Diệu
Nga
DỐC MƠ ĐỒI
MỘNG
Tu
Viện Trúc Lâm Canada Xuất Bản PL. 2547 DL. 2003
Những
Giọt Lệ HồngMẹ
tôi không muốn di cư sang Mỹ ở tuổi sáu mươi. “Già
rồi, sang bên ấy chỉ ăn bám vợ chồng chúng mày!”. Bà nói khăng khăng như thế nhưng con gái xuống nước năn
nỉ ỉ ôi, bà lại xiêu lòng.
Ờ,
nó nói cũng phải, mình qua bên ấy giữ cháu ngoại cũng vui,
lại đỡ nhớ, khỏi phải chờ mong. Mình ở đây nó
phải gửi tiền về cấp dưỡng, tốn kém lắm chớ chẳng
không!”
Dì
tôi cười, nói như lẩy: “Nợ đòi rồi đấy, cứ sang
mà trả cho xong!” Nghe mẹ kể lại lời dì, tôi cảm
thấy hơi áy náy. Quả thật tôi cần mẹ không chỉ thuần
túy vì tình cảm. Tôi cầu cứu bà sang để chăn bầy
cháu bốn đứa. Dạo này buôn bán ể ẩm, tôi không kham
nỗi tiền giữ trẻ, cũng không thể tiếp tế đều đặn
cho mẹ nên rước bà qua là nhứt cử lưỡng tiện…
Căn
nhà ba phòng của vợ chồng tôi, bề ngoài trông cũng khang
trang với cây cảnh chung quanh và cửa garage tự động nhưng
thật ra chỉ rộng 1100 sf. Trừ phòng ngủ chánh tương
đối rộng rãi, hai phòng còn lại vuông vức, nhỏ xíu xiu. Đất ở San Francisco là đất vàng. Căn nhà cũ kỷ năm
mươi tuổi này trị giá chừng sáu chục ngàn nhưng lô đất
4000 sf của nó giá hơn bốn trăm, dù là nằm ở vùng ngoại
ô xa tít. Thành ra cứ rán giữ, rán nắm dù mệt muốn
hụt hơi.
Cửa
tiệm fast food bán cho nhân viên các hãng xưởng gần đây cũng
theo đà lay-off mà đi xuống. Đến đầu tháng là chúng
tôi điên đầu với đủ thứ tiền phải thanh toán. Tư
trang sắm từ những năm phồn thịnh buôn may bán đắt lặng
lẽ nuối đuôi nhau đi hết, vào nằm im nơi các tiệm cầm
đồ.
Chúng
tôi không hề nghĩ đến giải pháp bán nhà vì đó là gia tài
duy nhất, cũng là mối kinh doanh không sợ lỗ vốn; vả lại
bây giờ đi mướn một apartment tồi tàn đủ chỗ chứa sáu
người, giá thuê hàng tháng còn mắc hơn số tiền trả góp
nhà.
Trong
tình thế kiệt quệ này, nếu có mẹ tôi lo cho tụi nhỏ,
đưa đón đi học, quán xuyến việc nhà, tôi sẽ rảnh rang
hơn để đi làm thêm lặt vặt buổi sáng, trưa về phụ tiệm
ăn với chồng tôi. Buổi tối chúng tôi sẽ đi clean các
tiệm ăn, chợ búa. Chịu khó một thời gian hi vọng kinh
tế sẽ phục hồi trở lại. Mọi người đã hăm hở
đón chào thiên niên kỷ mới, ai ngờ nó bắt đầu bằng sự
xuống dốc!
Mẹ
sang Mỹ vào mùa Thu. Trời khá lạnh đối với mẹ vì
chưa quen nhưng màu xanh của biển trời đã thu hút mẹ. Lũ cháu xúm xít lấy bà vì ngày thường không ai gần gũi
chúng cả. Chúng xổ tiếng Anh líu lo, thậm chí cô bé
út mới bốn tuổi cũng không rành tiếng Việt.
Bà
cười dễ dãi: “Sẽ có cuộc trao đổi nhé! Bà
dạy các cháu nói tiếng Việt, các cháu dạy cho bà nói tiếng
Anh.”
Thấy
mẹ vui, tôi an lòng. Thế là bên cạnh cái giường hai
tầng của hai cô bé gái là tấm nệm của bà ngoại. Ban đêm, ba bà cháu nói chuyện rì rầm; có khi hai cậu
trai cũng gõ cửa xin vào để được hưởng không khí đầm
ầm bên bà ngoại rất hiền và rất vui.
Mẹ
như bà tiên có chiếc đũa thần đã biến căn nhà bừa bãi
đầy phiền muộn của chúng tôi thành một tổ ấm ngăn nấp,
sạch sẽ và đầy tiếng cười.
Trước
kia, chúng tôi chỉ dùng những thức ăn ế ẩm từ cửa hàng,
lắm khi nuốt chẳng trôi. Mẹ bảo cứ bỏ thịt bỏ
rau và tủ lạnh cho bà. Thế là mỗi chiều về gia đình
tôi được quây quần chung quanh bàn ăn có cơm canh nóng hổi,
hương vị ngọt ngào.
Chỉ
sau và tháng, các con tôi khỏe mạnh ra, lễ phép ra và biết
phụ giúp công việc lặt vặt trong nhà. Hai cậu con trai
lớn, bà phân công lo vườn tược cây kiểng: “Thằng
Hùng mười hai tuổi, lớn rồi, lo chăm sóc các cây lớn, tỉa
lá, bón phận, Hậu cũng mười tuổi rồi, thay vì ôm máy chơi
game, có thể phụ anh quét sân, tưới nước.”
Bà
hiền lành nhưng nói gì các cháu cũng nghe. Chúng không
còn là những đứa bé “vô tích sự” như thuở trước. Thật ra chúng không đến nỗi tệ nhưng vợ chồng tôi quần
quật với công ăn việc làm, không có thì giờ dạy dỗ, chỉ
vẽ. Bảo làm chuyện gì, chúng thực hiện qua loa lấy
có, rầy mãi phát mệt thành ra không thèm sai biểu nữa, tự
mình làm chóng xong mà vừa ý hơn.
Con
Hoa hãnh diện khoe với mẹ: “Bà dạy con nấu cơm. Con biết lặt rau, rửa chén, lại biết tráng trứng nữa cơ!” Tôi hôn con, thầm cám ơn mẹ đã cho gia đình tôi cơ hội
để sống có hạnh phúc thay vì cứ mãi rầy rà, cãi vả,
gây ó nhau trong một căn nhà bề bộn, dơ bẩn.
Mẹ
vốn là một Phật tử thuần thành. Thỉnh thoảng bà
giảng dạy cho tôi về đạo lý: “Hạnh phúc không phải
là món quà từ đâu đến, không phải tự nhiên mà có, cũng
chẳng thể do phúc đức mà được. Mình phải biết cách
sống, biết cách hợp tác xây dựng thì mới có hạnh phúc.”
Thuở
ấy, đầu óc tôi quá dầy đặc với những con số để có
thể hiểu lời mẹ khuyên, vả lại cũng không có thì giờ… Thôi thì để mẹ lo giùm. Mỗi chiều về nhìn các con
ngoan, được ăn bữa cơm tối ngon, đối với tôi đã là đủ
rồi.
Tôi
bận rộn với nợ nần đến nỗi không mấy khi chú ý đến
tâm tình của mẹ. Bây giờ kiểm điểm lại mới nhớ
rằng tôi ít hỏi thăm về sự buồn vui của bà. Thay
đổi môi trường sống, bà bỏ lại sau lưng biết bao nhiêu
thứ: chị em, họ hàng, lối xóm, sư ông, bằng hữu…
Đôi
khi, mắt mẹ thoáng buồn. Tôi chỉ hỏi qua loa: “Mẹ
có mệt không?” Chao ôi, rõ tệ, miệng hỏi mà lòng
vái thầm: “Mẹ đừng ngã bệnh, khổ con!” Là
con một nên cách suy nghĩ của tôi thường ích kỷ như thế.
Cái gì cũng qui về mình, cho mình thôi!
Thắm
thoát, mẹ ở với chúng tôi đã được một năm rồi. Gia đình thì ổn thỏa nhưng tình trạng tài chánh càng ngày
càng bết bát mặc dù vợ chồng tôi bỏ sức lao động gấp
đôi.
Giao
kèo mướn cửa tiệm sắp hết hạn mà chẳng tìm được người
sang lại. Không ký thêm thì mất tiệm, mất luôn năm
mươi ngàn bỏ ra sang tiệm trước kia, nhưng tiếp tục thì
ngày càng thua lỗ, chẳng kham được nữa. Chuyện gì
đến, phải đến. Tháng sau đó, vợ chồng tôi lủi thủi
dọn đồ về trả lại cửa hàng cho người ta sau mười năm
làm chủ. Bây giờ hóa ra là kẻ làm công, lại làm những
nghề linh tinh quét dọn. Tủi thân mà tức số phận mình.
Mẹ
an ủi: “Thôi, như thế đỡ lo con ạ. Tinh thần
căng thẳng quá có khi phát dại, hóa cuồng! Trong cái
dở có cái hay là thế!”
Chúng
tôi lợi dụng thời gian tương đối rảnh rang này để sửa
chữa căn nhà hư dột. Anh Thắng chịu khó và khéo tay
nên cái gì cũng tự làm được, đỡ tốn tiền mướn thợ.
Một
hôm anh leo lên mái nhà để lợp lại mấy miếng ngói bể. Sơ ý thế nào chẳng rõ, anh trợt chân té xuống bất tỉnh. Chỉ có mình mẹ ở nhà! Bà bình tĩnh gọi 911, vắn tắt
vài câu tiếng Anh: “He falls down from the roof. He stops
breathing!” Và rành rọt đọc địa chỉ, số phone nhà
cho họ. Ai ngờ bà âm thầm học chữ Anh mau đến thế! Bà đã cứu mạng chồng tôi!
Thắng
bị gãy chân và dập ống quyển. Phải nằm tại chỗ
từ năm đến sáu tháng. Tình cảnh này đưa mẹ tôi vào
môi trường mới. Bà tự nguyện thế chỗ cho chồng tôi
để quét dọn, lau chùi các cửa tiệm hầu phụ giúp tôi về
tài chánh.
Mẹ
hăng hái trong công việc. Tôi đoán rằng ở nhà mãi mẹ
cũng buồn, nay được ra ngoài bà cảm thấy vui hơn. Bà
có những người bạn mới: cô thâu ngân vui tính, bà
lão phụ trách hàng rau cải, chú “Thoòng” chuyên khuân vác. Mẹ hòa mình với họ, với cuộc sống của những người
lao động tay chân. Đâu ai biết rằng trước 1975, mẹ
là giáo sự dạy Pháp văn tại một trường công lập lớn
ở Sài Gòn.
Các
con tôi biết hoàn cảnh bi đát của gia đình nên mỗi đứa
một tay, cùng nhau lo chuyện nhà. Mẹ tôi hài lòng thấy
các cháu tự ý thức được trách nhiệm, biết thương mẹ
thương cha.
Ngày
anh Thắng trở lại công việc, tôi xin mẹ ở nhà nghỉ ngơi. Mẹ nói: “Con ơi, ra ngoài cũng vui, lại kiếm được
đồng tiền. Từ ngày đi Mỹ đến nay đã gần hai năm,
mẹ chưa gửi tiền về giúp các em, các cháu bên ấy. Tụi nó nghèo lắm mà chẳng có cách kiếm ra tiền cho kịp
đà leo thang của vật giá. Bên này kiếm tiền dễ hơn. Có tiền, mẹ lại có phương tiện cúng dường, bố thí…”
Tôi
im lặng nghẹn ngào, chợt nhớ rằng mẹ chưa hề hỏi tôi
một đồng xu nào và tôi quên bẵng rằng mẹ cũng có nhu cầu
tiêu xài. Trên thế gian này, không có nhân viên nào làm
việc cật lực mà không đòi hỏi thù lao như thế! Vô
tình, tôi đã “đòi nợ” mẹ tôi một cách tận tình. Dì tôi cũng có lý khi bà mỉa mai tôi.
Trong
lúc tôi đăm chiêu, mẹ nhẹ nhàng tiếp: “Mẹ đã xin
được chân rửa chén trong nhà hàng. Rửa bằng máy chả
cực nhọc gì!”
“Trời
đất ơi, rửa chén, cần sức lực của người đàn ông Mễ
mới kham nỗi. Nồi niêu son chảo to như cột đình, nặng
như búa tạ, làm sao mẹ nhấc cho nổi!”
Tôi
xuống giọng tiếp: “Mẹ nhìn lại mẹ xem. Tay mẹ
gầy yếu, lưng mẹ đã cong, bước đi không còn nhanh nhẹn. Dù họ cần người, mướn tạm, vài hôm cũng cho nghỉ việc
thôi!”.
Bây
giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ mẹ. Bà già thật rồi,
cái già đến nhanh quá. So với hồi mới qua, bà như tăng
thêm năm, bảy tuổi.
Mẹ
tôi cúi đầu xuống thấp. Hình như bà cố giấu giọt
lệ vừa ứa ra. Tôi nhẹ nâng cầm mẹ lên và nhìn sâu
vào đôi cửa sổ tâm hồn ấy. Trời ơi, mắt mẹ đã
kéo mây! Đôi mắt bồ câu đen láy ngày nào từng làm
điên đảo các chàng trai cùng trang lứa, cột chân ba tôi vào
tổ ấm gia đình, giờ đã một phần ngả màu đục lờ như
nước gạo vo. Tóc mẹ trắng bơ phờ, đuôi mắt nhăn
như rẻ quạt, vầng trán sạm đen vết đồi mồi…
Tôi
mủi lòng xót xa. Hai mẹ con ôm nhau, nước mắt người
này thấm ướt vai áo người kia. Tôi nhỏ nhẹ: “Con không dám trái ý mẹ, nhưng mẹ rán chờ. Con hứa
sẽ tìm công việc nhẹ nhàng hợp với mẹ hơn, mẹ nhé!
Vong hồn ba mà biết mẹ cực khổ thế này chắc khó siêu.”
Trời
cũng thương tình. Đâu chừng một tháng sau thì bà lão
làm rau cải xin nghỉ việc về hưu. Mẹ tôi trở thành
“bà cụ hàng rau”.
Danh
xưng và chức vụ gắn liền với mẹ tôi từ đấy. Vậy
mà bà vui.
Mỗi
tháng bà lãnh được hơn ngàn bạc. Phân nửa số tiền,
bà gửi về Việt Nam: phần cúng dường, phần bố thí,
phần giúp đỡ các em, các cháu. Số còn lại, bà dành
dụm mấy kỳ lương, đưa tôi hơn ngàn bạc.
“Mẹ
thấy người ta dựng phòng trong garage cũng tiện lắm. Nếu chồng con không phiền, con lấy tiền này nhờ nó mua vật
liệu, che tạm cho mẹ một căn phòng nhỏ. Con Hoa, con
út bắt đầu lớn, tụi nó cần sự riêng tư. Mẹ cũng
vậy, có phòng riêng mẹ sẽ dựng kệ thờ Phật, mỗi ngày
mẹ có thể lễ bái, tụng kinh, niệm Phật…”
Chồng
tôi nghe kể lại, vui vẻ đáp: “Chuyện nhỏ! Mẹ
muốn gì anh cũng xin vâng, nói chi việc ấy!”
Từ
đấy, mẹ lộ vẻ hoan hỉ lắm. Sáng tối hai thời, ít
khi nào bà bỏ lỡ công phu. Bà như một người đạt
được mục tiêu cho đời mình, không có gì để ưu tư, khắc
khoải.
Mùa
Đông năm ấy, thời tiết hơi khác thường. Ban ngày ấm
áp xen kẽ với những đêm buốt giá mà nhiệt độ đôi khi
hạ thấp đến không ngờ. Vợ chồng tôi mời mẹ tạm
trở về phòng cũ vài ba tháng, ngoài garage lạnh quá dễ sinh
bịnh.
Mẹ
nói: “Ở chỗ này quen rồi, dời đi khó ngủ.”
“Mẹ
nhớ vặn heat cho đủ ấm nhé!”
“Ờ,
tao biết mà!”
Ngờ
đâu mẹ đã không qua khỏi mùa Đông! Buổi sáng chẳng
thấy mẹ dậy sửa soạn để đi làm, tôi bảo “đứa nào
ra đánh thức bà dậy, nhanh lên kẻo trễ!”
Con
Hoa quấn mền đẩy cửa bước ra garage miệng kêu léo nhéo. “Ngoại ơi, ngoại à…” Không có tiếng trả lời… Nọ bật đèn, tiến đến cạnh giường: ngoại quấn
hai cái mền kín mít, nằm im ỉm. Nó lắc chân ngoại,
bà chẳng đáp. Nó lôi cái mền xuống: mặt bà xám
xịt, lạnh ngắt, đôi mắt khép hờ…
“Mẹ
ơi, mẹ! sao kỳ vầy nè!” Cả nhà đổ xô ra. Chồng
tôi đạo Chúa, vội làm dấu thánh giá… Tôi xỉu ngay
tại chỗ khi loáng
thoáng
nghe thằng Hùng la lên: “Sao bà không mở heat?”
Cuộc
điều tra của cảnh sát quấy rầy chúng tôi một thời gian,
cuối cùng họ kết luận: “Bà cụ không thường mở
heat; cái máy mua hai tháng về trước còn mới tinh chưa hề
được sử dụng!”
Tôi
như người mất hồn trong đám tang của mẹ. Sự hối
hận như lưỡi dao có răng, nó cưa xé lòng tôi. Trái
tim tôi cơ hồ rỏ máu thành những giọt lệ hồng.
Bạn
bè khuyên tôi nên đến chùa xin cúng thất, thiết lễ cầu
siêu cho bà. Tôi chẳng thể nói năng chi cùng vị sư ở
chùa, chỉ biết dập đầu lạy cầu cứu với đôi mắt sưng
húp. Chồng tôi bình tĩnh hơn, anh buồn bã kể đầu đuôi
tự sự. Câu chuyện khiến thầy thương tâm, thầy thường
an ủi, khuyên giải sau những thời lễ cúng.
Khi
thấy tôi bắt đầu trở lại bình thường, thầy dành cho
gia đình chúng tôi một thời pháp thoại. Thầy giảng
về lý vô thường, khổ, không. Các con tôi tỏ ra thích
thú với sự thật giản dị và sâu sắc này, chúng đòi được
học giáo lý đạo Phật thay vì đi nhà thờ với ba.
Riêng
tôi, tôi nhớ mãi câu kết luận của thầy trong buổi nói
chuyện ấy: “Con người ta sở dĩ đau khổ triền miên
là tại mình muốn nắm giữ! Cái gì cũng khư khư ôm
chặt. Làm sao giữ mãi được vì bản chất của chúng
là vô thường, là không. Hãy buông bỏ hết đi, chừng
nào bỏ được, chừng ấy mới có chân hạnh phúc!”
Phải
rồi, nếu chúng tôi không bám chặt vào căn nhà thì mẹ tôi
đã không phải vất vả đến thế, không đến nỗi chết
cóng ngoài garage. Và gia đình tôi không lụy đến mức
này.
Tôi
thỏ thẻ bàn với chồng: “Anh à, căn nhà này mình không
giữ nỗi thì bán nó đi. Em tính rồi, sau khi thanh toán
hết nợ nần mình cũng còn vài trăm ngàn. Dọn sang Texas,
nhà cửa rẻ hơn, mình có thể tậu căn khác hoặc là giữ
làm vốn, tính chuyện làm ăn…”
”Ờ nhỉ, hồi đó sao mình ngu quá, cứ ôm lấy nó mà cắm
cổ đi cày trả nợ. Liệu giữ không được thì sớm
buông đi… Nhờ ông thầy giảng dạy, mình mới sáng
mắt ra!”
Sau
khi dọn sang Texas, trước khi bắt tay vào công ăn việc làm,
tôi xin phép anh Thắng cho tôi về Việt Nam một chuyến. Tôi về để được quì dưới chân sư ông kể lể hết sự
tình, xin sám hối thì lòng tôi mới có thể yên.
Sư
ông trầm ngâm và yên lặng nghe tôi vừa khóc rấm rức vừa
kể về mẹ tôi, đệ tử mà người rất quí mến. Sư
ông không hề cắt ngang bằng những câu hỏi. Người
không phê phán gì, chỉ để yên cho tôi khóc, khóc oà vỡ
như cái đập nước bị ngăn chận, nay có người tháo ra…
Mãi
một lúc lâu lắm sau đó, sư ông mới dạy:
“Người
mẹ nào cũng có trái tim Bồ Tát. Mẹ con hành Bồ Tát
đạo ngay trong gia đình trước khi mở rộng ra trong cuộc sống
với mọi người. Con hãy hãnh diện có bà mẹ như thế! Con sẽ không cảm thấy hối hận ray rứt nữa nếu con biết
đi theo hướng đi của mẹ con, biết xả bỏ cái tôi vị kỷ
để lo cho người chung quanh.”
Tôi
sụp xuống đảnh lễ người đã chỉ cho tôi tháo mở cái
gút dây kết mối ân hận trong tôi.
Tôi
trở về Texas với sự bình yên và tâm nguyện cao cả… Nhưng khi mùa Vu Lan về, cầm hoa trắng trên tay, tôi không thể
ngăn được những giọt lệ hồng phát xuất từ trái tim tôi… Than ôi! Khi tôi biết nghĩ tới mẹ, biết giá trị của
trái tim bồ tát, biết thương mẹ thì bà đã không còn nữa
trên đời…