Bức
Tranh Phù ThủyKhuôn
viên trường đại học Stanford miền Bắc tiểu bang California
đang mở cửa đón khách yêu hội họa. Mùa thu vừa mới
bắt đầu với nắng tơ tha thướt trong hơi lạnh còn nên
thơ. Thiên nhiên đã tô màu lá nửa vàng nửa đỏ trên
những hàng cây hai bên đường dẫn vào khu triễn lãm.
Thiều
có cảm tưởng mùa Thu năm nay vừa biểu dương sự kiêu hãnh
vừa bày tỏ nét sầu bi của nhân dân Mỹ sau vụ khủng bố
kinh hoàng ở New York vào tháng chín vừa qua.
Khách
đến đây chẳng phải chỉ để ngắm tranh suông. Đa
phần tranh này sẽ được bán đấu giá vào tuần sau; tất cả số tiền thu được sẽ tặng cho American Red Cross
và United Way, hai cơ quan từ thiện lớn của Mỹ đang dẫn
đầu công tác cứu trợ, giúp đỡ gia đình các nạn nhân.
Mới
11 giờ, phòng tranh đã đông đặc người, những kẻ đến
sau còn xếp hàng thật dài ngoài sân. Thiều công nhận
con gái mình có lý khi nó bảo nên đi sớm nhưng thói quen thức
dậy trễ vào cuối tuần đã khiến chàng còn đứng chôn chân
nơi đây.
Trâm
Anh đang là sinh viên năm thứ ba ngành y ở đây nên Thiều
có dịp tham dự nhiều sinh hoạt thể thao, văn nghệ của trường. Con gái anh thật tế nhị trong cách săn sóc, nâng đỡ tinh
thần của cha mình, người cha cô đơn, góa vợ sớm.
Bốn
mươi tuổi, lứa tuổi dồi dào nhựa sống, nhiều nghị lực
để phấn đấu với đời. Vậy mà nửa đường, nàng
lặng lẽ ra đi. Chỉ khi nào phải đưa tiễn kẻ thân
yêu ra nghĩa trang, người ta mới thấm thía sự vô thường
của cuộc sống, của kiếp người. Đôi khi, Thiều muốn
buông trôi tất cả: chức vụ, giàu sang nào có nghĩa
gì đâu…
Nhưng
dần dần rồi cũng nguôi ngoai, cũng quen với những buổi đi
về vắng vẻ. Ba năm rồi còn gì! Trâm Anh khuyến
khích và hướng dẫn cha trở lại những sinh hoạt trẻ trung
của trường đại học, nơi một thời anh và vợ đã cùng
gặp gỡ, gắn bó. Trâm Anh ngầm hi vọng nơi đây ba mình
sẽ gặp được một người tri kỷ và ông sống vui hơn.
Song
tự thâm tâm, Thiều biết mình không còn thích hợp nữa với
những sinh hoạt thanh niên. Chàng cảm thấy lòng mình
êm ả hơn vào những ngày đi lễ chùa, nhìn khói hương lan
tỏa nhẹ nhàng nơi chánh điện, nghe tiếng chuông thanh thoát,
giọng tụng kinh hòa điệu theo nhịp mõ thâm trầm…
Chàng
thích tham dự những buổi giảng dạy Phật pháp, đây là một
khung trời mới mẻ đầy kỳ hoa dị thảo. Trước đây,
cũng nhờ Quang, người bạn học cũ vốn là cựu huynh trưởng
Gia Đình Phật Tử, hướng dẫn đến chùa cúng thất cầu
siêu cho vợ vào mỗi chủ nhật nên anh được làm quen với
cảnh chùa, những sinh hoạt Phật giáo và sách vở, giáo lý… Nhờ đó, Thiều biết đạo Phật không phải chỉ là hình
thức nghi lễ tôn giáo. Càng khám phá, người ta sẽ càng
kính ngưỡng hơn biển trí tuệ tuyệt vời không giới hạn
của Như Lai…
… Hàng người với những gương mặt sáng sủa, hiền hòa, những
cử chỉ khoan thai, từ tốn, lịch sự đang tiến thật chậm. Họ có thì giờ làm quen nhau, nói khe khẽ những câu chuyện
nắng mưa thời tiết, sức khỏe. Họ không dám đề cập
lại vết thương sâu hoắm ở New York, vết thương làm rúng
động lương tâm loài người. Họ cũng không khoe khoang
là vào đây xem tranh để chuẩn bị chi tiền trong cuộc đấu
giá sắp tới. Họ làm việc thiện kín đáo, khiêm tốn
khiến hành vi của họ trở thành cao cả hơn.
Cuối
cùng rồi Thiều cũng vào đến bên trong. Phòng tranh chia
làm ba khu vực: đầu tiên là những bức tranh cổ điển
được vẽ lại trên nền canvas, vẽ rập khuôn theo những
tác phẩm của các họa sĩ nổi tiếng: Claude Monet, Albert
Bierstadt, VanGogh, Winslow Homer… Loại này được giới
trung lưu trí thức ưa chuộng. Tiếp theo là khu dành riêng
cho những họa phẩm Âu Mỹ hiện đại với những đường
nét màu sắc bộc trực, trẻ trung và sau cùng là những tác
phẩm Đông phương: những bức tranh Thiền vị Nhật
Bản, Trung Hoa, những bức phong cảnh, chân dung mang màu sắc
Á Đông.
Thiều
vốn không có kiến thức nhiều về hội họa, chàng chỉ thưởng
thức tranh theo cảm tính. Những bức tranh Thiền đơn
sơ như đưa chàng về với sự thuần phác, giúp thần trí
nhẹ nhàng, thảnh thơi hơn…
Tiếp
tục dòng thưởng ngoạn, chàng tiến đến góc bên trái, tận
cùng của phòng triển lãm. Sự kinh ngạc làm tim chàng
như lỗi nhịp trong một giây khi chàng vừa thoáng nhìn bức
tranh.
Tranh
vẽ người thiếu phụ yểu điệu trong chiếc áo dài Việt
Nam màu tím hoa cà. Nàng đứng đó, như mơ mộng, tay vịn
nhánh hồng đào nở rộ, thắm tươi trong khuôn viên chùa. Ánh sáng ấm cúng, vừa phải của những ngọn đèn trong phòng
như tụ cả vào đây làm cho người mẫu linh động hơn; đôi mắt nàng thu hút một cách kỳ quặc, chôn chân khách.
Lạ
hay quen? Hình ảnh nàng mơ hồ kỳ ảo như người trong
mộng, tưởng chừng đã gặp nhau thuở nào… Họa sĩ
hình như cố tình diễn tả những nét tương phản để tạo
sự hấp dẫn: nàng không còn là thiếu nữ trẻ trung
nhưng đôi môi xinh xắn mỉm cười và ánh mắt lóng lánh mùa
Xuân khiến người ta không đoán được tuổi tác; màu
tím đoan trang của tà áo làm dịu bớt sự rực rỡ của hoa
anh đào. Mái tóc nâu nhạt được bới cao, khoe khuôn
mặt trái xoan với một vài nét chấm phá của thời gian.
Tóc mai rũ xuống, mềm mại như tơ liễu. Cảnh chùa tuy
đông đảo, sống động với nhiều màu sắc của mùa Xuân
nhưng vẫn giữ được nét trang nghiêm dưới nét bút của
họa sĩ. Thiều tò mò cúi xuống đọc tên tác giả ký
dưới bức tranh: Vân Du. “Chắc đây là một họa
sĩ trẻ, mới xuất hiện.”
-
Chào chú! Xin phép được tự giới thiệu, cháu là Vân
Du.
-
Ồ! Chính anh là tác giả của bức tranh “Ngày Xuân đi lễ
chùa”! Tôi không ngờ họa sĩ trẻ đến thế! Thành
thật khen ngợi.
Chàng
thanh niên cười, hàm răng trắng phau, đẹp như con gái:
-
Ở tuổi hai mươi thì ai cũng trẻ cả!
Biết
anh chàng tránh né sự khen tặng, Thiều không tha:
-
Nhưng tài năng thì không trẻ đâu nhé! Thế cậu vẽ
được bao lâu rồi?
-
Dạ, cháu còn đi học, chỉ vẽ nghiệp dư, tùy thích thôi,
từ mấy năm nay.
-
Tôi đoán cậu là sinh viên trường này.
-
Dạ phải, ngành computer science.
Thiều
gật gù khiến cho những sợi tóc ngả màu có dịp rủ xuống
vầng trán rộng.
-
Tôi hỏi câu này, nếu có hơi tò mò, cậu xí xóa cho nhé: Vì sao cậu lấy hiệu là Vân Du?
Đôi
mắt trong sáng của chàng trai như ánh lên nụ cười:
-
Cháu tên là Hải Vân. Ba cháu nói những nét vẽ của
cháu lãng đãng như mây trong gió. Vì vậy cháu có bút
hiệu Vân Du.
Thấy
Hải Vân cởi mở, Thiều bậm gan hỏi dò:
-
Trong bức họa có nhiều nhân vật nhưng hình như cậu chú
tâm vẽ người thiếu phụ mặc áo dài tím.
-
Vâng! Đó là hình ảnh của mẹ cháu. Bà hay đi chùa… Trí nhớ của Thiều chợt lóe lên một tia sáng. Thôi
đúng rồi! Chàng đang tần ngần chưa kịp hỏi gì thêm
đã có tiếng Trâm Anh léo nhéo sau lưng:
-
Con tìm ba mãi! Ô hay, lại gặp anh Vân nơi đây!
Chàng
họa sĩ trẻ mỉm cười. Biết cô gái này lắm mồm,
tốt hơn hết nên làm thinh. Nếu phác họa gương mặt
cô này, Hải Vân sẽ vẽ một vòng tròn lớn với vành trăng
lưỡi liềm cho nét môi.
Nàng
liếng thoắng giới thiệu:
-
Đây là anh Vân bạn cùng trường với con, một họa sĩ sẽ
nổi danh.
Hải
Vân lắc đầu chịu thua. Thiều biến câu đùa dai thành
nghiêm chỉnh hơn:
-
À, ba cũng nghĩ thế! Thôi nhé, xin chào cậu, chúc cậu
sớm thành công. Bây giờ chúng tôi phải về.
Hai
người đàn ông bắt tay từ giã. Khách dần dần tụ
về góc phòng đông hơn, bức tranh khổ lớn của Vân Du có
sức thu hút kỳ lạ. Tự nhiên Thiều cũng cảm thấy
hãnh diện lây với chàng sinh viên Việt đáng mến.
… Mỗi tối thứ bảy, thay vì đi chơi ngoài cùng với các bạn
trẻ, Trâm Anh thường rủ các bạn về nhà mướn phim, mời
ba cùng tham dự. Nàng tuy liếng thoắng hay nói cười nhưng
rất chú ý săn sóc cha.
Nhưng
đêm nay Thiều than mệt, đi nghỉ sớm. Chàng muốn nằm
im quay lại cuốn phim trong ký ức về hình ảnh kiều mị kia. Một chút xấu hổ thoáng qua.
“Sao
lại thế? Người ta có chồng con!”
“Chẳng
sao cả, chỉ là sự chiêm ngưỡng thuần túy vì cái đẹp
thôi!”
Khoảng
nửa năm trước, Thiều đã chợt thấy người thiếu phụ
ấy thướt tha trong chiếc áo dài lụa màu khói lam ở sân
chùa. Từ chánh điện ở trên cao nhìn ra, chàng có thể
quan sát rõ. Dáng nàng thanh gầy như mai nhưng dịu dàng
như liễu. Vạt áo lung linh nhuộm nắng vàng theo từng
bước chân đài các. Nắng sớm mùa hạ soi sáng rỡ khuôn
mặt xinh, tươi tắn.
Nàng
xoay qua nói chi đó với người đàn ông đi bên cạnh - Thiều
đoán là chồng - rồi hai người tiến về tượng đài Quán
Thế Âm. Nhìn dáng điệu khoan thai và cử chỉ cung kính
của nàng khi lễ lạy, Thiều biết đây là một Phật tử
thuần thành.
Buổi
thuyết pháp hôm ấy do hòa thượng L.T. chủ giảng, danh tiếng
của người khiến giảng đường đông đảo khác thường. Nhưng tiếc thay, Thiều đã bị phân tâm vì cứ mong được
nhìn thấy tận tường dung nhan ấy. Chắc chắn nàng đang
cùng nghe, đang cùng thở không khí nơi đạo tràng này. Nhưng quả thật “vô duyên đối diện bất tương phùng”.
Hình ảnh mỹ miều ấy chỉ là một thoáng mây bay. Từ
ấy đến nay, Thiều không hề được gặp lại, song một lần
cũng đủ để nhớ mãi.
Chàng
lại nghĩ đến bức tranh. Phải chăng đây là một sự
tái ngộ đầy thú vị? Thiều quyết sẽ giành mua bức
họa ấy cho bằng được. Cơ hội không đến hai lần.
***
Thiều
run tay mở lớp giấy dầy phong kín bức tranh. Chàng nín
thở, đứng lui lại để nhìn cho thật đã, như là đang khát,
muốn ực hết ly nước lạnh trong veo.
Tự
ái và lòng ước muốn thật thỏa thuê lúc người điều khiển
đấu giá gõ búa xuống bàn tuyên bố Thiều thắng. Nhiều
người đã giành mua bức họa này, đẩy giá lên cao mãi.
Thiều sốt ruột trả đại mười ngàn, cách đối thủ một
khoảng khá xa mức bình thường. Đây là số tiền lớn. Nếu con gái biết được, nó sẽ cằn nhằn lôi thôi.
“Mình
có cách nói: tiền này đóng góp vào việc nghĩa!” Một chút xấu hổ thoáng hiện trong tâm: “ai ngờ từng
tuổi này mà mình còn si mê người trong mộng!”
Có
tiếng lách cách mở ổ khóa. “Trâm Anh về sớm quá,
mình chưa kịp mang tranh lên phòng cho khuất mắt nó.”
Cô
gái lên tiếng ngay khi vừa thấy Thiều:
-
Con không ngờ ba thích bức tranh đến thế!
“Thôi
rồi, nó biết hết mọi sự!” Thiều cố giữ im lặng,
sự im lặng có tính cách dò xét và phòng thủ.
Trâm
Anh vuốt mái tóc ngắn còn ướt mồ hôi. Nàng mệt lắm
sau khi tập bóng rổ ở trường nhưng tin đấu giá tranh còn
làm nàng mệt hơn. Vội chạy về nhà cho rõ trắng đen.
-
Ba thích người mẫu hay thật sự thích tranh?
Thiều
phóng một lối thoát:
-
Ba nào quen biết với ai, sao con lại hỏi thế?
-
Lúc sau này ba hay đi chùa, thế nào cũng có lần gặp!
Buông
một câu đùa, Thiều hi vọng không khí đổi khác:
-
Ơ hay! Con gái ba hôm nay lạ nhỉ? Cứ như là thám
tử điều tra.
Vốn
sinh trưởng tại Mỹ, Trâm Anh có thói quen nói thẳng, cô không
vì vị nể cha mà bỏ qua vấn đề khi mọi sự chưa sáng tỏ.
-
Nếu quả ba chưa quen biết với bà ta, đó là cái may. Bà ấy lạ lắm! Ai mới quen mới gặp cũng mến mộ nhưng
giao tiếp lâu ngày thế nào cũng mang họa vì bà. Nhóm
bạn trẻ của con điêu đứng vì bà ấy đã nhiều. Tụi
nó kêu là mụ phù thủy.
Thiều
hơi chột dạ nhưng chưa vội tin:
-
Sao có chuyện lạ vậy? Mà bà ta tên gì?
-
Bà ấy tên K.X. Người ta quen gọi pháp danh D.M. hơn. Đến chùa nào trong vùng Bay Area này, hỏi D.M. ai cũng biết.
-
Người hay đi chùa, tụng kinh, lễ Phật như bà, lẽ nào lại
tệ?
Cô
gái chắc lưỡi, rùn vai:
-
Thật đó ba! Bà có bốn người con. Hải Vân là
út. Bốn người con ấy có biết bao nhiêu là bè bạn,
mà ai cũng sợ bà hết!
-
Trong đó có con?
Cô
gái hất mặt lên, đôi mắt long lanh cương quyết:
-
Bả mà đụng con thì chưa biết thắng bại về ai. Tiếc
là bạn thân của con đang đau khổ vì bà ta mà con thì không
giúp được chi cả.
Thấy
ba chú ý lắng nghe, cô cao giọng kể tiếp:
-
Ba có thể tưởng tượng là các con của bà tuân lệnh mẹ
vô điều kiện: vợ chồng đang ở với nhau – do chính
bà cưới hỏi đàng hoàng - vậy mà bà bảo bỏ là phải bỏ;
trai gái thương nhau, bà không hài lòng, phải chấm dứt ngay; bạn bè đang giao hảo thân thiện, hễ bà chen vào thì trở
thành thù địch… Đại khái như thế đó, nên ai cũng
ngán.
Dù
biết tánh con không bao giờ đặt điều nói dối nhưng Thiều
không thể tin ngay. Chàng nhướng đôi mày rậm, trề trề
môi làm ra vẻ khôi hài để câu hỏi vặn của mình nhẹ nhàng
hơn:
-
Ái chà! Các con của bà đều có ăn học lại trưởng
thành rồi, sao mù quáng tin nghe đến thế?
-
Con sẽ chứng minh sự thật. Ba sẽ thấy tài năng quyền
phép của bà, mặc ai đau khổ, mặc ai than van. Khi rõ
ràng mọi sự, ba sẽ tính sao với bức tranh phù thủy ấy? Thật tình, con không muốn thấy “người hai mặt” ấy trong
nhà, dù chỉ là hình ảnh thôi.
Thiều
lặng thinh. Nếu sự thật quả y như thế, liệu chàng
còn có thể yêu quí bức tranh này không? Người và ảnh,
bên trong và bên ngoài, nghệ thuật và đạo đức, tôn giáo
và con người… Những điều ấy có thể độc lập tách
rời nhau không?
Liên
tiếp những ngày sau đó, Trâm Anh mang về nhà nào là hình
ảnh, thư từ, băng video để chứng minh lời nói của mình. Dù tin hay không, Thiều cũng bị ảnh hưởng. Chàng bị
dằn vặt bởi những ý nghĩ mâu thuẫn, sinh ra bực dọc, không
yên.***
Ba
tuần lễ trôi qua trong không khí ngột ngạt. Bức tranh
vẫn còn im ỉm nơi góc phòng; Trâm Anh đã gói kín lại
nhưng còn nể cha, không dám dẹp vào phòng trống dùng làm
“kho” chứa các đồ vật linh tinh.
Dù
sao nét vẽ của Hải Vân cũng đáng ngắm nhìn, nàng chỉ bực
bội vì gương mặt, dáng dấp của bà ta thôi. Ba nàng
thì lừ đừ như người bịnh, sau buổi cơm chiều là rút
lên lầu. Bỗng nhiên ông trở nên im lặng, co ro. Cái già như đã rình rậm sẵn nơi đâu đó, nó ập tới vồ
lấy ba lúc nào không ai hay. Những cơ thịt trên mặt
đổ xuống, chảy dài sau làn da xám xịt. Đôi mắt đẹp
đa tình của ông giờ đây quầng thâm với những tia đỏ
xót xa. Môi thì trề xuống như một ông già lười ngậm
miệng; tóc tai cũng không còn vén khéo, vài sợi tóc bạc
chường ra ngoài một cách đắc thắng.
Có
lần, trong bữa cơm, Trâm Anh ướm hỏi:
-
Công việc trong sở làm của ba có bị trở ngại vì chiến
tranh chống khủng bố không?
-
Ờ, thì ảnh hưởng chung mà, sở nào cũng giảm năng xuất.
-
Ba liệu chừng cầm cự được không?
-
Dù sao dược phẩm cũng thuộc về nhu yếu, không đến nỗi
nào.
Vậy
là đỡ một mối lo. Nhưng hình như bức tranh là tấm
chắn ngăn cách hai cha con và làm ông xuống sắc thấy rõ…
Những
cơn mưa cuối Thu gây ẩm ướt khó chịu thêm. Sự lạnh
lẽo trùm lên cả hai người trong nhà. Trâm Anh mở nắp
dương cầm, lướt nhẹ một bản nhạc quen thuộc nhưng nàng
không thể chơi hết bài vì cảm thấy âm thanh rời rạc đến
vô duyên.
Tình
trạng này không thể kéo dài mãi được! Kỳ thi đã
gần kề mà sự phân tâm khiến các công thức hóa học, những
bài sinh vật dài lê thê không chịu ở yên trong trí nhớ. Trâm Anh nhắc điện thoại, kêu cứu với bác Quang nhờ bác
rủ ba đi chùa như trước. Nơi bác Quang, nàng luôn luôn
kính mến và tin cậy nên đã thổ lộ mọi điều. Bác
là điểm tựa tinh thần, là liều thuốc giải sầu cho những
ai trăn trở nỗi buồn riêng.
***
Sáng
hôm nay trời nắng tốt, Thiều cảm thấy dễ chịu hơn. Chàng muốn chạy bộ một vòng, tắm mình trong nắng ấm để
thấy mình vẫn còn sinh lực, vẫn còn sống… nhưng chợt
nhớ lại cái hẹn với Quang, Thiều lo chuẩn bị sẵn ấm
trà.
Quang
là bạn cùng lớp với chàng ở Pétrus Ký, đang sửa soạn
thi Tú Tài thì xảy ra biến cố 30 tháng 4. Mạnh ai nấy
chạy tán loạn. Đâu ngờ rồi cũng gặp lại nhau chốn
này. Quang sùng đạo lắm, thuở trung học, chàng đã vào
Gia Đình Phật Tử, sang Mỹ vẫn tiếp tục hướng về con
đường giải thoát. Đối với ai, Quang cũng niềm nở
sốt sắng giúp đỡ và hễ có cơ hội, anh thường khuyên
nhủ và hướng dẫn người khác đi vào Phật pháp.
Có
tiếng chuông, Quang và một người bạn xuất hiện. Thiều
đón họ bằng một nụ cười. Dáng người nhỏ nhắn,
nét mặt hiền hòa, Quang lúc nào cũng tươm tất trong bộ quần
áo đơn giản, thẳng nếp. Anh giới thiệu:
-
Đây là anh Tâm, người bạn đạo thân nhất của tôi. Còn đây là anh Thiều, bạn học cũ, hiện là phó giám đốc
công ty dược phẩm…
Thiều
lắc đầu, ném cho Quang cái nhìn buồn:
-
Anh biết tính tôi mà, sao hôm nay giới thiệu rình rang thế?
Tâm
vừa bắt tay Thiều, vừa đở lời:
-
Không giới thiệu thì tôi cũng đã biết, dù mới gặp anh
lần đầu. Tôi nghĩ là anh Quang có dụng ý chi đây.
Ông ấy “thâm” lắm anh ạ!
Sau
câu nói đùa của Tâm, không khí trở nên tự nhiên thân mật
hơn. Họ cùng tiến về phòng khách trang trí rất “formal”
với bộ ghế da nâu đen, thật bóng, nằm trên tấm thảm Ba
Tư sặc sỡ, dầy và mịn, hòa hợp với bộ màn vàng nâu
sậm in bông tím li ti.
Quang
chợt đưa đề nghị:
-
Trời này mà được ra sân sau của anh, ngồi hưởng nắng
ấm, ngắm vườn Nhật thì nhất!
Chủ
nhà hớn hở ra mặt. Họ cùng mang bộ đồ trà, bánh
ngọt bày trên cái bàn mây tròn có bốn ghế xây quanh. Tâm hơi ngẩn người. Anh lặng ngắm vẻ đẹp thanh tao
của bụi trúc vàng óng ả trên nền sỏi trắng phau. Bãi cỏ vẫn xanh rờn trong tiết thu. Cây Japanese maple
với dạng yểu điệu Phù Tang đang phơi bày những chòm lá
đỏ tía còn nấn níu trên cành. Giòng thác trên hòn non
bộ ở góc vườn đang tuôn nước trắng xóa, âm thanh êm đềm. Nắng tràn ngập, lọt qua mái nhà lục giác đan bằng trúc,
chảy xuống thành những sợi ánh sáng ấm áp, dịu dàng. Cả ba đã yên vị dưới mái nhà lâm râm bóng nắng, Tâm buột
miệng:
-
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu anh Thiều là một họa sĩ. Cảnh nhà anh đẹp quá, đầy nghệ thuật từ trong đến ngoài.
-
Cám ơn lời khen của anh. Thú thật, thuở nhỏ, tôi đã
có mộng làm họa sĩ nhưng vì nhà nghèo khó, tôi phải cố
học để vươn lên. Nhất là ở xứ Mỹ này, nếu không
khá về khoa học kỹ thuật thì…
Thiều
chợt nín ngang; sợ vô tình làm mích lòng Quang, nhà văn
nghèo. Nhưng Quang vẫn bình thản, anh tiếp theo câu nói
của bạn:
-
Ở đâu cũng vậy, ôm nghiệp văn chương nghệ thuật rất
khó làm giàu. Nhưng giàu nghèo cũng do phần phước của
mỗi người mà thôi.
Tâm
gật gù biểu đồng tình. Mái tóc hoa râm của anh như
trắng thêm dưới ánh nắng.
-
Tôi đồng ý. Giàu nghèo đa phần do phúc đức nhưng sống
hạnh phúc hay không lại do chính mình.
-
Hay! Chính bản thân tôi đã kinh nghiệm điều ấy - Thiều
xoa hai tay vào nhau, thói quen của anh khi gặp điều vừa ý
- Hồi nhỏ, sống trong cảnh nghèo, mỗi khi đạp xe đi ngang
qua các khu vực sang trọng với những biệt thự kín cổng
cao tường, tôi cứ nghĩ là những người giàu chắc hạnh
phúc, sung sướng lắm. Đến bây giờ, được sống trong
sự khá giả sung túc, tôi mới biết rằng người giàu cũng
khổ như thường.
Quang
rót nước trà ra tách, mời một cách tự nhiên:
-
Uống đi kẻo nguội mất ngon!
Ba
người im lặng thưởng thức trà mạn sen, loại đặc biệt
từ nội thành cố đô Huế. Hương sen theo hơi nóng tỏa
nhẹ trong không khí thanh khiết đang bao phủ họ. Trong
khoảnh khắc này trà sen như hóa thành chất nước cam lồ.
Mọi người đều cảm thấy dễ chịu, lâng lâng.
Quang
tiếp tục:
-
Vật chất chỉ là phương tiện còn sống có hạnh phúc hay
không, tôi đồng ý với anh Tâm, là do quan niệm, do cách sống
của mình.
Thiều
chợt thở dài, châm một điếu thuốc. Những ngón tay
dài, thuôn thả, lòng bàn tay trơn mịn.
-
Hoàn cảnh hiện nay của tôi, nếu khách quan mà nói thì có
đầy đủ cả. Nhưng…
Vốn
hiểu tâm sự của bạn, Quang mở đường:
-
Anh có cảm thấy cô đơn chăng?
-
Hồi vợ tôi mới mất, vì bất ngờ quá, tôi như bị chìm
lún trong đau khổ, tưởng đâu không thoát ra được nhưng
may nhờ anh Quang. Anh đã giúp tôi thật đúng lúc và tận
tình hướng dẫn tôi Phật pháp. Tôi hiểu và chiêm nghiệm
được vô thường, khổ, không; nhờ thế nguôi ngoai dần. Song bây giờ tôi lại vướng vào cái khổ khác…
Thiều
ngưng nói, chậm rãi hít một hơi thuốc dài. Khói thuốc
ẻo lả tan trong nắng. Hai người bạn im lặng, đợi
chờ.
-
Tôi đi chùa, học giáo lý với tất cả sự kính cẩn vì tin
đây là phương thuốc cứu khổ nhiệm mầu,tin Phật pháp giải
thoát mọi kẻ trầm luân. Tôi tôn quí tăng ni và nghĩ
rằng tất cả Phật tử lui tới chùa đều cùng chung mục
đích như tôi. Đó là nương vào Phật Pháp Tăng để
tu học. Khi mình tu học thì phải dẹp bớt phần cá nhân
vị kỷ để gây hạnh phúc cho người chung quanh. Làm
cho người khác vui mình mới có niềm vui, đúng không?
Tâm
gật đầu:
-
Người hiểu đạo biết rằng càng xả kỷ vị tha thì càng
có hạnh phúc; còn người thích uy quyền, muốn điều
khiển kẻ khác thì gây khổ cho người và cho chính mình. Cái tôi càng lớn càng sai lầm.
-
Có phải ai đi chùa, thường nghe giảng đều biết điều ấy?
Quang
mỉm cười:
-
Tôi nghĩ thế! Bởi vì cốt tủy đạo Phật là ở chỗ
ấy. Đạo Phật chủ trương vô ngã.
Thiều
dướn người dụi tắt điếu thuốc trong cái gạt sành màu
đất nung. Giọng anh trầm xuống.
-
Tôi chưa hiểu đạo nhiều nhưng cho tới giờ phút này tôi
thấy được cái đẹp của đạo Phật là như thế. Nhờ
xả kỷ, nhờ hòa hợp và tôn trọng lẫn nhau, chúng ta cùng
sống chung có hạnh phúc.
Và
chàng thì thầm như tâm sự:
-
Trong tôi, hình như có con người nghệ sĩ. Ngày xưa tôi
yêu cái đẹp của màu sắc, đường nét; bây giờ tôi
thiên về cái đẹp của tâm hồn. Đạo Phật thu hút
tôi vì lẽ ấy. Anh Quang cũng biết đấy, tôi thường
xuyên đi chùa, thấy Phật tử chung quanh mình ai cũng hiền
hòa dễ thương. Tôi như tìm được một nơi chốn an
bình trong xã hội cạnh tranh ráo riết, phiền nhiễu này.
Tôi tìm được hạnh phúc.
Hai
người bạn lặng im chia sẻ. Họ biết Thiều sẽ tiếp
tục thổ lộ điều quan trọng đang quấy động cuộc sống
yên tĩnh của chàng.
Thiều
vuốt tóc. Vầng trán rộng của anh hơi nhếch lên cao,
vài nếp nhăn đã xếp hàng song song trên đó. Chàng hơi
đắn đo, nhìn hai bạn. Sự tin cậy giúp Thiều mạnh
dạn hơn:
-
Tôi tình cờ gặp một hình ảnh rất đẹp. Tôi dùng
chữ “hình ảnh” vì quả thật tôi không quen biết người
ấy. Nàng đẹp lắm, không phải vì phấn son trang điểm
nhưng vì sự thuân thành của một người Phật tử đã thể
hiện trong cung cách, dáng đi, trong sắc áo, trên nét mặt của
nàng. Người như thế, tôi nghĩ, ắt phải có một tâm
hồn rất đẹp và diễm phúc thay cho những ai được sống
cạnh nàng. Chồng con của người ấy thật là may mắn…
Quang
ướm lời nhắn nhủ:
-
Anh thật là giàu tưởng tượng!
-
Quả đúng vậy, tôi thường vẽ cho mình một khung cảnh, một
chân trời mơ ước rồi đi về trong ấy.
Bây
giờ Tâm mới có dịp góp lời. Giọng ồ ồ, xứng với
dáng dấp cao lớn đẫy đà của anh:
-
Xin lỗi anh nếu tôi nói điều này làm anh phật ý. Người
hiểu đạo phải nhìn ra sự thật, sống với sự thật chứ
không thể mơ mộng viễn vông.
Thở
dài, Thiều trút dòng tâm sự:
-
Sự thật, ối chao, phũ phàng làm sao! Thần tượng “chưa
quen biết” mà tôi vừa kể đấy, vốn là một người đa
mưu và tàn nhẫn vô cùng. Nếu những gì tôi được nghe
là đúng thì bà ấy là mụ phù thủy khoác áo tiên nữ dịu
hiền. Tôi đau khổ lắm vì niềm tin trong tôi đột nhiên
sụp đổ, tâm trí tôi chao đảo, hoang mang. Vấn đề
của tôi đặt ra là người Phật tử lui tới đạo tràng thường
xuyên, tu học lâu năm mà không thể chuyển biến được tâm
ý của mình sao? Vậy đi chùa có ích lợi gì không?
Hai
người khách nghe hỏi bối rối. Họ không ngờ cội rễ
khổ đau của bạn phát xuất từ mấu chốt quan trọng ấy. Họ đã hiểu lầm Thiều như một con người yếu đuối si
tình.
Nhưng
Quang vốn nhạy bén. Đầu óc anh lóe lên câu giải đáp:
-
Bất cứ sự việc nào cũng vậy, nếu nhìn ở khía cạnh này
là sai mà đứng ở quan điểm khác lại thấy đúng. Tôi
muốn nói đến chủ quan và khách quan. Ví dụ như
tôi nghiêm khắc dạy dỗ con cái, theo ý tôi là đúng vì sợ
chúng hư hỏng nhưng bọn trẻ và bạn bè chúng sẽ ta thán
tôi, thậm chí xã hội Mỹ, nền giáo dục Mỹ cũng cho tôi
là độc tài, lạc hậu… Tâm hiểu câu nói bóng gió
của Quang, sẵn cơ hội này anh thấy cần phải làm sáng tỏ
vấn đề:
-
Nhưng quan niệm, tư tưởng chủ quan của mỗi người lại
do những yếu tố khách quan, tức là những chủng tử, những
kinh nghiệm quá khứ xây dựng nên. Nếu chúng ta thừa
hưởng một nền giáo dục hà khắc từ gia đình, lớn lên,
tự nhiên chúng ta có khuynh hướng xử sự như thế và tự
cho là đúng.
Thiều
không cảm thấy hài lòng, anh lắc đầu:
-
Nếu lúc nào mình cũng tự thấy là đúng trong mọi ý tưởng,
ngôn ngữ, hành động thì làm sao tu được? Con người
đâu phải là thánh nhân!
Quang
nhìn Tâm hội ý rồi bật cười:
-
Ha ha! Vấn đề là ở chỗ đó! Khi nào tự thấy
sai mình mới có thể sửa đổi, có thể tu chứ không phải
đi chùa lâu hay mau, nhiều hay ít mà gọi là tu. Đấy
chỉ là hình thức thôi.
Sẵn
dịp, Tâm dùng lưỡi dao bén của bác sĩ, giải phẫu khối
phiền não đang nhức nhối của bạn:
-
Bà phù thủy xinh đẹp mà anh nói đó, thật ra đáng thương
hơn đáng trách. Tôi vốn quen biết nhiều với người
anh ruột của D.M. Thời thơ ấu, vốn bị dì ghẻ hành
hạ sâu độc nên khi có con, từ trong vô thức, bà thấy có
bổn phận phải bảo vệ chúng đến tận cùng, muốn mưu cầu
hạnh phúc cho các con một cách tuyệt đối. Thành ra khi
làm những chuyện chia rẽ lứa đôi, bà lại thấy đúng vì
nghĩ rằng người phối ngẫu của con trai, con gái đã không
làm được như ý bà muốn, nghĩa là đã không phục vụ hết
mình cho các con bà.
- Anh giải thích nghe cũng hợp lý đấy! - Thiều nối lời
– Nhưng chẳng lẽ chồng con của bà ấy không có phản ứng
gì sao? Họ im lặng nghe lời như đàn cừu ấy à? Giả
dụ mà tôi hành động như thế thì chắc chắn con gái tôi…
Người
chủ nhà bỏ lửng câu nói. Ai lại đi nói xấu con một
cách tưởng tượng như thế bao giờ!
Tâm
không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, anh tiếp tục:
-
Chồng bà thì hiền khô, nể vợ; các con thì sợ mẹ
từ nhỏ vì bà đã theo sát và chỉ huy chúng mấy chục năm
nay; mãi rồi thành nếp, thành thói quen.
Tự
nhiên Thiều cảm thấy bực bội:
-
Thế chúng đau khổ bà chẳng hay biết, chẳng hề quan tâm
sao?
Quang
rót thêm trà. Nước đã nguội nhưng chẳng lẽ bỏ dở
bình trà ngon. Anh xen vào:
-
Chúng ta không ở trong gia đình ấy nên chẳng hiểu rõ mọi
sự tình. Tuy nhiên, một cách khách quan, tôi thấy họ
cần phải ngồi lại với nhau, thẳng thắn trình bày tất
cả những uẩn khúc, nỗi lòng thì họ sẽ hiểu nhau hơn. Thương nhau phải hiểu nhau mới có thể tạo dựng hạnh phúc. Tôi đoán chắc mọi người trong nhà ấy đều khổ cả.
Tâm
thấy câu chuyện tạm đủ để giúp Thiều thoát khỏi tình
trạng bế tắc. Nếu đi sâu hơn, hóa ra bàn luận đời
tư của người khác. Anh đổi đề tài ngay:
-
Nếu không phiền, anh Thiều có thể cho tụi này xem bức tranh
ấy không?
Thiều
gật đầu đứng lên, hương dẫn hai bạn trở vào nhà. Bức tranh vẫn nằm im trên sàn gỗ. Trâm Anh đã dùng
băng keo dán tờ giấy bao kín mít. Thiều chợt thấy buồn
cười. Chẳng ngờ vật vô tri này có thể quấy động
tâm tư mình một cách dễ dàng và ảnh hưởng đến tình cảm
hai cha con anh đến thế!
Khi
bức tranh được mở tung ra, Quang và Tâm đứng lui lại để
ngắm nhìn. Thiều kín đáo quan sát nét mặt vô tư của
họ.
Ánh
mắt hai người sáng lên trước những đường nét và màu
sắc nghệ thuật. Họ thưởng thức bức họa như nhìn
ngắm một vườn lan đang nở dưới trời Xuân.
Vừa
khi ấy, Trâm Anh bước vào nhà, trên tay ôm hộp pizza.
Mặt cô hơi xịu xuống khi thấy bức họa được mở ra nhưng
cô cất giọng đon đả ngay:
-
Con xin chào hai bác. May quá, con mua pizza về kịp lúc để
mời hai bác dùng. Bánh này không có thịt, toàn là vegetable
thành ra ăn chay được.
Rồi
cô lăng xăng sắp dĩa, dọn bàn.
Thiều
im lặng nhìn bức tranh “phù thủy” lần nữa, thấy lòng
yên ổn, bình thản. Anh thầm cám ơn các bạn đã tháo
gỡ cho anh mối sầu vô nghĩa.
Thiều
nói lớn, cốt ý cho con gái nghe:
-
Tôi sẽ tặng bức tranh này lại cho trường Stanford!
Trâm
Anh với tay bật ngọn đèn lớn. Chùm ánh sáng xuyên qua
những bóng thủy tinh lấp lánh làm rạng rỡ phòng ăn và căn
nhà trở nên ấm áp vui tươi. Hai cha con nhìn nhau, thông
hiểu: họ cùng cảm thấy sung sướng và cùng biết ơn
nhau.