũng không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Nói rộng ra, các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến Phật mười lực; cũng không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì hoặc sáu Ba la mật, hoặc ba mươi bảy pháp trợ đạo, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có Nhất thiết trí; cũng không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí; hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có Thanh văn thừa, cũng không thấy lìa rốt ráo chẳng sanh có Độc giác thừa, Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, Đại thừa cùng với rốt ráo chẳng sanh, không hai, không hai phần.

Xá lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ Tát có thể hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi: Do duyên nào nên nói: Bồ Tát nào nghe nói như vậy, tâm không hoang mang, cũng chẳng lo lắng, hối hận, không kinh hãi, sợ sệt. Nên biết Bồ Tát này có thể hành Bát Nhã.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy các pháp thật có tác dụng, chỉ thấy các pháp như mộng, như huyễn, như tiếng vang, như bóng sáng, như sóng nắng, như ảnh ảo, như thành tầm hương (Càn thát bà), như việc biến hóa, tuy hiện như có, nhưng không thật dụng. Nghe nói bản tánh các pháp đều không, sanh tâm rất hoan hỷ, xa lìa hoang mang.

Xá lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Bồ Tát nào nghe nói như vậy, tâm không hoang mang, cũng không lo lắng, hối hận, không kinh hãi, không sợ sệt. Nên biết Bồ Tát này có thể hành Bát nhã Ba la mật.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng(6):

- Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ Tát tu hành Bát Nhã quán sát các pháp. Khi ấy, Bồ Tát đối sắc không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối thọ tưởng hành thức không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này lúc bấy giờ chẳng thấy sắc cho đến thức vậy. Đối với mười hai xứ không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối với mười tám giới cũng không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này lúc bấy giờ chẳng thấy xứ cho đến giới vậy. Đối nhãn xúc không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này bấy giờ chẳng thấy nhãn xúc cho đến ý xúc vậy. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này chính lúc bấy giờ chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.

Đối nội không không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này lúc bấy giờ chẳng thấy nội không cho đến vô tánh tự tánh không vậy. Đối với sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này chính lúc bấy giờ chẳng thấy sáu Ba la mật cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo vậy. Như vậy cho đến đối Phật mười lực không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này lúc bấy giờ chẳng thấy Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vậy. Cho đến đối Nhất thiết trí không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không thọ, không lấy, không trụ, không trước, cũng chẳng thi thiết là ngã. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này chính lúc bấy giờ chẳng thấy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vậy.

Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng thấy sắc, cũng chẳng thấy thọ tưởng hành thức. Vì sao? Sắc thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy mười hai xứ, mười tám giới. Vì sao? Xứ, giới thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy nhãn xúc, cũng chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Vì sao? Nhãn xúc thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì sao? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy nội không, cũng chẳng thấy ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Vì sao? Nội không thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy pháp giới; cũng chẳng thấy chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy. Vì sao? Pháp giới thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo. Vì sao? Sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Như vậy cho đến chẳng thấy Phật mười lực, cũng chẳng thấy bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Phật mười lực thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy Bồ Tát hạnh, cũng chẳng thấy chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Tất cả Bồ Tát hạnh thảy tánh không, vô sanh diệt vậy. Chẳng thấy Nhất thiết trí; cũng chẳng thấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Nhất thiết trí thảy tánh không, vô sanh diệt vậy.

Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sắc; thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng phi thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng v.v… cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên sắc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sắc; thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải thọ tưởng hành thức.

Bạch Thế Tôn! Mười hai xứ, chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải mười hai xứ, mười tám giới chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải mười tám giới. Vì sao? Vì xứ giới cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên mười hai xứ chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải mười hai xứ; mười tám giới chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải mười tám giới.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên nhãn xúc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì sao? Vì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Bạch Thế Tôn! Nội không chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nội không; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Vì sao? Vì nội không thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên nội không chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải nội không; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Pháp giới chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy. Vì sao? Vì pháp giới thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên pháp giới chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy.

Bạch Thế Tôn! Sáu Ba la mật chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sáu Ba la mật; ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo. Vì sao? Vì Sáu Ba la mật cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng nhiều, chẳng khác. Vậy nên sáu Ba la mật chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sáu Ba la mật; mười hai xứ, mười tám giới chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải mười hai xứ, mười tám giới.

Bạch Thế Tôn! Tất cả Bồ Tát hạnh chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải tất cả Bồ Tát hạnh. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả Bồ Tát hạnh thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vậy nên tất cả Bồ Tát hạnh chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải tất cả Bồ Tát hạnh. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Nhất thiết trí chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí thảy cùng chẳng sanh chẳng diệt, không hai không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Vậy nên Nhất thiết trí chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

 

(Để giải thích đoạn kinh này, Đại Trí Độ Luận rằng:

Theo như trên đây, thì Bồ Tát biết rõ các pháp đều là tự tướng không, nên dùng tánh không để phá các chấp về tự tướng của các pháp.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Các pháp do duyên hoà hợp sanh, nên đều là tự tướng không. Do năm ấm hoà hợp mà có Bồ Tát, có Bồ Tát danh tự, có Bồ Tát hành sáu pháp Ba La Mật, có Bồ Tát hành các thiện pháp... Thế nhưng, hết thảy các pháp đều chỉ là giả danh, đều là tự tướng không cả.

Ví như, mắt thấy cảnh, phải hội đủ các duyên hoà hợp như: Nhãn căn duyên sắc trần phải nương vào ánh sáng, phải có đủ khoảng hư không, lại phải có thêm bao nhiêu thứ duyên khác, mới thành tựu được sự thấy. Bởi vậy nên nói “pháp thấy” là rốt ráo không, là như mộng, như huyễn. Dẫn đến hết thảy các pháp cũng đều là như mộng, như huyễn cả.

Lại nữa, nên biết hết thảy pháp đều chẳng phải thường (vô thường), chẳng phải đoạn (vô đoạn). Nói vô thường là nhằm phá chấp thường, còn nói vô đoạn là nhằm phá chấp đoạn.

Chấp “thường còn” và chấp “đoạn diệt” đều là các kiến chấp điên đảo. Nếu Bồ Tát biết rõ các pháp như vậy, thì vào được “thật tướng môn”, nên Ngài Tu Bồ Đề nói: Vô thường tướng là động tướng, là không tướng vậy.

 

--o0o--

 

Lại nữa, nên biết năm ấm là rốt ráo bất sanh, vì tướng sanh là bất khả đắc; dẫn đến năm ấm chẳng phải là tác pháp, vì tác giả là bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc là phi sắc, là chẳng phải sắc... dẫn đến thức là phi thức, là chẳng phải thức.

Nơi đây, ngài Tu Bồ Đề muốn nói: Sắc do duyên hoà hợp sanh là tự tướng không, là vô tướng, là pháp vô sanh, vô trú, vô dị, vô diệt. Dẫn đến thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy cả.

Lại nữa, tướng bất sanh chẳng phải là tướng hữu vi nên pháp vô sanh nhiếp về vô vi pháp. Hết thảy các pháp cũng đều rốt ráo bất sanh như vậy cả.

Hỏi: nếu các pháp là rốt ráo bất sanh thì còn dạy Bát Nhã Ba La Mật cho ai được nữa?

Đáp: rốt ráo bất sanh chính là thật tướng pháp. Mà thật tướng pháp chính là Bát Nhã Ba La Mật vậy.

Hỏi: Bồ Tát cũng rốt ráo bất sanh. Như vậy làm sao mà giáo hoá Bát Nhã Ba La Mật cho Bồ Tát được?

Đáp: Nếu ly rốt ráo bất sanh mà có Bồ Tát thì mới nói có pháp Bát nhã Ba la mật để giáo hoá cho Bồ Tát. Vì sao? Vì rốt ráo bất sanh, Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát là những pháp chẳng phải hai, chẳng phải khác.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao còn dạy cho người hành đạo phải ly rốt ráo bất sanh?

Đáp: Như trên đây đã nói: nếu Bồ Tát nào nghe nói lời này mà chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ, thì phải biết đó là Bồ Tát Ma Ha Tát đã vào được thật tướng của các pháp. Ở trong đó, Bồ Tát chẳng còn thấy có chúng sanh, chẳng còn thấy ngã, dẫn đến chẳng còn thấy tri giả, kiến giả, chẳng còn thấy có người thuyết pháp, có người nghe pháp, chẳng có thấy có tà thuyết, có chánh thuyết. Vì sao? Vì đã biết rõ hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp sanh, khi hội đủ duyên hoà hợp thì có sanh, khi các duyên ly tán thì là diệt. Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là hư vọng, là hư huyễn, là chẳng có định tướng, là bất sanh, bất diệt. Bởi vậy nên dù phải chết cấp thời, dù phải đoạ vào địa ngục, Bồ Tát vẫn giữ tâm bất động, chẳng hề sanh sợ hãi.

Ví như người nằm mộng thấy bao nhiêu cảnh tượng kinh hoàng, sanh tâm sợ hãi, nhưng khi vừa tỉnh mộng là liền biết rõ cảnh trong mộng chỉ là hư vọng, khiến các nỗi sợ hãi liền tan biến. Cũng như vậy, người tu hành khi còn vọng tâm, còn bị các pháp thế gian trói buộc thì vẫn còn sợ hãi. Nhưng khi đã vào được thật tướng pháp rồi, thì sẽ biết rõ các sự việc diễn biến trong thế gian chỉ là những cảnh mộng dài, tương tục nối tiếp, biết rõ hết thảy các cảnh ở thế gian chỉ là hư vọng, chẳng thật có. Lúc bấy giờ thì chẳng còn sợ hãi nữa”).

 

(Còn tại sao gọi: Sắc bất nhị chẳng phải là sắc?)

 

Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng hai (bất nhị) tức chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng chẳng phải thọ tưởng hành thức. Mười hai xứ chẳng hai tức chẳng phải mười hai xứ, mười tám giới chẳng hai cũng chẳng phải mười tám giới. Nhãn xúc chẳng hai tức chẳng phải nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng hai cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng hai tức chẳng phải nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng hai cũng chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Nội không chẳng hai tức chẳng phải nội không, ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng hai cũng chẳng phải ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Pháp giới chẳng hai tức chẳng phải pháp giới; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… chẳng hai cũng chẳng phải chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới...

Sáu Ba la mật chẳng hai tức chẳng phải sáu Ba la mật; ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng hai tức chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo. Như vậy, Phật mười lực chẳng hai tức chẳng phải Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng hai chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng. Tất cả Bồ Tát hạnh chẳng hai tức chẳng phải tất cả Bồ Tát hạnh. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng hai tức chẳng phải chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhất thiết trí chẳng hai tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng hai cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Bạch Thế Tôn! Sắc nhập vô nhị pháp số (vào pháp số không hai)(7), thọ tưởng hành thức nhập vô nhị pháp số. Mười hai xứ nhập vô nhị pháp số, mười tám giới nhập vô nhị pháp số. Nhãn xúc nhập vô nhị pháp số, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc nhập vô nhị pháp số. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ nhập vô nhị pháp số, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ nhập vô nhị pháp số. Nội không nhập vô nhị pháp số, ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không nhập vô nhị pháp số. Pháp giới nhập vô nhị pháp số; chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… nhập vô nhị pháp số. Sáu Ba la mật nhập vô nhị pháp số, ba mươi bảy pháp trợ đạo nhập vô nhị pháp số. Như vậy cho đến Phật mười lực nhập vô nhị pháp số. Tất cả Bồ Tát hạnh nhập vô nhị pháp số. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhập vô nhị pháp số. Nhất thiết trí nhập vô nhị pháp số; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí nhập vô nhị pháp số.

 

(Nếu sắc sinh và diệt, thì sắc cũng vô thường. Đã là vô thường thì có đó rồi biến thành không. Nên nói sắc rơi vào nhị pháp thì sắc không phải là sắc nữa. Sinh và diệt là nhị pháp. Có sinh có diệt là có động chuyển, đổi dời tâm không còn như như. Tu là cốt để tâm được tịch lặng an nhiên. Vì vậy, bất nhị pháp môn mới được xem là pháp tối cao trong tám mươi bốn vạn pháp môn Phật học).

 

Thích nghĩa:

(1). Vô sở hữu, bất khả đắc: Hai cụm từ huyền diệu này giữ một vai trò quan trọng trong đạo Phật, nó trở thành thánh chỉ trong việc tu hành. Nên trong Kinh Luận thường nói đến, nhắc nhở luôn. Nhưng chúng rất khó giải thích, nên rất khó hiểu:

- Vô sở hữu tạm dịch là không thể có được, không thể chiếm hữu, thí dụ như gió.

- Bất khả đắc nói nôm na là không thể lấy, không thể đạt được thí dụ như lửa chẳng hạn.

Tại sao nói gió không thể có, không thể chiếm hữu nên nói là vô sở hữu? Gió là sự chuyển động của không khí: Hơi nóng từ chỗ này bốc lên, tạo thành một khoảng trống. Không khí chỗ khác lạnh hơn di chuyển để lắp khoảng trống ấy. Sư chuyển động do thay đổi áp suất này tạo thành gió. Vậy có ai có thể lấy gió làm của riêng? Không ai có thể “bắt gió” được, nên nói gió là vô sở hữu.

Còn lửa, ai cũng thấy lửa, ai cũng biết lửa, ai cũng biết tính cách thực dụng của nó. Nhưng tại sao nói lửa là bất khả đắc? Bất khả đắc có nghĩa là thấy biết nhưng: 1. Không thể được. 2. Không tồn tại. 3. Không bám dính tự thể tồn tại, như các pháp chẳng thể được. 4. Đối với vật không xác định và không bản chất, tìm cũng không thể được(định nghĩa của Từ điển Phật Quang). Có thể diễn dịch bốn nghĩa này trong thí dụ cụ thể sau đây. Như lửa không nằm trong củi, lửa không nằm ngoài củi. Dùi một khúc cây ngắn nhiều lần trên một miếng gỗ có để bùi nhùi, gỗ phát nóng bật thành lửa. Người ta tạm thời có lửa. Vậy, có lửa là do duyên hợp mà có. Có đó rồi biến đó, nên nói lửa là bất khả đắc. Bất khả đắc là trong củi không có lửa, lìa củi cũng không có lửa. Lửa xuất hiện rồi biến mất. Đất nước gió lửa (tứ đai) hay tất cả pháp đều vô thường như vậy cả, nên nói vô sở hữu bất khả đắc còn có “nghĩa là không”. Giáo pháp vô sở hữu bất khả đắc có thể dùng giải thích Tánh không Bát Nhã về sanh diệt, đoạn thường, khứ lai nhất là trong phẩm “Vô Biên Tế” của Kinh ĐBN hay phẩm “Thập Vô” của Kinh MHBNBLMĐ. TB.

(2). Bản dịch đã củ soát dịch là “ngay nơi sắc”, trong khi bản dịch của HT Thích Trí Nghiệm lại dịch “tức sắc”. Nguyên văn bản chữ Hán là tức sắc”

(3). Pháp nào chẳng thường cũng không hoại diệt: Nguyên văn bằng chữ Hán là: pháp phi thường . diệc sở khứ ” .

(4). Nguyên văn câu chữ Hán: giả . Lợi Tử . sắc bổn tánh không cố . nhược pháp bổn tánh không tắc bất khả thi thiết nhược sanh . nhược diệt . nhược trụ . nhược dị . do thử duyên cố . nhược tất cánh bất sanh tắc bất danh sắc . cố . không phi sắc cố” là: “Này Xá lợi Tử! Sắc bản tánh không. Nếu bản tánh là không, thì không thể thi thiết, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi là sắc. Vì sao? Vì không chẳng phải sắc”.

(5). Không hai, không hai phần, dịch nguyên văn câu chữ Hán: nhị nhị xứ cố”. Các bản khác thường dịch từ “xứ” chữ Hán là “chỗ”, có khi không dịch ra Việt, giữ y nguyên văn chữ Hán là “xứ”; nhiều bản dịch lại thường dịch là “phần”. Chúng tôi chọn từ phổ thông nhất là phần.

(6). Đoạn Kinh này từ đây trở xuống tương đương với phẩm “Quán Hạnh” từ quyển 70 đến phần cuối quyển 71, Hội thứ I, ĐBN.

(7). Sắc nhập vô nhị pháp số: Dịch là sắc vào pháp số chẳng hai, nguyên văn chữ Hán là sắc nhập nhị pháp số”. Pháp số chỉ các con số đứng trước những danh từ như nhị nguyên(phân hai), tam tế(ba thời), tứ cú… Trong đạo Phật thay vì nói chẳng phải một thì nói chẳng hai (vô nhị, bất nhị), vì có một tức có hai, có hai tức có ba…, chẳng hai tức chỉ có một, duy nhất một. Vì vậy, từ sắc cho đến Nhất thiết trí vào vô nhị pháp số không rối! (Xem lại thích nghĩa trong phẩm “Quán Hạnh”, Q.71 và Q.72, ĐBN)

Tự điển Phật Quang giải thích pháp số như sau:(法數) Cũng gọi Danh số, Sự số. Chỉ cho những danh từ trong Phật giáo có chữ chỉ số đứng trước. Như: Tam giới (3 cõi), Tứ đế(4 đế), Ngũ uẩn(5 uẩn), Lục độ (6 độ), Bát chính đạo(8 chính đạo), Thập nhị nhân duyên (12 nhân duyên), Ngũ vị thất thập ngũ pháp (5 vị 75 pháp) v.v... Thông thường các số này được ghi theo hình thức tăng 1 số từ 1 theo thứ tự đến 2, 3, 4 v.v... Kinh Tạp A hàm, Kinh Bản sự... lấy pháp số làm trung tâm để giải thích các Kinh nói về pháp số. Kinh Pháp tập danh số cũng là Kinh điển liệt kê pháp số. Lý Sư Chính đời Đường biên soạn Pháp môn danh nghĩa tập, Nhất Như đời Minh biên soạn Đại minh tam tạng pháp số... đều là các trứ tác sưu tập các pháp số. Ngoài ra, các sách đồng loại còn có: Đại tạng pháp số, Tạng thừa pháp số, Chư thừa pháp số... lưu hành rất rộng.

 

Lược giải:

 

Kinh thuyết: “Sắc chẳng sanh chẳng diệt thì chẳng phải sắc” và Kinh cũng thuyết “sắc chẳng hai tức chẳng phải sắc”. Sanh và diệt là nhị pháp: Tất cả pháp hữu vi do duyên hợp lại từ không mà trở thành có thì gọi là sanh; các pháp đang hiện hữu mà biến hoại, tan rã thì gọi là diệt. Sự xuất hiện và tan rã đó gọi là sanh diệt. Sinh và diệt là nhị nguyên, pháp phân hai. Pháp không hai(bất nhị), tức chẳng sanh chẳng diệt, thì không thành một pháp, nên Kinh nói: “Sắc chẳng hai tức chẳng phải sắc”. Ngược lại, bất sanh bất diệt là vô nhị. Pháp nào thường còn bất biến, nằm ngoài sự phân biệt của lưỡng nguyên đối đãi thì gọi là pháp bất nhị. Pháp Phật là pháp môn bất nhị. Khi thấy sắc nội, ngoại, hay cả nội ngoại đều không, vô sở hữu bất khả đắc thì lúc đó sẽ biết sắc nhập vô nhị pháp số.

Xin đọc lại phẩm “Vô Sở Đắc”, cuối quyển 61 đến đầu quyển 70 và phần đầu phẩm “Quán Hạnh”, Hội thứ I, ĐBN. Vì hai phẩm này dễ hiểu hơn. Phẩm này có nhiều giáo pháp tư tưởng khác nhau, rất khó lược giải kết hợp. Nên chúng tôi trích dẫn Luận Đại Trí Độ kèm theo chính văn để giúp độc giả nắm vững vấn đề. Như thế tạm đủ không cần dong dài thêm nữa.

 

Lưu ý: Vì không muốn trùng tuyên nên chúng tôi không lặp lại các chiết giải của Hội thứ I ở đây. Như nhiều lần nhắc nhở nội dung của 6 Hội đầu gần như giống nhau chỉ khác là giải rộng hay tóm lược mà thôi. Chúng tôi tập trung thích nghĩa và lược giải nhiều ở Hội thứ I, Hội thứ II và Hội IV. Chỉ cần nắm vững một Hội là nắm vững 6 Hội đầu. Đó là đứng về phương diện chiết giải Kinh.

Đứng về phương diện lịch sử mà nói: Sở dĩ, Kinh trùng tụng chánh văn trong 6 Hội đầu cùng một chủ đề như nhau là vì Phật thuyết Đại Bát Nhã trong 22 năm, tại nhiều nơi khác nhau khi ở đỉnh Linh Thứu núi Kỳ Xà Quật, thuộc thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà, khi ở vườn Cấp Cô độc, khi ở Cung trời Tha Hóa Tự Tại hay Tịnh Xá Trúc Lâm gần ao cò trắng trong thành Vương Xá v.v... trong nhiều pháp hội khác nhau với các thành phần tham dự cũng khác. Vì vậy, mới có tổng cộng 16 pháp hội, trong đó 6 Hội đầu chủ đề thuyết pháp chỉ là một. Đối với chúng ta do vậy mới cho là trùng tuyên. Do đó, Kinh ĐBN trở nên nặng nề.

Trong việc chiết giải Kinh ĐBN chỉ thấy có hai tác phẩm là bộ “Đại Độ Trí Luận” do Bồ Tát Long Thọ biên soạn và thiên Tổng luận do chúng tôi soạn thảo, suốt dòng lịch sử Phật đạo trong vòng 26 thế kỷ vừa qua.

Nhưng chẳng có gì phiền hà, chúng ta có dịp may là nhờ sự trùng tuyên này mới có thể ru ngủ cảm quan và ý thức. Cảm quan và ý thức là một thứ tình thức lệch lạc, thường xuyên gây phiền não trong cuộc sống của chúng ta. Nhờ trùng tụng qua nhiều năm tháng các cảm quan ý thức sẽ giảm bớt áp lực hay nói khác là giảm thiểu ảnh hưởng của chúng trong đời sống thường nhật. Chúng là thứ cảm thọ và thức vọng được coi là mau mắn, nhanh nhẹn như một tấm lưới giăng trước mắt tai mũi lưỡi chúng ta, nó chỉ cho qua những gì hợp với nó và ngăn chận những gì nghịch với nó.

Do đọc tụng lâu ngày một giác quan mới sẽ nhảy vào thay thế vai trò của chúng trong nhận thức. Đó là trực giác thực chứng phát sinh qua trì tụng. Người ta tin tưởng rằng với trực giác mới này sẽ cho ta một huệ nhãn có thể soi sáng cho đến cõi đời vô tận! Vậy, cứ một mặt trì tụng, trì tụng mãi rồi sẽ thấy cái diệu dụng bí ẩn xảy ra ngoài sự mong đợi đằng sau của sự trì tụng này./.

 

---o0o---

 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com