HánDịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà
Việtdịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: TuệSỹ
(PL.2549- 2005 sửa chữa và bổ sung)
46.PHẨMKẾT CẤM
KINHSỐ 1
[775c07]Tôi nghe như vầy:
Mộtthời, Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiời Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“Cómười sự công đức[1] mà Như Lai xuất hiện ở đời thuyếtcấm giới cho các Tỳ kheo.
“Nhữnggì là mười? Thừa sự Thánh chúng; hòa hiệp thuận thảo;an ổn Thánh chúng; hàng phục người xấu; khiến các Tỳ kheocó tàm quý không bị quấy nhiễu; người không tin khiến xáclập tín căn; người đã tin khiến càng tăng ích; ngay tronghiện pháp được dứt sạch các lậu; cũng khiến các thóixấu hữu lậu đời sau được trừ diệt; lại khiến Chánhpháp tồn tại thế gian lâu dài, thường niệm tư duy bằngphương tiện nào để Chánh pháp tồn tại lâu dài.
“Tỳkheo, đó là mười pháp công đức, nay Như Lai xuất hiện ởđời thuyết cấm giới cho Tỳ kheo. Cho nên, Tỳ kheo, hãy tìmcầu phương tiện thành tựu cấm giới giới, chớ để thoáithất.
“Nhưvậy, Tỳ kheo, hãy học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 2[2]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“Cómười sự, là chỗ cư trú của Thánh.[3] Các Thánh trong bađờì thường cư trú nơi đó. Những gì là mười? Năm sựđã trừ; thành tựu sáu sự; hằng hộ một sự;[4] hộ trìchúng bốn bộ;[5] quán sát các sự yếu kém;[6] bình đẳngthân cận;[7] chánh hướng vô lậu;[8] thân hành khinh an;[9]tâm khéo giải thoát; tuệ giải thoát.
“Thếnào, Tỳ kheo, năm sự đã trừ? Ở đây, Tỳ kheo đã đoạntrừ năm kết.[10] Như vậy, năm sự đã được trừ.
“Thếnào Tỳ kheo thành tựu sáu sự? Ở dây, Tỳ kheo vâng hànhsáu pháp tôn trọng.[11] Như vậy, Tỳ kheo thành tựu sáu sự.
“Thếnào Tỳ kheo hằng hộ một sự? Ở đây, Tỳ kheo hằng thủhộ tâm đối với hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, cho đếncửa Niết-bàn.[12] Như vậy, Tỳ kheo hằng hộ [776a] một sự.
“Thếnào Tỳ kheo thủ hộ chúng bốn bộ? Ở đây, Tỳ kheo thànhtựu bốn thần túc.[13] Như vậy mà thủ hộ chúng bốn bộ.
“Thếnào Tỳ kheo quán sát sự yếu kém? Ở đây, Tỳ kheo đã tậntrừ các hành sinh tử.[14] Như vậy, Tỳ kheo quán sát sự yếukém.[15]
“Thếnào Tỳ kheo bình đẳng thân cận? Ở đây, Tỳ kheo đã đoạntận ba kết.[16] Đó là Tỳ kheo bình đẳng thân cận.
“Thếnào Tỳ kheo chánh hướng vô lậu? Ở đây, Tỳ kheo trừ khửkiêu mạn.[17] Như vây, Tỳ kheo chánh hướng vô lậu.
“Thếnào Tỳ kheo thân hành khinh an? Ở đây, Tỳ kheo đã diệt tậnvô minh.[18] Như vậy, Tỳ kheo thân hành khinh an.
“Thếnào Tỳ kheo tâm hoàn toàn được giải thoát? Ở đây, Tỳkheo đã đoạn tận ái. Như vậy, Tỳ kheo tâm hoàn toàn giảithoát.
“Thếnào Tỳ kheo tuệ giải thoát? Ở đây, Tỳ kheo quán Khổ, Tập,Tận, Đạo, như thật biểt rõ. Như vậy, Tỳ kheo tuệ giảithoát.
“Đólà, Tỳ kheo, mười sự là chốn cư trú của Hiền Thánh. CácHiền Thánh xưa đã cư trú nơi trú xứ này, đã cư trú vàđang cư trú. Cho nên, Tỳ kheo, hãy niệm trừ năm sự, thànhtựu sáu pháp, thủ hộ một pháp, hộ trì chúng bốn bộ,quán sát yếu kém, bình đẳng thân cận, chánh hứong vô lậu,thân hành khinh an, tâm được giải thoát, trí tuệ giải thoát.
“Nhưvậy, Tỳ kheo, hãy học điều này.”
Bấygiờ, các ỳ kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 3
Tôinghe như vầy:
Mộtthời Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“NhưLai thành tựu mười lực, tự biết là bậc Vô sở trước,[19]ở giữa đại chúng mà có thể rống tiếng sư tử, chuyểnpháp luân vô thượng mà cứu độ chúng sinh, rằng đây làsắc, đây là tập khởi của sắc, đây là sự diệt tậncủa sắc, đây là xuất yếu của sắc; quán sát đây là thọ,tưởng, hành, hức, tập khởi, diệt tận, xuất yếu củathức; nhân bởi cái này, có cái này, đây sinh thì kia sinh;do duyên vô minh mà hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc,danh sắc duyên sáu xứ, sáu xứ duyên xúc, xúc duyên thọ,thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên chết,chết duyên sầu ưu khổ não, không thể kể xiết. Nhân cóthân năm uẩn này mà có pháp tập khởi này; đây diệt thìkia diệt, đây không thì kia không, do vô minh diệt tận màhành diệt tận, hành tận nên thức tận, thức tận nên danhsắc tận, danh sắc tận nên sáu xứ tận, sáu xứ tận nênxúc tận, xúc ṭận nên thọ tận, thọ tận nên [776b] áitận, ái tận nên thủ tận, thủ tận nên hữu tận, hữutận nên chết tận, chết tận nên sầu ưu khổ não thảyđều diệt tận.
“Tỳkheo, nên biết, pháp của Ta sâu thẳm, rộng lớn không cóbờ mé, đoạn trừ các hồ nghi, là chốn an ổn, chánh pháp.Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân chuyên cần dụng tâm khôngđể khuyết, dù cho thân thể khô kiệt, hủy hoại, vẫn khôngbao giờ xả bỏ hành tinh tấn, buộc chặt tâm không quên lãng;tu hành pháp khổ thật không phải dễ, ưa chốn nhàn tĩnh,tịch tĩnh tư duy, không xả bỏ hành đầu-đà, như nay NhưLai hiện tại khéo tu phạm hạnh.
“Chonên, Tỳ kheo, nếu khi tự quán sát, tư duy pháp vi diệu, hãyquán sát hai nghĩa, hành không buông lung, để cho thành tựukết quả chắc thật, đạt đến chỗ diệt tận của cam lộ.Nếu khi nhận sự cúng dường của người khác, áo chăn, cơmnước, giường chõng và ngọa cụ, thuốc men trị bệnh màkhông uổng công khó nhọc của người, và cũng khiến cho chamẹ được quả báo ấy, thừa sự chư Phật, lễ kính, cúngdường.
“Nhưvậy, Tỳ kheo, hãy học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 4[20]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“NhưLai thành tựu mười lực,[21] được bốn vô sở úy, ở giữađại chúng mà có thể rống tiếng sư tử.
“Nhữnggì là mười? Ở đây, Như Lai như thật biết rõ đây là xứ,biết rõ như thật là phi xứ.[22]
“Lạinữa, Như Lai biết rõ xứ sở, biết rõ tùy thuộc nhân duyênnào mà các chúng sinh thọ lãnh quả báo ấy.[23]
“Lạinữa, Như Lai biết rõ thế giới sai biệt, giới sai biệt[24]xứ sai biệt; biết rõ như thật.[25]
“Lạinữa, Như Lai biết rõ như thật giải thoát sai biệt, vô lượnggiải thoát.[26]
“Lạinữa, Như Lai biết rõ trí tuệ nhiều hay ít của chúng sinh;biết rõ như thật.[27]
“Lạinữa, Như Lai biết rõ những điều suy nghĩ trong tâm của chúngsinh; biết rõ như thật.[28] Tâm có dục, biêt rõ tâm có dục;tâm không dục, biết rõ tâm không dục; tâm có sân nhuế,biết rõ tâm có sân nhuế; tâm không sân nhuế, biết rõ tâmkhông sân nhuế; tâm ngu si, biết rõ tâm ngu si; tâm không ngusi, biết rõ tâm không ngu si; tâm có ái, biết rõ tâm có ái;tâm không ái, biết rõ tâm không ái; tâm có thủ, biết rõtâm có thủ; tâm không thủ, biết rõ tâm không thủ; tâm loạn,biêt rõ có tâm loạn; tâm không loạn, biết rõ tâm không loạn;tâm tán, biết rõ có tâm tán; [776c] tâm không tán, biết rõtâm không tán; tâm ít, biết rõ có tâm ít; tâm không ít, biếtrõ tâm không ít; tâm rộng, biết rõ có tâm rộng; tâm khôngrộng, biết rõ tâm không rộng; tâm vô lượng, biết rõ tâmvô lượng; tâm hạn lượng, biết rõ tâm hạn lượng; nhưthật biết rõ. Tâm định, biết có tâm định; tâm không định,biết tâm không định; tâm giải thoát, biết tâm giải thoát;tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát.
“Lạinữa, Như Lai biêt rõ tận cùng tất cả con đường mà tâmhướng đến,[29] hoặc một, hai đời, ba đời, bốn đời,năm đời, mười đời, năm mươi đời, trăm đời, nghìn đời,ức trăm nghìn đời, vô lượng đời, trong thành kiếp, hoạikiếp, vô lượng thành hoại kiếp, xưa kia ta sinh ở đó vớitên họ như vậy, ăn thức ăn như vậy, thọ khổ lạc nhưvậy, thọ mạng dài, vắn, chết đây sinh nơi kia, chết nơikia sinh nơi này; tự nhớ lại như vậy sự việc vô lượngđời trước.[30]
“Lạinữa, Như Lai biết định hướng sống chết của chúng sinh;[31]bằng thiên nhãn mà quán sát các loài chúng sinh, hoặc có sắcđẹp, hoặc sắc xấu, thiện thú, ác thú tùy theo hành nghiệpđã gieo trồng, tất cả đều biết rõ. Hoặc có chúng sinhhành ác bởi thân, miệng, ý, phỉ báng Hiền Thánh, gây nghiệptà kiến, thân hoại mạng chung sinh vào trong địa ngục. Hoặccó chúng sinh hành thiện bởi thân, miệng ý, không phỉ bángHiền Thánh, hằng hành chánh kiến, thân họai mạng chung sinhvào cõi thiện, sinh lên trời. Đó gọi là bằng thiên nhãnthanh tịnh quán sát định hướng của chúng mà các hành viđưa đến.
“Lạinữa, Như Lai biết rõ các lậu đã diệt tận,[32] thành vôlậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, sinh tử đã dứt,phạm hạnh đã lập, điều cần làm đã làm xong, không còntái sinh đời sau nữa, biết rõ như thật.
“Đógọi là mười lực của Như Lai, tự gọi là bậc Vô trước,được bốn vô sở úy, ở giữa đại chúng mà rống tiếngsư tử, chuyển phạm luân.
“Thếnào là bốn vô sở úy mà Như Lai có được?[33] Như Lai thànhđẳng chánh giác; (nếu có chúng sinh muốn nói là biết, trườnghợp này không thể có;)[34] hoặc có sa-môn, bà-la-môn muốnđến phỉ báng Phật, nói là không thành Đẳng chánh giác,trường hợp này không thể có. Vì trường hợp ấy khôngthể có, nên Ta được an ổn.
“Nhưnghôm nay khi Ta nói, Ta đã diệt tận các lậu. Giả sử có sa-môn,bà-la-môn, hoặc Thiên, hoặc Ma thiên, đến mà nói Ta chưadiệt tận các lậu, trường hợp ấy không thể có. Vì trườnghợp ấy không thể có nên ta được an ổn.
“Lạinữa, pháp mà Ta thuyết, là xuất yếu của Hiền Thánh, nhưđoạn tận biên tế khổ. Giả sử [777a] có sa-môn, bà-la-môn,Thiên, hoặc Ma thiên, đến nói là chưa đoạn tận biên tếkhổ, trường hợp này không thể có. Vì trường hợp nàykhông thể có nên Ta được an ổn.
“Lạinữa, pháp chướng ngại[35] mà ta nói là đọa lạc cõi dữ;giả sử có sa-môn, bà-la-môn, đến muốn nói điều đó khôngđúng; trường hợp này không thể có.
“Tỳkheo, đó là bốn vô sở úy của Như Lai.
“Giảsử có ngoại đạo dị học hỏi Sa-môn Cù-đàm kia có lựcgì, vô úy gì mà tự xưng là bậc Vô trước, tối tôn, cácngươi hãy trả lời bằng mười lực này.
“Giảsử ngoại đạo dị học nói, ‘Chúng tôi cũng thành tựumười lực,’ Tỳ kheo các ngươi nên hỏi lại, ‘Ông cómười lực gì?’ Khi ấy ngoại đạo dị học ắt không thểtrả lời, và lại tăng thêm nghi hoặc. Vì sao? Ta không thấycó sa-môn, bà-la-môn nào tự xưng đắc bốn vô sở úy, trừNhư Lai. Cho nên, Tỳ kheo, hãy tìm cầu phương tiện thành tựumười lực, bốn vô sở úy.
“Nhưvậy, Tỳ kheo, hãy học điều này.”
Bấygiờ các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 5[36]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật trú tại nước xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“Cómười niệm, được phân biệt rộng rãi, tu tập, đoạn tậndục ái, sắc ái, vô sắc ái, kiêu mạn, vô minh. Những gìlà mười? Đó là, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng Tỳ kheo,niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm tịch tĩnh,[37] niệman-ban, niệm thân, niệm sự chết.
“Đólà Tỳ kheo, nếu có chúng sinh tu hành mười niệm này sẽđoạn tận dục ái, sắc ái, vô sắc ái; hết thảy vô minh,kiêu mạn, thảy đều được đoạn tận.
“Tỳkheo, hãy học điều này như vậy.”
Bấygiờ các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 6[38]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật trú tại nước xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“Gầngũi cung vua,[39] có mười phi pháp. Những gì là mười? Ởđây, trong nội cung[40] có khởi tâm mưu hại muốn giết quốcvương. Do bởi âm mưu này, quốc vương bị giết. Nhân dânnước đó nghĩ rằng, ‘Sa-môn, đạo sỹ này thường xuyênlui tới. Đây chắc chắn là việc làm của sa-môn ấy.’ Đólà phi pháp thứ nhất, nạn do gần gũi cung vua.
“Lạinữa, đại thần phản nghịch, bị vua bắt và giết. Khi ấynhân dân nghĩ rằng, ‘Sa-môn, đạo sỹ này thường xuyênlui tới. Đây là việc làm của sa-môn ấy.’ Đây là phi phápthứ hai, nạn do vào trong cung vua.[41]
“Lạinữa, nội cung bị mất tài bảo, khi ấy người giữ kho nghĩrằng, ‘Ở đây bảo vật này luôn luôn được ta canh giữ,lại cũng không có ai khác đi vào đây. Nhất định là do sa-mônấy làm.’ Đó là phi pháp thứ ba, nạn do đi vào cung vua.
“Lạinữa, con gái của vua đang tuổi tráng thịnh, chưa có chồngmà mang thai. Khi ấy người trong nước nghĩ rằng, ‘Trong đâykhông ai khác lui tới. Nhất định là do sa-môn ấy làm.’Đó là phi pháp thứ tư, nạn do gần gũi cung vua.
“Lạinữa, vua mắc bệnh nặng, [777b] trúng thuốc của người khác.Khi ấy nhân dân nghĩ rằng, ‘Trong đây không có ai khác. Nhấtđịnh là do sa-môn ấy làm.’ Đó là phi pháp thứ năm, nạndo gần gũi cung vua.
“Lạinữa, các đại thần của vua tranh chấp nhau, gây thương tổnnhau. Khi ấy nhân dân nghĩ rằng, ‘Các đại thần này trướckia hòa hiệp, nay lại tranh chấp nhau. Đây không phải là việclàm của ai khác, mà nhất định là do sa-môn, đạo sỹ ấy.’Đây là phi pháp thứ sáu, nạn do gần gũi cung vua.
“Lạinữa, hai nước tranh chấp nhau, mỗi bên đều tranh thắng.Khi ấy nhân dân nghĩ rằng, ‘Sa-môn đạo sỹ này nhiều lầnlui tới nội cung. Đây nhất định là việc làm của sa-mônấy.’ Đây là phi pháp thứ bảy, nạn do gần gũi cung vua.
“Lạinữa, quốc vương trước kia vốn ưa huệ thí, phân chia tàivật cho dân; về sau keo lẫn, hối tiếc, không huệ thí nữa.Khi ấy nhân dân nghĩ rằng, ‘Quốc vương của chúng ta trướckia vốn ưa huệ thí; nay lại tham lam keo kiệt, không có tâmhuệ thí. Đây nhất định là việc làm của sa-môn ấy.’Đây là phi pháp thứ tám, nạn do gần gũi cung vua.
“Lạinữa, quốc vương hằng đúng theo pháp mà thâu tài vật củadân. Về sau, lấy tài vật của dân một cách phi pháp. Khiấy nhân dân nghĩ rằng, ‘Quốc vương của chúng ta trướckia thâu tài vật của dân một cách hợp pháp, nay lấy tàivật của dân một cách phi pháp. Đây nhất định là việclàm của sa-môn ấy.’ Đây là phi pháp thứ chín, nạn do gầngũi cung vua.
“Lạinữa, nhân dân trong quốc thổ mắc phải bệnh dịch tràn lan,thảy đều do duyên đời trước. Khi ấy nhân dân nghĩ rằng,‘Chúng ta xưa kia không có tật bệnh. Nay người bị bệnhchết nằm đầy đường. Đây nhất định do chú thuật củasa-môn gây nên.’ Đây là phi pháp thứ mười, nạn do gầngũi cung vua.
“Tỳkheo, đó là mười phi pháp, tai họa do đi vào cung vua. Cho nên,Tỳ kheo, chớ móng tâm gần gũi cung vua.
“Tỳkheo, hãy học điều này như vậy.”
Bấygiờ các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 7
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật trú tại nước xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“Nếuquốc vương thành tựu mười pháp thì không thể tồn tạilâu dài, bị nhiều giặc cướp. Những gì là mười?
“Ởđây, quốc vương tham lam keo kiệt, vì chút sự việc nhỏmà nổi thịnh nộ, không quán sát nghĩa lý. Nếu quốc vươngthành tựu pháp thứ nhất này, sẽ không tồn tại lâu dài,nước có nhiều giặc cướp.
“Lạinữa, vua ấy tham đắm tài vật, không khứng chịu thua sút.Quốc vương [777c] thành tựu pháp thứ hai này, sẽ không tồntại lâu dài.
“Lạinữa, vua kia không chịu nghe can gián, là người bạo ngược,không có từ tâm. Đây là pháp thứ ba mà quốc vương thànhtựu sẽ không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, vua kia bắt oan nhân dân, giam cầm ngang ngược, nhốttrong lao ngục không có ngày ra. Đó là pháp thứ tư, khiếnvua không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương tuyển dụng thần tá phi pháp, không y theochánh hành. Đó là pháp ṭhứ năm, khiến vua không tồn tạilâu dài.
“Lạinữa, quốc vương tham đắm sắc đẹp của người, xa lánhvợ của mình. Đó là quốc vương thành tựu pháp thứ sáu,không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương ưa uống rượu mà không lý đoán quan sự.Đó là thành tựu pháp thứ bảy, không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương ưa thích ca múa, hý, nhạc, mà không lý đoánquan sự. Đó là pháp thứ tám, không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương hằng mang bệnh tật, không có ngày nào khỏemạnh. Đó là pháp thứ chín, không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương không tin bề tôi trung hiếu, lông cánh yếuớt, không có người phò tá mạnh. Đó là quốc vương thànhtựu pháp thứ mười, không tồn tại lâu dài.
“Ởđây, chúng Tỳ kheo cũng vậy, nếu thành tựu mười pháp,công đức gốc rễ thiện không tăng trưởng, thân hoại mạngchung sinh vào địa ngục. Mười pháp ấy là gì?
“Ởđây, Tỳ kheo không trì cấm giới, cũng không có tâm cung kính.Đó là Tỳ kheo thành tựu pháp thứ nhất, không cứu cánhđạt đến nơi phải đạt đến.
“Tỳkheo không thừa sự Phật, không tin lời nói chân thật. Đólà Tỳ kheo thành tựu pháp thứ hai, không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, Tỳ kheo không thừa sự Pháp, các giới luật bị khuyếtthủng. Đó là Tỳ kheo thành tựu pháp thứ ba, không tồn tạilâu dài.
“Lạinữa, Tỳ kheo không thừa sự Thánh chúng, tâm ý hằng tựty, không tin lời dạy của chúng. Đó là Tỳ kheo thành tựupháp thứ tư, không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, Tỳ kheo tham đắm lợi dưỡng, tâm không buông bỏ. Đólà Tỳ kheo thành tựu pháp thứ năm, không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, Tỳ kheo không học hỏi nhiều, không siêng năng đọctụng, ôn tập. Đó là Tỳ kheo thành tựu pháp thứ sáu, khôngtồn tại lâu dài.
“Lạinữa, Tỳ kheo không tùng sự theo thiện tri thức, mà thườngxuyên tùng sự theo ác tri thức. Đó là Tỳ kheo thành tựupháp thứ bảy, không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, Tỳ kheo hằng ưa bận rộn công viêc, không thích tọathiền. Đó là Tỳ kheo thành tựu pháp thứ tám, không tồntại lâu dài,
“Lạinữa, Tỳ kheo [778a] ham thích toán số, bỏ đạo chạy theothế tục, không học tập chánh pháp. Đó là Tỳ kheo thànhtựu pháp hứ chín, không tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, Tỳ kheo không ưa tu phạm hạnh, tham đắm bất tịnh.Đó là Tỳ kheo có pháp thứ mười, không tồn tại lâu dài.
“Đólà, Tỳ kheo thành tựu mười pháp này nhất định đọa baác đạo, không sinh vài chỗ lành.
“Nếuquốc vương thành tựu mười pháp thì sẽ được tồn tạilâu dài ở đời. Những gì là mười?
“Quốcvương không tham đắm tài vật, không nổi thịnh nộ, cũngkhông vì chuyện nhỏ mà sinh tâm thù oán. Đó là pháp thứnhất khiiến được tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc hằng nghe lời can gián của quần thần, không nghịchlời của họ. Đó là thành tựu pháp thứ hai thì được tồntại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương thường ưa huệ thí, cùng chung vui với dân.Đó pháp thứ ba khiến cho tồn tại lâu dài.[42]
“Lạinữa, quốc vương trưng thu tài vật hợp pháp chứ không phảiphi pháp. Đó là pháp thứ tư khiến tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương kia không tham đắm sắc người khác, hằngtự thủ hộ với vợ của mình. Đó là thành tựu pháp thứnăm khiến tồn tại lâu lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương không uống rượu, tâm không hoang loạn.Đó là thành tựu pháp thứ sáu, khiến tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương không cười giỡn, mà hàng phục kẻ thùbên ngoài. Đó là thành tựu pháp thứ bảy, tồn tại lâudài.
“Lạinữa, quốc vương vương y theo pháp mà trị hóa, không bao giờbẻ cong. Đó là thành tựu pháp thứ tám, tồn tại lâu dài.
“Lạinữa, quốc vương cùng với quần thần hòa thận, không cótranh chấp. Đó là thành tựu pháp thứ chín, tồn tại lâudài,
“Lạinữa, quốc vương không có bệnh hoạn, khí lực cường thịnh.Đó là pháp thứ mười, khiến tồn tại lâu dài.
“Nếuquốc vương thành tựu mười pháp này sẽ được tồn tạilâu dài, không có gì lo ngại.
“ChúngTỳ kheo cũng vậy, nếu thành tự mười pháp, chỉ trong khoảnhkhắc như co duỗi liền được sinh lên trời. Những gì làmười?
“Ởđây, Tỳ kheo thọ trì giới cấm, giới đức đầy đủ, khôngphạm chánh pháp. Đó là Tỳ kheo thành tựu pháp hứ nhấtnày khi thân hoại mạng chung sinh vào chỗ lành, sinh lên trời.
Lạinữa, Tỳ kheo có tâm cung kính đối với Như Lai. Đó là Tỳkheo thành tựu pháp thứ hai, được sinh vào chỗ lành.
“Lạinữa, Tỳ kheo thuận tùng giáo pháp, không một điều vi phạm.Đó là Tỳ kheo thành tựu pháp thứ ba, được sinh vào chỗlành.
“Lạinữa, Tỳ kheo [778b] cung phụng Thánh chúng, không có tâm biếngnhác. Đó là thành tựu pháp thứ tư, được sinh lên trời.
“Lạinữa, Tỳ kheo thiểu dục, tri túc, không say đắm lợi dưỡng.Đó là Tỳ kheo có pháp thứ năm, được sinh lên trời.
“Lạinữa, Tỳ kheo không làm theo tự ý mà hằng tùy thuận giớipháp. Đó là thành tựu pháp thứ sáu, được sinh vào chỗlành.
“Lạinữa, Tỳ kheo không mê đắm công viêc bận rộn, thường ưatọa thiền. Đó là thành tựu pháp thứ bảy, được sinh lêntrời.
“Lạinữa, Tỳ kheo ưa chỗ nhàn tĩnh, không ưa sống giữa nhângian. Đó là thành tựu pháp thứ ṭám, được sinh vào chỗlành.
“Lạinữa, Tỳ kheo không tùng sự theo ác tri thức, mà thường tùngsự theo thiện tri hức. Đó là thành tựu pháp thứ chín, đượcsanh vào chỗ lành.
“Lạinữa, Tỳ kheo thường tu phạm hành, xa lìa ác pháp, nghe nhiều,học nghĩa, không để mất thứ ṭự. Như vậy Tỳ kheo thànhtựu mười pháp, trong khoảnh khắc như co duỗi cánh tay, sinhvào chỗ lành, sinh lên trời.
“Đólà, mười phi pháp hành khiến vào địa ngục, hãy nên bỏtránh xa. Mười chánh pháp hành, hãy nên cùng vâng tu tập.
“Tỳkheo, hãy học điều này như vậy.”
Bấygiờ các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 8[43]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật ở tai thành La-duyệt, trong Ca-lan-đà Trúc viên,cùng với chúng đại Tỳ kheo 500 vị.
Bấygiờ, số đông Tỳ kheo, khi đến giờ, khóac y, cầm bát, vàothành La-duyệt khất thực. Khi ấy, số đông Tỳ kheo nghĩnhư vầy: “Chúng ta vào thành khất thực, nhưng còn quá sớm.Chúng ta hãy đến chỗ ngoại đạo dị học để cùng luậnnghị.” Rồi chúng Tỳ kheo đi đến chỗ ngoại đạo dịhọc.
Khicác ngoại đạo tháy các sa-môn đến, bảo nhau rằng: “Cácbạn hãy giữ im lặng, chớ nói lớn tiếng. Đệ tử củaSa-môn Cù-đàm đang đi đến đây. Pháp của sa-môn ca ngợinhững người im lặng. Chớ để họ biết chánh pháp củachúng ta loạn hay không loạn.”
Bấygiờ, số đông các Tỳ kheo đi đến chỗ ngoại đạo dịhọc, sau khi chào hỏi nhau, ngồi xuống một bên. Khi ấy, cácngoại đạo hỏi các Tỳ kheo:
“Sa-mônCù-đàm của các ông dạy các đệ tử bằng diệu pháp này,rằng ‘Này các Tỳ kheo, hãy thấu suốt hết thảy các pháp,và hãy ṭự mình an trú.[44]” Phải vậy chăng? Chúng tôicũng dạy [778c] các đệ tử diệu pháp này để tự an trú.Những điều tôi nói có gì khác với các ông, có gì sai biệt?Thuyết pháp, giáo giới cùng như nhau, không có gì khác.”
Sốđông các Tỳ kheo, sau khi nghe những điều ngoại đạo nói,không khen hay, cũng không chê dỡ, bèn rời chỗ ngồi đứngdậy mà bỏ đi.
Sauđó, các Tỳ kheo bảo nhau: “Chúng ta hãy đem nghĩa lý nàyđến bạch Thế Tôn. Nếu Như Lai có dạy điều gì, chúngta sẽ ghi nhớ mà phụng hành.”
Rồisố đông các Tỳ kheo, sau khi vào thành La-duyệt khất thực,trở về trong phòng, cất y bát, đi đến Thế Tôn, cúi đầulạy dưới chân, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy số đôngcác Tỳ kheo đem duyên sự trước đó kể hết với Như Lai.
Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“Saukhi các ngoại đạo dị học kia hỏi nghĩa này, các ngươihãy trả lời bằng những lời này: luận một điều, nghĩamột điều, diễn một điều; cho đến, luận mười, nghĩamười, diễn mười.[45] Khi nói lời này có ý nghĩa gì, cácngươi mang lời này đến hỏi, những người kia sẽ khôngthể trả lời. Các ngoại đạo do thế càng tăng thêm ngu hoặc.Vì sao vậy? Vì không phải là cảnh giới của họ. Cho nên,Tỳ kheo, Ta không thấy có Trời, Người, Ma hoặc Ma thiên,Đế Thích, Phạm thiên vương, mà có thể trả lời đượcđiều đó, trừ Như Lai và đệ tử của Như Lai nghe từ Tanói, điều này không luận đến.
“Luậnmột, nghĩa một, diễn một; Ta tuy đã nói ý nghĩa này, nhưngdo đâu mà nói? Hết thảy chúng sinh do thức ăn mà tồn tại;không thức ăn thì chết. Tỳ kheo đối với pháp ấy mà bìnhđẳng nhàm tởm, bình đẳng giải thoát, bình đẳng quán sát,bình đẳng phân biệt ý nghĩa của nó, bình đằng chấm dứtbiên tế khổ;[46] đồng một nghĩa, không hai’ [47]điều màTa nói, chính xác là như vậy.
“Nghĩamột, luận một, diễn một, cho đến luận mười, nghĩa mười,diễn mười;[48] Ta tuy đã nói ý nghĩa này, nhưng do đâu mànói? Danh và sắc. Danh là gì? Thọ*, tưởng, niệm, xúc*, tưduy; đó là danh. Cái kia sao gọi là sắc? Bốn đại, và sắcdo bốn đại tạo; đó gọi là sắc, do duyên bởi căn bảnnày mà nói là sắc. Luận hai, nghĩa hai, diễn hai, do bởi nhânduyên này mà Ta nói đến. Tỳ kheo bình đẳng nhàm tởm, bìnhđẳng giải thoát, bình đẳng quán sát, bình đẳng phân biệtý nghĩa của nó, bình đằng chấm dứt biên tế khổ.
“Luậnba, nghĩa ba, diễn ba; do đâu mà nói [779a] nghĩa này? Do ba thọ*Những gì là ba? Khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạcthọ. Vì sao được nói là lạc thọ? Trong tâm có ý tưởnglạc, cũng không phân tán; đó gọi là lạc thọ. Vì sao đượcnói là khổ thọ? Trong tâm mê loạn không định tĩnh chuyênnhất, tư duy với nhiều ý tưởng khác nhau; đó gọi là khổthọ.[49] Thế nào là cảm thọ không khổ không lạc? Ý tưởngkhông khổ không lạc trong tâm, lại không phải là chuyên nhấtđịnh tĩnh, cũng không phải loạn tưởng, cũng không tư duypháp và phi pháp, hằng tự tịch mặc, tâm không có ghi nhậngì; đó gọi là cảm thọ không khổ không lạc. Tỳ kheo bìnhđẳng nhàm tởm, bình đẳng giải thoát, bình đẳng quán sát,bình đẳng phân biệt ý nghĩa của nó, bình đẳng chấm dứtbiên tế khổ. Luận ba, nghĩa ba, diễn ba, điều mà Ta nói,chính xác là như vậy.
“Luậnbốn, nghĩa bốn, diễn bốn; do đâu mà nói nghĩa này? Đólà bốn đế.[50] Những gì là bốn? Thánh đế Khổ, Tập,Tận, Đạo. Vì sao được gọi là Thánh đế Khổ? Sinh khổ,già khổ, bệnh khổ, chết khổ, lo, buồn, não khổ, oán ghétgặp nhau khổ, ân ái biệt ly khổ, ước muốn không đượckhổ.[51] Vì sao được gọi là Thánh đế Tập? Căn bản áicùng với dục tương ưng.[52] Vì sao được gọi là Thánh đếKhổ tận? Ái kia vĩnh viễn đoạn tận không còn tàn dư cũngkhông tái sinh khởi; đó gọi là Khổ tận đế. Vì sao đượcgọi là Thánh đế Khổ xuất yếu? Đó là tám phẩm đạocủa Hiền Thánh: chánh kiến, chánh tri, chánh ngữ, chánh mạng,chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh tam-muội; đólà đạo có tám phẩm. Tỳ kheo bình đẳng nhàm tởm, bìnhđẳng giải thoát, bình đẳng quán sát, bình đẳng phân biệtý nghĩa của nó, bình đằng chấm dứt biên tế khổ. Đólà luận bốn, nghĩa bốn, diễn bốn, điều mà Ta nói, chínhxác là như vậy.
“Luậnnăm, nghĩa năm, diễn năm; do đâu mà nói nghĩa này? Đó lànăm căn.[53] Những gì là năm? Căn tín, căn tinh tấn, căn niệm,căn định, căn huệ. Thế nào là căn tín? Hiền Thánh đệtử tin đạo pháp của Như Lai, rằng Như Lai là bậc Chí chân,Đẳng chánh giác, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải,Vô thượng sỹ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, hiệuPhật Thế Tôn, xuất hiện ở đời. Đó gọi là căn tín.Thế nào là căn tinh tấn? Thân, tâm, ý tinh cần không mệtmỏi; diệt [779b] pháp bất thiện, tăng ích pháp thiện, hằngchấp trì tâm; đó là căn tinh tấn. Thế nào là căn niệm?Tụng tập không quên, hằng giữ trong tâm, ghi nhớ không thấtlạc, pháp hữu vi vô lậu không bao giờ bị mất; đó là cănniệm. Thế nào là căn định? Trong tâm không động loạn,không có các tưởng sai biệt, hằng chuyên tinh nhất ý; đólà căn tam-muội. Thế nào là căn trí tuệ? Biết Khổ, biếtTập, biết Tận, biết Đạo; đó là căn trí tuệ. Đó lànăm căn. Tỳ kheo ở trong đó mà bình đẳng giải thoát, bìnhđẳng phân biệt ý nghĩa ấy, bình đằng chấm dứt biên tếkhổ. Đó là luận năm, nghĩa năm, diễn năm, điều mà Ta nói,chính xác là như vậy.
“Luậnsáu, nghĩa sáu, diễn sáu; do đâu mà nói nghĩa này? Đó làsáu trọng pháp.[54] Sáu ấy là gì? Ở đây, Tỳ kheo thườngxuyên hành từ tâm bởi thân, hoặc ở chỗ vắng vẻ, hoặcở trong phòng, tâm thường như một,[55] đáng tôn, đáng quý,đưa đến hòa hiệp. Đây là pháp tôn trọng thứ nhất củaTỳ kheo. Lại nữa, hành từ tâm nơi miệng, không khởi ganhtị oán ghét, đáng kính, đáng quý; đó là pháp tôn trọngthứ hai. Lại nữa, nếu được lợi dưỡng đúng pháp, chođến còn dư trong bình bát, đều đem chia cho các bạn đồngphạm hạnh, tâm bình đẳng mà cho; đó là pháp tôn trọngthứ tư, đáng kính, đáng quý. Lại nữa, phụng trì cấm giớikhông có điều rơi rớt, giới mà bậc hiền trí qúy trọng;đó là pháp tôn trọng thứ năm, đáng kính, đáng quý. Lạinữa, chánh kiến mà Hiền Thánh được xuất yếu, đến chỗchấm dứt khổ tế, ý không tạp loạn, cùng tu hành với cácđồng phạm hạnh pháp ấy; đó là pháp tôn trọng thứ sáu,đáng kính, đáng quý. Bấy giờ Tỳ kheo bình đẳng nhàm tởm,bình đẳng giải thoát, bình đẳng phân biệt ý nghĩa ấy,bình đằng chấm dứt biên tế khổ. Đó là luận sáu, nghĩasáu, diễn sáu, điều mà Ta nói, chính xác là như vậy.
“Luậnbảy, nghĩa bảy, diễn bảy; do đâu mà nói nghĩa này? Đólà bảy y chỉ xứ của thần thức.[56] Bảy ấy là gì? Hoặccó chúng sinh có nhiều tưởng sai biệt, nhiều thân sai biệt;đó là trời[57] và người. Hoặc có chúng sinh có nhiều thânnhưng một tưởng; đó là trời Phạm-ca-di khi mới thác sinh.[58]Hoặc có chúng sinh một tưởng, một thân; đó là trời Quangâm. [779c] Hoặc có chúng sinh một thân, nhiều tưởng sai biệt;đó là trời Biến tịnh. Hoặc có chúng sinh không xứ vô lượng;đó là trời Không xứ. Hoặc có chúng sinh thức xứ vô lượng;đó là trời Thức xứ. Hoặc có chúng sinh vô sở hữu xứvô lượng; đó là trời Vô sở hữu xứ. Hoặc có chúng sinhphi tưởng phi phi tưởng vô lượng; đó là trời Phi tưởngphi phi tưởng.[59] Đó là bảy y chỉ xứ của thần (thức).Ở đó, Tỳ kheo bình đẳng giải thoát, cho đến, bình đằngchấm dứt biên tế khổ. Đó là luận bảy, nghĩa bảy, diễnbảy, điều mà Ta nói, chính xác là như vậy.
“Luậntám, nghĩa tám, diễn tám; do đâu mà nói nghĩa này? Đó làtám pháp thế gian,[60] tùy theo đời mà xoay chuyển. Tám ấylà gì? Đắc, thất, vinh, nhục, khen, chê, khổ, lạc.[61] Đólà ṭám pháp thế gian, tùy theo đời mà xoay chuyển. Tỳ kheotrong đó bình đẳng giải thoát, cho đến, bình đằng chấmdứt biên tế khổ. Đó là luận tám, nghĩa tám, diễn tám,điều mà Ta nói, chính xác là như vậy.
“Luậnchín, nghĩa chín, diễn chín; do đâu mà nói nghĩa này? Đólà chín cư xứ của chúng sinh.[62] Những gì là chín? Hoặccó chúng sinh có nhiều tưởng sai biệt, nhiều thân sai biệt;đó là trời và người. Hoặc có chúng sinh có nhiều thânnhưng một tưởng; đó là trời Phạm-ca-di khi mới thác sinh.Hoặc có chúng sinh một tưởng, một thân; đó là trời Quangâm. Hoặc có chúng sinh một thân, nhều tưởng sai biệt; đólà trời Biến tịnh. Hoặc có chúng sinh không xứ vô lượng;đó là trời Không xứ. Hoặc có chúng sinh thức xứ vô lượng;đó là trời Thức xứ. Hoặc có chúng sinh vô sở hữu xứvô lượng; đó là trời Vô sở hữu xứ. Hoặc có chúng sinhphi tưởng phi phi tưởng vô lượng; đó là trời Phi tưởngphi phi tưởng. Vô tưởng chúng sinh và các loài thọ sanh khác,đó là chín y chỉ xứ của thần (thức). Tỳ kheo trong đóbình đẳng giải thoát, cho đến, bình đằng chấm dứt biêntế khổ. Đó là luận chín, nghĩa chín, diễn chín, điềumà Ta nói, chính xác là như vậy.
“Luậnmười, nghĩa mười, diễn mừơi; do đâu mà nói nghĩa này?Đó là mười niệm.[63] Những gì là mười? Niệm Phật, niệmPháp, niệm Tăng Tỳ kheo, niệm giới, niệm thí, niệm thiên,niệm chỉ tức, niệm an-ban, niệm thân, niệm sự chết. Tỳkheo trong đó bình đẳng giải thoát, cho đến, bình đằngchấm dứt biên tế khổ. Đó là luận mười, nghĩa mười,diễn mười, điều mà Ta nói, chính xác là như vậy.
“Nhưvậy, Tỳ kheo, tỳừ một cho đến mười.
[780a]“Tỳ kheo, nên biết, nếu ngoại đạo dị học mà nghe nhữnglời này, còn chưa dám nhìn kỹ vào sắc mặt, huống nữalà trả lời. Tỳ kheo nào hiểu rõ được nghĩa này, ở ngaytrong hiện pháp, là người tối tôn đệ nhất.
“Lạinữa, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nào tư duy nghĩa này, cho đến mườinăm, nhất định thành tựu hai quả: hoặc A-la-hán, hoặc A-na-hàm.
“Tỳkheo, hãy bỏ qua mười năm; nếu trong một năm mà tư duy nghĩanày, ắt thành tựu hai quả, trọn không nửa chừng thoái thất.
“Tỳkheo, hãy bỏ qua một năm. Trong chúng bốn bộ, trong mườitháng, cho đến một tháng, ai tư duy nghĩa này, ắt thành tựuhai quả, cũng không nửa chừng thoái thất.
“Vã,hãy bỏ qua một tháng. Ai trong chúng bốn bộ bảy ngày tưduy nghĩa này ắt thành tựu hai quả, quyết không nghi ngờ.
Khiấy A-nan ở sau Thế Tôn cầm quạt quạt Phật. Bấy giờ A-nanbạch Phật:
“ThếTôn, pháp này cực kỳ sâu thẳm. Ở địa phương nào có phápnày, nên biết ở đó gặp được Như Lai. Kính bạch ThếTôn, pháp này tên gọi là gì? Nên phụng hành như thế nào?”
Phậtbảo A-nan:
“Kinhnày có tên là Nghĩa của pháp Mười. Hãy ghi nghớ phụng hành.”
Bấygiờ A-nan và các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy hoan hỷphụng hành.
KINHSỐ 9[64]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:
“Nhữngai tu hành mười tưởng, sẽ diệt tận các lậu, đạt đượcthần thông, tự thân tác chứng, dần dần đạt đến Niết-bàn.Những gì là mười? Tưởng xương trắng, tưởng bầm tím,tưởng sình chương, tưởng ăn không tiêu,[65] tưởng huyết,tưởng nhai cắn,[66] tưởng thường vô thường, tưởng thamthực, tưởng sự chết, tưởng tất cả thế gian không cógì lạc.[67] Đó là mười tưởng mà Tỳ kheo tu tập sẽ diệttận các lậu, đạt đến Niết-bàn giới.
“Lạinữa, Tỳ kheo, trong mười tưởng này, tưởng tất cả thếgian không có gì đáng ham thích thích là tối đệ nhất. Vìsao vậy? Người tu hành về sự không có gì đáng ham thích,và người thọ trì, tín phụng pháp; hai hạng người này tấtvượt bực mà thủ chứng. Cho nên, Tỳ kheo, hãy ngồi dướigốc cây, nơi chỗ vắng vẻ, giữa trời trống, tư duy mườitưởng này.
“Tỳkheo, hãy học điều này như vậy.”
Bấygiờ các Tỳ kheo nghe những đìeu Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 10
Mộtthời, Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.
Bấygiờ có một Tỳ kheo đi đến Thế Tôn, cúi đầu lạy dướichân, [780b] rồi ngồi xuống một bên.
RồiTỳ kheo này bạch Thế Tôn:
“NhưLai hôm nay dạy các Tỳ kheo pháp mười tưởng. Những ai tuhành có ṭhể đoạn trừ các lậu, thành hạnh vô lậu. ThếTôn, như con thì không có khả năng tu hành các tưởng này.Sở dĩ vì dục tâm của con quá nhiều, thân ý hừng hực khôngthể yên nghỉ.”
Bấygiờ Thế Tôn nói với Tỳ kheo ấy:
“Ngườihãy xả bỏ tưởng về tịnh[68] mà tư duy tưởng về bấttịnh; xả tưởng về thường mà tư duy tưởng về vô thường;xả hữu ngã tưởng mà tư duy vô ngã tưởng, xả khả lạctưởng mà tư duy bất khả lạc tưởng,. Vì sao vậy? NếuTỳ kheo tư duy tịnh tưởng, dục tâm liền hừng hực; nếutư duy bất tịnh tưởng, sẽ không có dục tâm.
“Tỳkheo, nên biết, dục là bất tịnh, như đống phân kia; dụcnhư con sáo bắt chước giọng nói; dục không có đáp trả,lại như rắn độc kia; dục như ảo thuật, như tuyết tandưới nắng. Hãy niệm xả bỏ dục như vất bỏ trong bãithama. Dục trở lại hại mình như rắn chứa chất độc. Dụckhông biết chán như khát mà uống nước mặn. Dục khó đượcthỏa mãn như biển nuốt sông. Dục có nhiều tai họa nhưxóm la-sát. Dục như kẻ thù hãy nên tránh xa. Dục như mộtchút mật ngọt dính trên lưỡi dao. Dục không đáng yêu nhưxương trắng trên đường. Dục hiện ngoại hình như hoa mọctrong nhà xí. Dục không chân thật như bình vẽ kia bên trongchứa đồ hôi thối, bên ngoài trông đẹp đẽ. Dục khôngbền chắc như đống bọt nước. Cho nên, Tỳ kheo, hãy niệmtưởng tránh xa tưởng tham dục. Tỳ kheo, nay ngươi hãy nhớ,xưa ngươi đã phụng hành mười tưởng nơi Phật Ca-diếp.Hôm nay hãy lặp lại tư duy mười tưởng, tâm giải thoátkhỏi hữu lậu.”
Lúcbấy giờ Tỳ kheo ấy buồn rầu rơi lệ không cầm được,tức thì cúi đầu lạy dưới chân Phật, bạch Thế Tôn:
“Vâng,bạch Thế Tôn. Con chất chứa mê hoặc đã lâu. Như Lai tựthân thuyết mười tưởng, con mới có thể xa lìa dục. Naycon xin sám hối, về sau không còn tái phạm. Cúi xin Như Laichấp nhận sự sám hối lỗi lầm nghiêm trọng này; lượngthứ cho điều mà con bất cập.”
Phậtbảo tỳ kheo:
“Tanhận sự sửa lỗi của ông. Hãy chớ tái phạm. Lại nữa,Như Lai đã dạy ông mười tưởng, mà ông không khứng phụngtrì.”
Tỳkheo kia sau khi nghe Thế Tôn giáo giới, sống nơi chỗ nhàntĩnh, ṭự mình khắc kỷ tư duy, vì mục đích mà thiện gianam tử cạo bỏ râu tóc, khóac ba pháp y, tu phạm hạnh vôthượng, ấy là muốn đạt thành sở nguyện, như thật biết,sinh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, điều cần làm đãlàm xong, [780c] không còn tái thọ thai nữa. Bấy giờ Tỳ kheothành A-la-hán.
Bấygiờ các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
Kệtóm tắt
Kếtcấm, Hiền Thánh cư,
Hailực, và Mười niệm,
Thânquốc, không quái ngại,
Mườiluân tưởng, quán ưởng.[69]