- 01. Mùa Hoa Năm Nào
- 02. Sống
- 03. Vườn Cải Hoa Vàng
- 04. Bệnh Nan Y
- 05. Sư Ông và Lãng Tử
- 06. Hữu Công, Hữu Tội
- 07. Bức Tranh Phù Thủy
- 08. Những Giọt Lệ Hồng
- 09. Hai Cha Con
- 10. Tiếng Gọi
- 11. Mẹ Tôi
- 12. Khai Bút
- 13. Xuân Tâm
- 14. Họa Phúc Trùng Trùng
- 15. Dốc Mơ Đồi Mộng
- 16. Phụ Trương - Phật Mẫu
- 17. Phụ Trương - Sống Tức Là Tương Quan
DỐC MƠ ĐỒI MỘNG
Tu Viện Trúc Lâm Canada Xuất Bản PL. 2547 DL. 2003
Ông
Hai Nghĩa làm việc ở nhà ga xe lửa gần hai mươi năm nay; đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh chia tay cũng
như đoàn tụ cho nên đối với ông, đó là chuyện thường. Hợp tan, vui buồn, cười khóc cứ thay phiên nhau diễn ra tạo
cho đời sống bộ mặt linh động, muôn màu muôn vẻ.
Nhưng
hôm nay, sau khi đưa tiễn đứa con trai độc nhất rời khỏi
tỉnh lỵ nhỏ bé của tiểu bang Alabama này, đến khi trở
về nhà, ông mới thấm thía nỗi sầu biệt ly.
Cái
buồn xâm lấn ông từ từ, nó lan nhè nhẹ nhưng bàn tay thô
bạo của nó cứ như nắm cả buồng tim của ông mà rứt ra. Đau nhói. Đôi khi ông có cảm tưởng như nghẹt thở,
tay chân rã rời… Ông nằm im lìm trên ghế sofa không
biết bao lâu.
Trời
nóng quá, dù mùa hè chỉ mới bắt đầu bằng những ngày
80 độ F. Ông uể oải đứng dậy pha một ly trà đá. Ở Mỹ có loại “ice tea” chỉ cần dăm ba phút, đã có món
giải khát vừa rẻ vừa ngon.
Ông
sớt một nửa để lên bàn thờ vợ. “Bả cũng ưa thứ
này.” Ông nhìn ảnh vợ một cách trìu mến rồi cầm
nửa ly còn lại, mở cửa bước ra sân sau.
Sân
nhà ông tuy nhỏ nhưng trông cũng nên thơ với hai cây thông
già xanh tốt quanh năm. Cỏ được cắt xén bằng phẳng,
tưới tẩm cẩn thận nên vẫn giữ được màu xanh mát mắt
quanh những bồn hoa chậu kiểng thay nhau khoe sắc đủ bốn
mùa.
Trời
đã xế bóng nên không khí dễ chịu lại. Ông ngồi xuống
tảng đá lớn dưới cội cây thông, hớp từng ngụm nước
mát lạnh và cảm thấy tỉnh mỉnh hơn. “Con mình tốt
nghiệp rồi, phải đi kiếm việc làm, đâu ở quanh quẩn xó
nhà hoài được!”
Hình
ảnh đứa con trai xúng xính trong áo thụng, đầu đội mũ
vuông đen trong ngày lễ ra trường hôm qua hiện rõ trong trí
nhớ và nỗi vui sướng bỗng trở lại với ông, đầy ấp
cả buồng tim, lá phổi.
“Bà
nó ơi! – ông nói thầm với người vợ quá cố - Bà không
sống mà nhìn con, giờ cũng kỹ sư như ai! Vợ chồng
mình tuy hèn mọn thiệt đó nhưng con mình giờ đã nên người. Bà phải khen tui đó nghen! Gà trống nuôi con mười lăm
năm ròng trong cảnh nghèo khó mà con vẫn nên người!”
Từ
hồi sang Mỹ đến giờ, gia đình ông ở miết tại tỉnh lỵ
nhỏ bé này, không muốn dọn đi đâu vì cả hai vợ chồng
may mắn tìm được việc làm tại nhà ga xe lửa Amtrak ở địa
phương. Đồng lương “cu li” tuy chẳng là bao nhưng
hai đầu lương góp lại, sống tiện tặn, họ cũng mua được
căn nhà nhỏ, cũ bốn mươi năm, già bằng tuổi họ.
Căn
nhà tuy nhỏ nhoi, cũ kỹ nhưng vợ chồng đẹp dạ lắm vì
dù sao cũng được làm chủ bất động sản này, sau ba mươi
năm trả góp. Họ cảm thấy như mình đã bám rề được
trên vùng đất mới quá xa lạ.
Những
người Việt đến sau đều khen vợ chồng ông tốt số: tiếng Anh tiếng u không có một chữ vậy mà cả hai đều
được vô làm hãng lớn của Mỹ, có bảo hiểm sức khỏe
và đủ quyền lợi về hưu bổng.
Thật
ra thì hay chẳng bằng hên. Khoảng năm 1978, người Việt
mình sang Mỹ chưa đông; những công việc lao động tay
chân như lau chùi, quét dọn v.v… nhiều lắm vì Mỹ trắng
thì chê còn Mỹ đen vào làm một thời gian ngắn rồi bỏ.
Nhờ
quen với cô thư ký người Việt làm trong hãng, ông được
giới thiệu vào làm. Họ ngần ngại chưa muốn nhận
ông thì cô thư ký hứa sẽ thông dịch và hướng dẫn cho
đến khi nào ông quen việc. Vài tháng sau, thấy được,
ông xin cho vợ vào làm luôn. Họ nào mong mỏi gì hơn
một cuộc sống bình dị, yên ổn và tự do!
Đứa
con trai duy nhất của hai người – Hòa – lúc bấy giờ tuy
đã
mười
hai tuổi nhưng vì chẳng biết tiếng Anh, phải học lại tiểu
học. Hòa không lấy thế làm buồn vì dáng dấp nhỏ
thó của cậu cũng không khác gì đứa trẻ Mỹ sáu, bảy tuổi.
Hòa
thuộc loại chậm lụt, không thông minh lanh lợi gì nên học
hành rất vất vả. Cũng may, nó được cái siêng năng,
chịu khó; nếu không thì chẳng thể vào đại học nỗi. Ở đấy, anh phải “trầy vi tróc vảy” trong bảy năm mới
lãnh được mảnh bằng mà một sinh viên khác chỉ cần bốn
năm thôi. Anh ra trường lúc tuổi đã ngoài ba mươi.
“Tam
thập nhi lập!” Ông Hai Nghĩa lẩm bẩm một câu chữ
nho. “Tuổi này bắt đầu lập nghiệp cũng chưa muộn.”
-
Anh Hai khỏe rồi hả! Ngồi uống trà coi thảnh thơi dữ
a!
Bà
hàng xóm vừa đon đả bước tới vừa cất giọng đả đớt
cố hữu của bà.
-
Chào chị Phụng, chị tới hồi nào tui không hay!
Anh
ỷ y không khóa cửa, bữa nào đồ đạc trong nhà anh bị dọn
hết cho coi!
-
Ờ, cái tật đó thằng Hòa cự tui hoài!
Bà
Phụng ngồi phệt xuống cái băng dài bằng gỗ sồi do ông
tự đóng cả chục năm về trước. Cái băng ghế này
giờ đã ọp ẹp, tồi tàn không khác gì người đàn bà luống
tuổi đang ngồi trên ấy.
Bà
ta mở giỏ têm trầu. “Bà nầy kỳ cục, qua Mỹ lại
tập ăn trầu! Mới năm mươi tuổi mà làm như già sụm!” Ông Hai nói thầm trong bụng, ngán ngẩm nhìn cái đầu tóc
chôm bôm xám xịt và hai răng cửa trống trơn như miệng hang. Người tuy ú nu nhưng da dẻ lại xanh mét như bịnh kinh niên. Bà con cô bác ở đây rỉ tai nhau: “Mụ Phụng giả bộ
già yếu bịnh hoạn để ăn tiền welfare.” Từ ngày
đứa con lai duy nhất bỏ bả trơ trọi chốn này, bà trở
nên dở dở ương ương không ai chịu nổi; chỉ có ông
còn giao thiệp nên hóa thành bạn thân.
Nhưng
thằng Hòa ghét bả lắm, nói bả “dê” ông già mình để
lợi dụng. Ông chỉ cười, biện hộ “tao có đách gì
đâu mà sợ bị lợi dụng! Nghèo cũng sướng cái vụ
đó!”
Thật
ra ông thương cảnh tình cô đơn của người đàn bà lỡ vận
này. Nơi đất khách quê người gặp cảnh ngộ như bà,
nếu không điên thì hóa dại thôi. Gia tài chỉ có hai
mẹ con, theo diện con lai sang Mỹ mới ba tháng, con Lụa gạt
mẹ nó, nói phải đi tiểu bang khác kiếm việc làm ăn, rồi
bẵng luôn, không thư từ liên lạc gì hết. Có người
tình cờ gặp lại nó ở Cali mấy năm sau đó, ăn mặc diêm
dúa phấn son lòe loẹt đến nỗi nhìn không muốn ra. Mà nó cũng không thèm nhìn ai, sợ người ta nhắc đến bà
già đã sinh ra nó.
Hai
người bạn ngồi im lặng khá lâu. Bóng chiều chầm chập
trải lên sân mang theo vài cơn gió mát. Bà Phụng nhóc
nhách nhai trầu, bỗng nhiên buột miệng nói:
-
Lạy trời cho con trai ông đừng đoản hậu vô nghì như con
Lụa nhà tôi!
Ông
Hai Nghĩa nhếch môi cười, không đáp. Thằng Hòa kỹ
sư của ông mà bà “khùng” này dám đem so sánh với con Lụa! Nhưng dù sao ông cũng thầm cám ơn lòng tốt của bà.
***
Sau
những giấc ngủ gà ngủ gật đêm rồi ngày, hết ngày lại
đêm trên xe lửa, Hòa thức dậy lúc vừa rạng đông. Mặt trời còn ẩn trong cánh rừng thưa đang chạy thụt lùi
ra sau nhưng những đợt nắng mới, vàng rực ở chân trời,
đang tủa ra, xé tan lớp sương mù lãng đãng.
Mặc
dù chỗ ngồi thoải mái rộng rãi như một cái giường nhỏ
- đối với khổ người của Hòa – nhưng hai chân anh tê cóng. Hòa nhè nhẹ đứng dậy, co duỗi chân tay rồi đi vào khu nhà
ăn toa trên. Đa số hành khách đều còn ngủ.
Ly
cà phê nóng với cái bánh donut giúp anh tỉnh táo. Hòa
móc túi lấy giấy xem lại ngày giờ tàu đến nơi: chỉ
còn nửa tiếng là tới ranh giới tiểu bang Ohio, từ trạm
biên giới này, tàu chạy suốt hai tiếng nữa mới vào thành
phố chính.
Bên
ngoài, cảnh vật từ từ sáng tỏ hơn. Hòa có cảm giác
đời mình cũng bắt đầu một giai đoạn mới, tươi sáng
nhộn nhịp hơn những tháng năm buồn tẻ, đìu hiu ở thành
phố cũ. Chàng như đã thoát ra khỏi cái kén tù túng,
quê mùa, hóa thành chú bướm có đôi cánh bay bổng, cao vời.
Tuy
nhiên, mặc cảm sợ hãi, thua sút luôn luôn kèm sát những
hi vọng vươn lên của Hòa. Không biết rồi đây có hãng
nào nhận mình không với điểm trung bình hạng C. Ohio
là tiểu bang đang lên. Các hãng mời nhiều người bạn
cùng lớp của anh đi phỏng vấn nhưng họ đều chê xa và
lạnh, còn anh gửi đơn đi cùng khắp mà chẳng ai gọi. Vì vậy Hòa đánh bạo đến tận nơi này để tìm việc.
Kỹ sư công nghiệp mà, đâu đến nỗi tệ.
Tội
nghiệp ông Hai Nghĩa, trước ngày anh đi, ông vét hết tiền
ở trương mục tiết kiệm trao cho anh ba ngàn đồng, bảo là
để phòng thân. Hòa cũng cần tiền thật đó, vì không
biết bao lâu mới kiếm được việc làm, định lấy phân
nửa thôi, nhưng nhớ lại mụ Phụng hay lui tới la cà, nếu
anh không giữ hết thì chắc bà ta cũng tìm cách bòn rút. Chẳng biết tại sao anh ghét mụ ta một cách lạ kỳ. Chắc tại anh ghen giùm má anh dù bà quá vãng đã lâu rồi.
Má
anh là người mẹ hoàn toàn, chìu anh hết mực, xin gì được
nấy. Duy chỉ có một điều làm anh không hài lòng, là
anh giống má anh như đúc: từ thân người ốm yếu nhỏ
nhoi đến gương mặt khắc khổ, xương xẩu trên đó ít ai
thấy được nụ cười. Lại thêm hai vai ngang như đòn
gánh! Tướng anh như vậy đó, làm sao sang được?
Vì vậy anh khó tìm một cô bạn gái dù ở Alabama lúc sau này,
người Việt không hiếm.
Ba
anh thì cao ráo, khỏe mạnh hơn nhưng trông thô kệch với gương
mặt vuông chèn bẹt và tướng đi chữ bát.
Không
ai có thể chọn cho mình một chỗ để sinh ra. Nếu được
lựa chọn, chắc chắn anh đã không ra đời trong ngôi nhà
của cha mẹ anh. Nhưng dù sao, ba anh cũng dễ thương. Ông coi anh là lẽ sống, là niềm hãnh diện tột cùng. Ngoài ba anh ra, anh không là gì cả dưới mắt người chung
quanh.
Là
“thần tượng” của cha mình nên Hòa chủ động mọi sự. Anh nói gì ông cũng vui vẻ nghe theo như một người thừa hành
tốt. Đôi khi anh bịa chuyện lếu láo để thỏa mãn
lòng tự tôn lẫn mặc cảm tự ti rất phức tạp trong tâm
lý của mình, ông Hai cũng một lòng tin tưởng, không thắc
mắc lôi thôi gì…
Khi
hành khách kéo vào câu lạc bộ khá đông, Hòa đứng lên,
mua tờ báo rồi trở về toa. Ông bạn ngồi ghế đối
diện vẫn còn che mặt ngủ.
Hòa
mở rộng tờ báo, xem kỹ mục cần người: nhiều hãng
xưởng ở đây cần kỹ sư, cán sự công nghiệp. Anh an tâm, nhắm mắt lại ngủ tiếp với giấc mơ sẽ có
việc làm tốt, tậu căn nhà và cưới được một cô vợ
xinh xinh…
Xe
lửa giảm tốc độ dần dần. Thành phố hiện ra trước
mặt. Sống ở Mỹ lâu năm, lại có dịp đi đây đi đó
trong các kỳ nghỉ hè, Hòa không bỡ ngỡ chi khi đến một
tiểu bang mới. Một phần cũng vì kiến trúc đô thị
ở Mỹ tại các nơi không khác nhau mấy và ở đâu người
ta cũng thấy tiệm McDonald’s với hình chú hề và chữ M màu
vàng thật to dựng trên nóc. Đó là quán ăn bình dân
quen thuộc của mọi người và của Hòa trong những ngày sắp
tới nếu anh không tìm được khu vực Việt Nam hay Á Châu
tại đây.
Sau
khi lo chỗ tạm trú, Hòa gửi đơn xin việc ngay hôm sau. Anh rải gần bốn mươi tờ “resume” mà đợi mãi đến hai
tuần sau mới có một hãng gọi anh tới để phỏng vấn. Hãng này thuộc loại nhỏ, chuyên sản xuất đồ dùng bằng
nhựa. Họ trả lương nhân viên thấp nên hay chọn những
đối tượng như Hòa. Họ mướn Hòa như một cán sự
và hứa sẽ cho lên kỹ sư khi nào hãng có nhu cầu.
Tuy
thất vọng nhưng không có cơ hội nào khác, anh đành nhận
việc. Dĩ nhiên Hòa báo cáo với ông già không đúng như
thật. Anh vẽ vời, đánh bóng mọi sự làm ba anh thêm
hãnh diện; điều đó thỏa mãn “cái tôi” của Hòa
lắm.
Một
năm say, anh sung sướng có được cô gạn gái, là nhân viên
mới của hãng. Cô Hường tuy ở Việt Nam mới sang và
luống tuổi rồi nhưng sắc vóc xinh xắn lại xuất thân từ
gia đình sĩ quan cũ, có bề thế, tên tuổi. Hòa cưng
chìu cô lắm, còn cô thì không nói ra nhưng định bụng chỉ
ưng Hòa khi nào anh thực thụ là kỹ sư. Cô thuộc loại
người cứng cỏi, sống bằng lý trí.
Từ
ngày có bạn gái, Hòa như quên hẳn người cha già cô đơn
ở tỉnh lẻ. Thỉnh thoảng ông nhớ con, gọi điện thoại
tìm để được biết con mình vẫn bình yên; còn anh thì
bận rộn lắm, chỉ có thì giờ gửi cho ông tấm thiệp mừng
ngày Father’s Day với chữ ký vội vàng dưới hàng chữ in
sẵn.
Đôi
khi, lương tâm chổi dậy, anh ý thức được rằng mình là
đứa con vô tình nhưng anh tự trấn an ngay vì biết cha lúc
nào cũng rộng lượng, xuề xòa, không chấp nhất chi… Anh sợ liên lạc mật thiết với ông, ông sẽ đòi dọn về
ở chung vì có đôi lần vui miệng anh đã hứa “khi nào ba
hưu trí, con rước ba qua đây ở luôn.”
Đối
với anh, đó chỉ là lời nói có tính cánh đẩy đưa; biết
ông hằng mong mỏi như vậy nên nói cho ông vui thôi. Cho
ăn bánh vẽ thì bao nhiêu chả được! Rước ông về
ở chung, chắc chắn cô bạn gái sẽ không bằng lòng. Cô ấy mà bỏ anh, chắc anh chết! Lỡ phịa rằng ba anh
cũng vốn dòng trí thức phong lưu, rủi cô ấy biết rõ lai
lịch từ “binh nhì” ở Việt Nam đến “lao công quét dọn”
ở Mỹ thì có nước độn thổ.
Đôi
khi, thành thật với chính mình, Hòa biết mình đã trở thành
kẻ láo khoét, thích “nổ” và hay khoe khoang nhưng anh không
thấy thế làm xấu hổ. Anh đã quen khoác cho mình lớp
sơn hào nhoáng và tự hài lòng với những gì mình đã vẽ
vời ra.
***
Trằn
trọc suốt đêm, ông Hai Nghĩa không ngủ được một phút
giây ngắn ngủi nào. Nỗi đau, cái giận, sự chua xót
xen lẫn lòng hối tiếc đã hòa trộn vào nhau, dày xé cả
tâm tư, dằn vặt ông không dứt.
Thằng
Hòa lại cho ông “ăn thịt thỏ”. Nó hứa cuội với
ông trong ngày quan trọng nhất của tuổi già; ngày về hưu. Bà con, bạn bè, lối xóm, đồng nghiệp, ai cũng dành thì giờ
đến dự buổi tiệc thân mật này, còn đứa con độc nhất
của ông, núm ruột yêu dấu của ông thì biệt dạng.
Đa
số người thân thiết rõ cảnh tình đáng thương của ông,
đã tế nhị, không đá động, hỏi han về Hòa nhưng đôi
người cũng vô tình buột miệng:
-
Kỹ sư Hòa đâu? Lâu quá chẳng thấy về Alabama.
-
Ờ, cũng bảy hay tám năm rồi!
-
Ngày này lẽ ra cậu ấy phải về để tính công chuyện cho
ba chớ! Già cả rồi, ở một mình đâu nên!
Họ
thương ông mà nói vậy chứ không ác ý, nhưng những câu nói
ấy như những mũi tên xuyên xuốt qua trái tim người cha đau
khổ.
Cả
tháng vừa qua, ông hăng hái sơn phết,dọn dẹp nhà cửa với
ý nghĩ khi con mình về thắm, nó sẽ không xấu hổ vì căn
nhà bây giờ đã quá cũ kỹ: một bên vách, cây đã mục;
thảm ở phòng khách từ màu xám tro đã ngã thành đen, bẹp
dí xuống, cứng đơ như miếng ni-lông dầy. Cửa nẻo
đều trở nên ọp ẹp, lỏng lẻo.
Trong
dịp này, bà Phụng đã đến giúp ông hằng ngày. Bà
biết ông phấn khởi lắm, hi vọng sẽ được gặp con. Có lần bà ướm hỏi:
-
Ông chắc cậu về không?
Mặc
dầu hơi chột dạ - vì bây giờ ông không dám cả tin vào
bất cứ lời nói nào của đứa con yêu quí – nhưng ông cũng
mạnh dạn đáp:
-
Về chớ! Tôi đòi gởi vé xe lửa miễn phí, nó không
chịu, nó đi máy bay mau hơn.
-
Chừng nào có chuyến bay, có giờ tới mới chắc!
Ông
Hai chép miệng:
-
Nhiều lần tôi muốn lên thăm nó, nó không cho, nói già cả
ngồi xem lửa mất sức. Kỳ này nó lấy phép về chơi,
ở lại vài tuần.
Bà
Phụng xây mặt, dấu cái trề môi. Người ngoài ai cũng
biết Hòa là đứa con đoản hậu – cũng như con Lụa của
bà vậy, nhưng đóng kịch khéo hơn - chỉ có ông vì quá thương
con nên không thấy sự thật. Kỳ nầy cho ông sáng mắt
ra. Sáng mắt rồi, ông chỉ khổ một lần chót thôi chớ
không còn khổ dài dài vì phải ăn bánh vẽ của Hòa nữa.
Không
phải bà ghét chi Hòa – nó mắt mớ gì tới bà mà ghét –
nhưng tức giùm ông Hai Nghĩa quá chừng… Mà lần nầy
ổng “canh me” để được nói chuyện thẳng với nó qua
phone là may. Thông thường, chỉ có máy trả lời, dù
nhắn năm điều bảy chuyện trong máy, nó cũng không bao giờ
gọi lại… Rõ ràng như vậy mà Ông Hai cũng chưa chịu
hiểu!
… Sau trắng đêm suy nghĩ, bây giờ ông Hai mới thấy được
tâm địa của con mình. Ông đau lòng quá, không phải
vì sợ tuổi già của mình vò võ cô đơn nhưng vì không ngờ
đứa con mà mình đã dày công đào tạo, đã đặt trọn niềm
tin tưởng và hãnh diện lại thấp thỏi đến như vậy.
Thà
nó đừng làm kỹ sư bác sĩ, nó cứ nối nghiệp lao công như
ông mà biết đạo làm người, biết nghĩa làm con thì ông
hả dạ hơn. Giá trị con người đâu phải ở bằng cấp
địa vị hay sự sang giàu!
Ông
Hai đi tới đi lui ngoài sân sau, càng nghĩ ngợi càng đau lòng… Cho đến khi mặt trời đã lên cao, thấy nóng, ông vừa định
trở vào nhà thì nghe tiếng bà Phụng đập cửa rầm rầm,
miệng kêu ơi ới…
-
Anh Hai, mở cửa! mở cửa cho tôi vô!
Chủ
nhà vừa hé cửa, bà Phụng đã nhào tới. Cùng lúc đó,
ông nhận ra sự hiện diện của bác Vinh, hội trưởng cao
niên.
Bà
Phụng để tay lên ngực, thở cái phào:
-
Vậy mà tôi hết hồn! Tưởng ông buồn tình tự vận
rồi chớ!
Ông
Vinh điềm tĩnh, từ tốn hơn, tiến tới bắt tay ông Hai Nghĩa
rồi chậm rài bước vào nhà. Sau khi phân ngôi chủ khách,
ông Vinh giải thích:
-
Hồi sáng này lúc tôi còn ngủ, bà bạn đây tới, thức tôi
dậy, báo tin anh đã tự tử. Tôi hỏi “sao chị biết?”. Chị nói đã đập cửa nhà anh rầm rầm cả chục lần mà
không có tiếng ai trả lời. Bán tín bán nghi, tôi cấp
tốc đến đây xem sự thể ra sao?
Người
cha đau khổ nhếch môi cười gượng gạo. Ông liếc bà
Phụng một cái bén ngót làm bà xấu hổ bỏ vào trong, nói
là đi pha cà phê.
Bắt
được cái cười của ông Hai Nghĩa, người bạn biết đây
là cơ hội tốt để tháo gút tâm sự:
-
Từng tuổi này, tôi mới nghiệm ra rằng mình chỉ nên sống
với thực tại.Chấp nhận thực tế, dù nó không đúng
với sự mong cầu của mình, mình sẽ đỡ khổ lắm anh à! Vợ chồng tôi có đến bốn đứa con, hai trai hai gái nhưng
tới lúc bạc đầu cũng không sống chung với đứa nào được. Mà sống riêng cũng có cái hay, mình độc lập mà chúng nó
thì được tự do.
Ông
Hai vuốt tóc - chắc đầu tóc mình bồm xồm khó coi, khách
tới bất thình lình quá. Ông im lìm một lúc rồi nói
như than:
-
Thì sự thể đã rõ ràng như vậy, không chấp nhận cũng không
được. Sanh con nào dễ sanh lòng!
Hiểu
nỗi đau của bạn, ông Vinh tìm cách an ủi:
-
Thôi, thì dù sao đi nữa, con hơn cha là nhà có phúc anh à! Bây giờ anh không cần phải lo lắng, đùm bọc, che chở cho
cậu ấy nữa. Con chim trời khi đủ lông đủ cánh, cứ
thả cho nó bay… Mình nghĩ vậy mà khỏe, khỏi bận lòng.
Ông
Nghĩa hít sâu một hơi thở để làm dịu cơn xúc động rồi
trầm ngâm. Tiếng đồng hồ “tích tắc”, “tích tắc”
gợi ông nhớ lại những đêm khó ngủ, những đêm dài thăm
thẳm, triền miên với bao phiền muộn, thất vọng và ngán
ngẩm.
-
Thú thiệt với anh nghen, tôi vốn quê mùa dốt nát, nuôi được
đứa con ăn học thành tài thì mình hành diện ghê lắm nhưng
mà xét cho kỹ, đó không phải là cái phúc của gia đình tôi. Phải nói đây là điều bất hạnh. Nhưng dù sao tôi cũng
tha thứ cho nó. Sau này, nếu nó hoạn nạn, ốm đau, thất
bại hay gì gì đi nữa, tôi cũng sẵn lòng thương…
-
Tôi hiểu! Mình là cha mà, dù chúng nên hay hư, giỏi hay
dở, thành công hay thất bại mình cũng cứ thương thôi. Sông còn có lúc nước lớn nước ròng chứ cha mẹ thương
con bao giờ cũng thế, tràn ngập, phủ phê…
-
Mà thôi, mình không biết thực tế cuộc sống của cậu ấy
ra sao, cứ ngồi đây mà trách, có khi cũng oan!
Không
cầm được giòng nước mắt thương cảm, ông Hai lặng lẽ
khóc: “Ông Vinh đã thấy được nỗi lo thầm kín của
mình, người bạn này sâu sắc, tế nhị mà lại bao dung, không
bao giờ phê phán, xét nét ai.”
Ông
Vinh tôn trọng sự xúc động của bạn, đứng lên nhìn ra
cửa sổ. Nắng buổi trưa sáng rực cả con đường nhựa
thẳng tắp, hàng cây dogwood trổ hoa hồng nhạt làm dịu lại
bầu không khí nóng nực của mùa hè. Ở Mỹ, người
về hưu còn khỏe lắm, lại còn một thời gian dài trước
mặt, nếu không khéo sử dụng, cuộc sống sẽ trở nên vô
vị, nhạt phèo.
Mùi
cà phê thơm ngát báo hiệu sự hiện diện của bà Phụng. Cái miệng “bép xép” của bà nảy giờ phải khép lại trong
nhà bếp khiến bà khó chịu nên vừa bưng khay cà phê vào,
bà nói liền:
-
Giận thì khổ, không giận thì lỗ!
Trở
lại ghế ngồi, ông Vinh cười, buông câu đùa:
-
Nhưng “giận thì giận, mà thương thì thương!”
Hai
người đàn ông trao nhau cái nhìn thông cảm. Ông Hai Nghĩa
có dịp nhìn ngắm người bạn gái vui tính và bộc trực của
ông: bà ta đã trồng hai cái răng cửa, tóc tai vén khéo,
da mặt không còn bủng beo tái ngắt như xưa. Lúc sau này,
bà hoạt động tích cực cho hội cao niên, hay đi chùa làm
công quả, bà tìm được lẽ sống và nguồn hạnh phúc yêu
đời. Bà không còn cay cú khi có ai vô tình nhắc đến
con Lụa.
Ông
Nghĩa biết rằng ông cũng có cơ hội để sống vui, ông sẽ
nhờ Vinh hướng dẫn đi chùa, học giáo lý, tụng kinh niệm
Phật; tâm hồn ông sẽ bớt khổ đau, phiền muộn. Con
đường đầy hoa bưởi, hoa cam dẫn đến ngôi chùa làng ở
quê nhà như hiện ra trước mắt. Ông bỗng nhớ quá ao
sen trước sân chùa rợp sắc hồng, ngào ngạt hương thơm
vào mùa hạ và bóng áo nâu của sư ông thật dịu hiền…
… Tối hôm đó, sau khi dùng cơm ở nhà Vinh về, ông đang chuẩn
bị đi ngủ thì có tiếng điện thoại reo vang. Dù cố
gắng bình tỉnh, tay ông vẫn run lên khi nghe tiếng Hòa ở
đâu bên kia.
-
Ba tha lỗi cho con!
-
Ờ! … con có gì khó khăn cứ nói di.
-
Con hay nói dối ba, lần này con phải thưa thật!
-
Chuyện gì đó con?
-
Con ra đời không thành công như mình mong ước… lương
đã thấp mà bị thất nghiệp hoài… có cô bạn gái,
mình cưng chìu hết sức, rốt cuộc cũng không thành.
-
Không sao, từ từ rồi con gặp người khác.
-
Con lỡ có con với… với Mỹ đen rồi ba à!
-
!!! (Đành im lặng, ông biết nói gì đây?)
-
Ba còn nghe con không?... Bị thất tình, buồn quá, con vơ
đại cô đó, ở ngay phòng bên cạnh, ai dè…
Ông
Hai Nghĩa cố dấu tiếng thở dài:
-
Thôi, dù sao cũng là máu mủ của mình, đừng bỏ người ta
mang tội, con à.
-
Bây giờ con đang thất nghiệp, còn nó sanh rồi không ai giữ
con, tiền gửi nhà trẻ mắc quá…
Quyết
định đến thật nhanh, không đắn đo suy nghĩ ông Hai sốt
sắng:
-
Tụi bây dọn về đây ở chung với tao nè, tiền nhà khỏi
tốn, đỡ lo. Tao giữ cháu nội cho hai đứa đi làm.
-
Con cám ơn ba. Lúc nào ba cũng thương yêu, lo lắng cho
con mà con thì chưa làm được gì để đền đáp. Con
hứa từ nay…
Ông
Hai chận lời:
-
Ba chỉ cần con hứa từ nay phải sống thành thật với chính
mình và với người chung quanh. Đừng ngụy tạo, đừng
vẽ vời. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, con à.
Giọng
của Hòa trở nên ngập ngừng:
-
Con xấu hổ, con ăn năn… con xin chừa!
-
Ờ thôi, chuyện cũ bỏ qua hết đi con. Mà cháu nội của
tao là trai hay gái vậy?
-
Dạ con trai, nó bự lắm ba à, hồi mới sanh đã 9 pounds, bây
giờ chưa tròn ba tháng đã 15 pounds rồi.
Ông
Hai nói thầm: “Lại một lần nữa, con hơn cha là nhà
có phúc!”
-
Con đặt tên nó là Michael. Hi vọng sau này lớn lên, nói
chơi bóng rổ giỏi như Michael Jordan vậy!
-
Thôi con ơi, đừng mơ mộng viển vông nữa, sống với thực
tế là hơn! Thực tế là, tao nhận giữ cháu ngày thường
thôi. Thứ bảy tao sinh hoạt hội cao niên, chủ nhật
tao đi chùa.
Hòa
nghĩ trong bụng: “ông già bây giờ có uy quá, tự nhiên
mình thấy khớp!” Rồi anh vui vẻ hứa:
-
Dạ, con đâu dám đòi hỏi gì hơn. Ba giúp con đúng lúc
quá! Tụi con thu xếp, tuần sau đi xe lửa về.
-
Tao còn sẵn hai vé miễn phí nè, để tao gởi lên cho. Thôi khuya rồi, tao đi ngủ đây. Bye!
Bỗng
nhiên trời đổ xuống một trận mưa rào. Tiếng mưa
ban đầu còn thưa thớt, về sau trút xuống ào ào không ngớt. Mưa làm tan bầu không khí oi bức, nồng nực ở chung quanh. Ông Hai nằm im nghe sự mát mẻ của đất trời đang hòa lẫn
với niềm vui lớn lao đang làm tươi lại trái tim khô héo
của mình từ bấy lâu nay…