Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 45: Mã vương

02/05/201113:07(Xem: 9534)
Phẩm 45: Mã vương

KINH TĂNG NHẤTA HÀM
HánDịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà
Việtdịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: TuệSỹ
(PL.2549- 2005 sửa chữa và bổ sung)

CHÍNPHÁP
45.PHẨMMÃ VƯƠNG

KINHSỐ 1[59]
Nghenhư vậy:

Mộtthời Phật trú tại Ca-lan-đà, Trúc viên, thành La-duyệt, cùngchúng 500 đại Tỳ kheo. Lúc bấy giờ trong thành ấy có mộtngười Bà-la-môn tên là Ma-hê-đề-lợi, rất thông suốt cáckinh thư, kỹ thuật của ngoại đạo. Thiên văn, địa lý,không thứ gì là không thành thạo. Những gì là pháp tắcứng đối trong đời, ông thảy đều thông suốt. Bà-la-mônnày có một người con gái tên là Ý Ái, cực kỳ thông minh,nhan sắc xinh đẹp hiếm có trên đời.

Bấygiờ, người Bà-la-môn này suy nghĩ như vầy: “Trong kinh điểnBà-la-môn có nói rằng, có hai con người xuất hiện ở đời,rất là khó gặp. Hai con người ấy là ai? Đó là, Như Lai,Chí chân, Đẳng chánh giác, và Chuyển luân Thánh vương. KhiChuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, bấy giờ bảybảo vật tự nhiên hưởng ứng. Ta nay có nữ bảo này, nhansắc xinh đẹp lạ lùng; là bậc nhất trong các ngọc nữ.Nhưng nay không có Chuyển luân Thánh vương. Ta nghe nói con traicủa Chân Tịnh Vương tên là Tất-đạt có ba mươi hai tướngtốt của bậc Đại nhân và tám mưới vẻ đẹp, đã xuấtgia học đạo. Nếu người ấy sống tại gia chắc chắn sẽlà Chuyển luân Thánh vương. Nếu xuất gia học đạo, chắcchắn thành Phật. Nay ta hãy đem con gái này đến cho Sa-mônấy.”

Rồingười Bà-la-môn dẫn cô gái đến chỗ Thế Tôn. Trước mặtThế Tôn, [769c] ông thưa rằng:

“MongSa-môn hãy nhận Ngọc nữ này.”

Bấygiờ Phật bảo người Bà-la-môn:

“Thôi,thôi, Phạm chí! Ta không cần đến con người dính trướcdục vọng này.”

NgườiBà-la-môn ba lần thưa với Phật:

“Hãynhận Ngọc nữ này. So sánh cả thế gian, không ai bằng đứacon gái này.”

Phậtbảo Bà-la-môn:

“Tađã thọ nhận ý của ông. Nhưng Ta đã xả bỏ gia đình, khôngcòn quen thói dục vọng nữa.”

Khiấy có một vị Tỳ kheo Trưởng lão đứng sau Như Lai, đangcầm quạt quạt Phật. Trước lão này liền bạch Như Lai:

“ThếTôn! Cúi mong Như Lai thọ nhận cô gái này. Nếu Như Lai khôngcần đến, hãy cho con để sai khiến.”

ThếTôn bèn bảo Trưởng lão này:

“Ngươithật là ngu hoặc, mới dám trước mặt Như Lai phun ra lờinói xấu xa ấy. Sao ngươi lại để cho tâm ý bị buộc chặtvào cô gái này? Phàm là nữ nhân, đều có chín pháp ác. Chínpháp đó là gì? Một, người nữ vốn xú uế, bất tịnh.Hai người nữ hay ác khẩu. Ba, người nữ không biết trảơn. Bốn, người nữ hay ganh tị. Năm, người nữ hay keo kiệt.Sáu, người nữ hay ưa đi chơi. Bảy, người nữ có nhiềusân hận. Tám, người nữ nói dối nhiều. Chín, người nữhay nói lời thiếu suy nghĩ.

“Nàycác Tỳ kheo người nữ có chín pháp là các hành xấuxa như vậy.”

Rồiđức Thế Tôn nói bài kệ này:

Thườngvui cười, khóc lóc;

Vẻthân mà không thân.

Hãytìm phương tiện khác.

Cácngươi chớ loạn niệm.

Tỳkheo Trưởng lão bạch Phật:

“Mặcdù người nữ có chín pháp xấu xa ấy; nhưng ở đây con quánsát cô gái này, không thấy có tỳ vết gì.”

Phậtbảo Tỳ kheo:

“Ngươi,kẻ ngu si này, không tin điều được nói bởi chính thầnkhẩu của Như Lai sao? Nay Ta sẽ nói cho ngươi biết:

“Trongquá khứ lâu xa, trong thành Ba-la-nại có một người lái buôntên là Phổ Phú. Ông dẫn năm trăm khách buôn đi vào biểntìm châu báu. Thế nhưng bên cạnh biển lớn kia có nơi vốnlà trú xứ của La-sát hay ăn thịt người.

“Khiấy trong biển nổi gió, thổi thuyền của họ đến bộ La-sátkia. Các La-sát thấy bọn khách buôn đến thì vui mừng khônkể. Chúng ẩn hình La-sát, biến thành người nữ, xinh đẹpkhông không thể sánh, rồi nói với các khách buôn: ‘Chàomừng các bạn đến đây. Bến bảo vật vật này không khácgì Thiên cung kia, có nhiều trân bảo đến hằng nghìn trămloại; có đủ các thứ đồ ăn thức uống; lại có các côgái xinh đẹp, [770a] thảy đều không chồng. Các bạn hãyở đây vui thú với chúng tôi.”

“Tỳkheo, nên biết, trong bọn khách buôn kia những kẻ ngu hoặckhi thấy các cô gái liền móng tâm say đắm. Thương chủ PhổPhú liền suy nghĩ như vầy, ‘Trong biển lớn này là chỗở của loài phi nhân, làm sao có các cô gái này ở đó? Đấynhất định là La-sát, không nghi ngờ gì nữa.’ Rồi vịthương chủ bảo cô gái ấy, ‘Thôi đủ rồi, các cô em!Chúng tôi không tham nữ sắc.’

“Thờibấy giờ vào các ngày thứ tám, thứ mười bốn và mườilăm mỗi nửa tháng, Mã vương bay vòng trong hư không nói lờirăn dạy này: ‘Ai muốn vượt qua hiểm nạn của biển lớn,ta sẽ chở qua.’ Trong khi ấy vị thương chủ kia leo lên câycao trong thấy Mã vường ở đằng xa, nghe tiếng dội củaâm thanh, hoan hỷ phấn khới khôn xiết. Ông đi đến chỗMã vương, nói rằng, ‘Chúng tôi gồm có năm trăm khách buôn bị gió thổi đến chỗ cực kỳ hiểm nạn này. Chúng tôimuốn vượt qua biển. Xin ngài giúp vượt qua.’ Mã vươngbảo các khách buôn, ‘Các ông hãy lại hết đây. Tôi sẽmang các ông đến bờ biển.’ Thương chủ Phổ Phú bèn bảocác khách buôn, ‘Mã vương đang ở gần đây. Vúng ta tấtcả hãy đến chỗ đó để cùng vượt qua hiểm nạn củabiển.’ Bọn khach buôn nói, ‘Thôi, thôi, ông Chủ. Chúngta tốt hơn nên ở lại đây mà cùng hưởng vui thú. Sở dĩở tại Diêm-phù đề phải cần lao khổ nhọc nên chúng tađi tìm chỗ sung sướng. Chốn này có đủ bảo vật trân kỳ,cùng ngọc nữ xinh đẹp. Nên ở lại đây mà hưởng thụnăm thứ dục lạc. Những ngày tiếp theo, chúng ta thâu thậptài bảo hàng hóa dân rồi sẽ cùng nhau vượt qua hiểm nạnnày.’ Vị đại thương chủ nói với mọi người, ‘Thôiđủ rồi, các người ngu si. Ở đay không có nữ nhân đâu.Trong biển cả làm gì có chỗ ở của loài người.’ Bọnkhách buôn nói, ‘Hãy thôi đi, ông Chủ. Chúng tôi không thểbỏ chỗ này mà đi được.’

“Bấygiờ Thương chủ Phổ Phú bèn nói bài kệ rằng:

Chúngta gặp chốn hiểm

Chớtưởng là nam hay nữ

Đólà bọn La-sát

Sẽăn dần chúng ta.

“– Nếu các bạn không đi theo tôi, các bạn hãy bảo bọclấy nhau. Nếu tôi có điều gì xúc phạm do bởi thân, miệng,ý, mong các bạn bỏ qua cho, chớ để trong lòng.’ Các kháchbuôn khi ấy cũng nói bài kể để chia tay:

Chúngtôi gởi lời thăm

Bàcon tại Diêm-phù.

[770b] Nay vui thú chốn này

Chưarõ ngày về quê.

“Vịthương chủ đáp lại bằng bài kệ:

Cácbạn đang lâm nạn;

Mêhoặc, không chịu về.

Nhưvày, không bao lâu,

Bịquỷ ăn thịt hết.

“Nóikệ xong, ông bỏ đi. Đến chỗ Mã vương, ông cúi đầu lạydưới chân, rồi cưỡi đi. Bọn người kia sau khi từ xa thấythương chủ đã cưỡi Mã vương đi rồi, trong số đó hoặccó người kêu réo, hoặc có người lớn tiếng hờn trách,trong khi ấy. Chúa tể đại La-la-sát nói với các La-sát bằngbài kệ này:

Đãrơi miệng sư tử,

Thóatra thật quá khó.

Huốnggì vào bãi ta,

Muốnra, thật quá khó.

“Bấygiờ, Chúa tể La-sát hóa làm một người con gái cực kỳxinh đẹp, lấy hai tay chỉ vào bụng mà nói, ‘Nếu ta chẳngăn thịt ngươi thì ta rốt lại không làm La-sát.’

“Tronglúc đó, Mã vương chở thương chủ vượt qua bờ biển bênkia; năm trăm khách buôn còn lại thảy đều bị khốn hết.

“Lúcbấy giờ Vua Phạm-ma-đạt đang cai trị nhân dân trong thànhBa-la-nại. Khi ấy có La-sát đuổi theo sau vị đại thươngchủ, nó rằng, ‘Chao ôi, ta mất chồng rồi.’

“Khithương chủ về đến nhà, La-sát hóa hình ẳm một bé trai,đi đến trước vua Phạm-ma-đạt tâu rằng, ‘Thế gian cóđiều hết sức tai quái, xin hãy trừ diệt cho sạch.’ Vuahỏi, ‘Thế gian có điều tai quái gì mà phải diệt cho sạch?’La-sát tâu, ‘Tôi bị chồng bỏ, mà chẳng có lỗi gì vớichồng cả.’ Phạm-ma-đạt thấy cô gái này cực kỳ xinhđẹp lạ thường, liền nổi tâm niệm say đắm. Ông bảongười nữ, ‘Chồng của Cô là người không có nghĩa nênmới bỏ Cô mà đi.’ Rồi Phạm-ma-đạt khiến người đigọi người chồng đến, hỏi rằng, ‘Có thật ngươi bỏngười vợ xinh đẹp này không?’ Thương chủ đáp, ‘Đólà La-sát chứ không phải người nữ.’ Nữ La-sát lại tâuvua, ‘Người này không có đạo nghĩa làm chồng. Nay đã bỏtôi, lại mắng chửi tôi là La-sát.’ Vua hỏi, ‘Nếu ngươithật sự không cần dùng, ta sẽ thâu nhận.’ Thương chủtâu, ‘Nó là La-sát. Tùy Thánh ý của Vua.’

“Bấygiờ Phạm-ma-đạt liền mang cô gái này để trong thâm cung,thỉnh thoảng tiếp nạp, không để cho giận hờn. Sau đó,[770c] phi nhân La-sát bắt vua mà ăn thịt, chỉ chừalại xương, rồi bỏ đi.

“Tỳkheo, chớ nghĩ là ai khác lạ. Thương chủ lúc đó là Tỳkheo Xá-lợi-phất bây giờ. La-sát lúc đó nay là Tỳ kheo Trưởnglão vậy. Mã Vương lúc nay chính là Ta. Năm trăm khách buônlúc bấy giờ nay là năm trăm Tỳ kheo. Bằng phương tiện nàymà biết rằng, dục là vọng tưởng bất tịnh. Vây mà ôngcòn khởi lên ý tưởng say đắm sao?’

Bấygiờ ỳ khẻo ấy liền lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:

“ThếTôn, cúi xin nhận sự sám hối và tha thứ lỗi lầm nghiêmtrọng này của con. Từ nay trở đi, con không còn dám tái phạm.”

Tỳkheo này sau khi nhận lời răn dạy của Như Lai bèn một minhở tại chỗ nhàn tĩnh khắc kỷ tu tập. Sở dĩ thiện namtử siêng năng tu hành là mmuốn đạt được Phạm hạnh vôthượng. Bấy giờ Tỳ kheo ấy thành A-la-hán.

Bấygiờ, các Tỳ kheo sau kho những điều Phậy dạy, hoan hỷ phụnghành.

KINHSỐ 2[60]
Tôinghe như vầy:

Mộtthời, Phật trú tại Thích-kiều,[61] trong vườn trái cây Ám-bà-lêquả,[62] cùng với chúng đại Tỳ kheo 500 vị.

Bấygiờ Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Mục-kiền-liên, sau khitọa hạ ở đó, dẫn 500 Tỳ kheo đi du hóa trong nhân gian;lần hồi đi đến trong một ngôi làng của Thích-kiều.*

Khiấy các Tỳ kheo mới đến và các Tỳ kheo đã trú ở đócùng bàn luận, cùng thăm hỏi nhau, cao giọng lớn tiếng. ThếTôn nghe các ỳ kheo cao giọng lớn tiếng, bèn hỏi A-nan:

“Trongkhu vườn này, tiếng của ai mà vang lớn thế? Giống như tiếngcây, đá gãy, vỡ.”

A-nanbạch Phật:

“NayXá-lợi-phất và Mục-kiền-liên dẫn 500 Tỳ kheo đến đây.Các Tỳ kheo mới đến và các Tỳ kheo cũ ở đây chào hỏinhau nên có tiếng ồn ấy.”

Phậtbảo A-nan:

“Ônghãy đuổi Tỳ kheo Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đi chỗkhác ngay. Chớ có trú ở đó.”

A-nanvâng lời Phật dạy, đi đến chỗ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên,bảo họ rằng:

“ThếTôn có dạy, các Thầy hãy mau rời khỏi đây; chớ có trúnơi này.”

Xá-lợi-phấtđáp:

“Thưavâng! Kính vâng lời dạy.”

RồiXá-lới-phất và Mục-kiền-liên tức thì rời khỏi khu vườnấy, dẫn 500 Tỳ kheo bước lên đường mà đi.

Lúcbấy giờ những người họ Thích nghe Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liênbị Phật đuổi, liền đi đến chỗ Tỳ kheo Xá-lợi-phấtvà Mục-kiền-liên [771a], cúi đầu lạy dưới chân, và bạchXá-lợi-phất rằng:

“CácHiền giả, nay muốn đi đâu?”

Xá-lợi-phấtđáp:

“Chúngtôi bị Như Lai đuổi, đang đi tìm chỗ an nghỉ.”

Nhữngngười họ Thích bạch Xá-lợi-phất:

“Thưacác Hiền giả, các ngài hãy chờ đây một lát. Chúng tôisẽ đến sám hối với Như Lai.”

Rồinhững người họ Thích đi đến chỗ đức Thế Tôn, cúi đầulạy dưới chân Phật, rồi bạch Phật rằng:

“Cúixin Thế Tôn tha thứ lỗi lầm cho các Tỳ kheo ở xa đến.Cúi xin Thế Tôn tùy thời thích hợp răn dạy những vị mớihọc đạo trong các Tỳ kheo từ xa đến ấy. Những ngườimới vào trong Chánh pháp chưa được nhìn thấy Tôn nhan dễsinh tâm biến đổi thóai thất. Giống như chồi non mà khôngđược tưới nhuần thì không thể phát triển. Các Tỳ kheonày cũng vậy. Họ chưa được nhìn thấy Như Lai mà phảibỏ đi, e rằng tâm sẽ bị biến đổi thoái thất.”

Khiấy Phạm thiên vương biết được những điều suy nghĩ trongtâm của Như Lai, trong khoảng khắc như lực sỹ co duổi cánhtay, biến mất khỏi cõi Phạm thiên, hiện đến chỗ Như Lai,cúi lạy dưới chân rồi đứng sang một bên. Bấy giờ Phạmthiên vương bạch Phật rằng:

“Cúixin Thế Tôn tha thứ những lỗi lầm mà các Tỳ kheo xa đếnđã gây ra, tùy thời thích hợp mà răn dạy. Trong số đóhoặc có vị chưa đạt đến cứu cánh, sẽ sanh tâm biếnđổi thoái thất. Những ai chưa được nhìn thấy dung mạocủa Như Lai, tâm ý bị biến đổi, họ sẽ quay trở về nghiệpcũ. Cũng như con nghé mới sinh mà mất mẹ, nó buồn rầu,bỏ ăn. Ở đây cũng vậy, nếu Tỳ kheo tân học mà khôngđược nhìn thấy Như Lai, chắc sẽ rời bỏ Chánh pháp này.”

Bấygiờ Thế Tôn nhận lời can gián của những người họ Thích,và thí dụ nghé con của Phạm thiên vương. Rồi Thế Tôn quayliếc nhìn A-nan, A-nan nghĩ rằng, “Như Lai đã chấp nhậnlời can gián của mọi người và của Phạm thiên vương.”A-nan bèn vội đi đến chỗ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liênmà nói như vầy:

“NhưLai muốn gặp chúng Tăng. Trời và người thảy đều bày tỏnghĩa lý này.”

Xá-lợi-phấtbảo các Tỳ kheo:

“Cácthầy hãy thâu thập y, bát. Chúng ta cùng đi đến chỗ ThếTôn. Bởi vì Như Lai đã chấp nhận cho chúng ta sám hối.”

RồiXá-lợi-phất và Mục-kiền-liên dẫn 500 Tỳ kheo đi đếnchỗ Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân, rồi ngồi xuốngmột bên.

ĐứcPhật hỏi Xá-lợi-phất:

“Tavừa rồi đuổi Tăng Tỳ kheo đi. Ý ông nghĩ sao?”

Xá-lợi-phấtđáp:

“Vừarồi Như Lai đuổi chúng Tăng đi, con [771b] suy nghĩ như vầy,‘Như Lai ưa sống nơi chỗ nhàn tĩnh, một mình, vô vi, khôngưa chỗ ồn ào. Do đó mà đuổi chúng Tăng đi vậy.”

Phậtbảo Xá-lợi-phất:

“Sauđó ông suy nghĩ gì? Khi ấy Thánh chúng sẽ do ai dắt dẫn?”

Xá-lợi-phấtbạch Phật:

“ThếTôn, khi ấy con lại suy nghĩ, ‘Ta cũng nên sống một mìnhnơi chỗ nhàn tĩnh, không ở giữa chốn ồn ào.”

Phậtbảo Xá-lợi-phất:

“Chớnói như vậy. Chớ có ý nghĩ như vậy, rằng ‘Ta cũng nênsống một mình nơi chỗ nhàn tĩnh.’ Như nay, người dắtdẫn chúng Tăng há không phải là Tỳ kheo Xá-lợi-phất vàMục-kiền-liên chăng?”

ThếTôn lại hỏi Đại Mục-kiền-liên:

“KhiTa đuổi chúng Tăng đi, ông suy nghĩ gì?”

Mục-kiền-liênbạch Phật:

“KhiNhư Lai đuổi chúng Tăng, con suy nghĩ như vầy, ‘Như Lai muốnđược sống một mình, vô vi, nên đuổi chúng Tăng đi vậy.”

Phậtbảo Mục-kiền-liên:

“Sauđó ông lại có ý nghĩ gì?”

Mục-kiền-liênbạch Phật:

“NayNhư Lai đuổi chúng Tăng đi, chúng con cần phải nhóm họptrở lại, không để cho tan rã.”

Phậtbảo Mục-kiền-liên:

“Lànhthay, Mục-kiền-liên! Lành thay, Mục-kiền-liên! Như điểuông nói. Đứng đầu trong chúngm, duy chỉ Ta và hai ông thôi.Từ nay về sau Mục-kiền-liên hãy dạy bảo các Tỳ kheo hậuhọc, để cho trong lâu dài sống nơi chốn an ổn, không đểcho nửa chừng bị rơi rụng, đọa lạc sinh tử.

“Tỳkheo nào thành tựu chín pháp sẽ không thể phát triển lớnlên ngay trong hiện pháp. Những gì là chín? Thân cận tùngsự với ác tri thức; không sự việc mà hằng ưa đi rong;thường xuyên ôm bệnh lâu dài; ham thích cất chứa tài vật,tham đắm y bát; phần nhiều trống rỗng, hư dối; ý loạnkhông định; không có sự sáng suốt của huệ; không hiểurõ nghĩa lý; không tùy thời thích hợp sám hối. Này Mục-kiền-liên,đó là chín pháp mà Tỳ kheo nào thành tựu thì trong hiệnpháp không thể tăng trưởng lớn mạnh, không được thấmnhuần.

“Cóchín pháp mà Tỳ kheo nào thành tựu thì có thể hoàn tấtnhững điều cần làm. Những gì là chín? Tùng sự với thiệntri thức; tu hành Chánh pháp, không dính mắc nghiệp tà; hằngsống nơi chốn đơn độc, không ưa thích chỗ đông người;ít bệnh, không hoạn; không cất chứa các thứ tài bảo, cũngkhông tham đắm y bát; cần hành tinh tấn; tâm không loạn động;nghe nghĩa lý liền hiểu rõ không cần phải nhắc lại; tùythời thích hợp nghe pháp mà không biết chán. Này Mục-kiền-liên,đó là chín pháp mà Tỳ kheo nào thành tựu thì ngay trong hiệnpháp [771c] được nhiều lợi ích. Cho nên, Mục-kiền-liên,hãy nhớ chuyên cần đi đến dạy dỗ các Tỳ kheo, khiếnhọ trong lâu dài đật đến chỗ vô vi.”

RồiThế Tôn nói bài kệ này:

Thườngniệm tự giác ngộ;

Chớđắm nhiễm phi pháp;

Tutập phải chánh hành;

Vượtđược nạn sinh tử.

Làmvậy, mà được vậy,

Làmđiều này, phước này.

Chúngsinh trôi nổi lâu,

Đoạntrừ già, bệnh, chết;

Khôngtập điều cần làm;

Rồilại hành phi pháp.

Ngườibuông lung như vậy,

Tácthành hành hữu lậu.

Nếucó tâm tinh cần,

Hằngở tại đầu tâm;

Lầnlượt dạy bảo nhau,

Sẽthành bậc vô lậu.

“Chonên, này Mục-kiền-liên, hãy cùng răn dạy các Tỳ kheo nhưvậy; hãy nhớ nghĩ học như vậy.”

RồiThế Tôn nói pháp cực kỳ vi diệu cho các Tỳ kheo, khiếnhọ phát tâm hoan hỷ.

Lúcbấy giờ, các Tỳ kheo sau khi nghe pháp này, trong chúng đócó hơn sáu mươi Tỳ kheo được lậu tận, tâm giải thoát.

CácTỳ kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.

KINHSỐ 3
Tôinghe như vầy:

Mộtthời, Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.

Bấygiờ, Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:

“Nếucó Tỳ kheo sống nương tựa thôn xóm mà pháp thiện tiêu diệt,pháp ác cứ tăng trưởng; Tỳ kheo ấy nên học như vầy: ‘Tanay sống nơi thôn xóm mà pháp ác cứ tăng, pháp thiện giảmdần, niệm không chuyên nhất, không thể dứt sạch các lậu,không đạt đên nơi chốn vô vi an ổn. Những gì mà ta cóđược, như áo, chăn, đồ ăn, thức uống, giường chõng,ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, thảy đều khó nhọc mớithu hoạch được.’ Rồi Tỳ kheo ấy nên học như vầy: ‘Tanay sống trong thôn xóm này, mà pháp ác cứ tăng, pháp thiệnthì tiêu diệt. Ta cũng không phải vì áo, chăn, đồ ăn, thứcuống, giường chõng, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh mà làmSa-môn. Điều mà ta mong cầu ước nguyện nay vẫn chưa cókết quả.’ Tỳ kheo ấy nên rời bỏ thôn xóm ấy mà đi.

“Lạinữa, hoặc có Tỳ kheo sống nương nơi thôn xóm, mà pháp thiệntăng trưởng, pháp ác tiêu diệt. Những gì có được, nhưáo, chăn, đồ ăn, thức uống, giường chõng, ngọa cụ, thuốcmen trị bệnh, thảy đều khó nhọc mới có, Tỳ kheo ấy nênhọc như vầy: ‘Ta nay nương nơi thôn xóm này mà sống, thiệnpháp tăng trưởng, pháp ác [772a] tiêu diệt. Những gì có được,như áo, chăn, đồ ăn, thức uống, giường chõng, ngọa cụ,thuốc men trị bệnh, thảy đều khó nhọc mới có. Nhưng takhông vì áo chăn mà xuất gia học đạo, tu tập phạm hạnh.Điều mà ta mong cầu ước nguyện bởi học đạo ắt sẽthành tựu. Ta hãy trọn đời thừa sự, cúng dường pháp ấy.”

RồiThế Tôn nói bài kệ này:

Áochăn và ẩm thực,

Giườngchõng, và chỗ nghỉ,

Chớmóng tâm tham đắm,

Chớtrở lại đời này.

Khôngphải vì cơm áo

Màxuất gia học đạo.

Ngườisở dĩ học đạo,

Tấtđạt thành sở nguyện.

Tỳkheo nên thích thời

Suốtđời sống thôn kia;

Ởđó bát-niết-bàn

Dứtsạch gốc rễ mạng.

“Ởđây, Tỳ kheo kia hoặc sống giữa nhân gian, thôn xóm nhàntĩnh, mà pháp thiện tăng trưởng, pháp ác tiêu diệt, Tỳkheo ấy nên suốt đời sống tại thôn xóm đó, không nênrời bỏ đi xa.”

Khiấy A-nan bạch Thế Tôn rằng:

“NhưLai há không thường nói, bốn đại y thức ăn mà tồn tại,và y nơi pháp được niệm tưởng trong tâm, các pháp thiệny tâm mà sinh. Vả, Tỳ kheo kia y thôn xóm mà sống, với tinhcần khổ nhọc mới tìm cầu được y phục, thức ăn; vịấy vì sao pháp thiện phát sinh thì sống ở nơi thôn xóm đó,chớ nên bỏ đi xa?”

Phậtbảo A-nan:

“Áochăn, cơm nước, giường chõng và ngọa cụ, thuốc men, đềucó ba loại. Nếu Tỳ kheo chuyên niệm sự cúng dường bốnnhu yếu,[63] mà sở cầu không toại; thì sự y tựa ấy làkhổ. Nếu phát khởi tâm tri túc, không móng tâm tham đắm,chư thiên và loài người thảy đều hoan hỷ. Các Tỳ kheohãy học điều này. Ta vì lý do đó mà nói ý nghĩa này. Chonên, này A-nan, Tỳ kheo hãy chuyên niệm thiểu dục, tri túc.”

Nhưvậy, A-nan nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 4
Tôinghe như vầy:

Mộtthời, đức Phật ở trong vườn Bà-la.[64]

Bấygiờ, đến giờ, đức Thế Tôn khóac y, cầm bát, vào thônBà-la khất thực. Khi ấy Ác ma Ba-tuần suy nghĩ như vầy: ‘NaySa-môn này muốn vào thôn khất thực. Ta hãy tìm cách khiếnđàn ông, đàn bà không bố thí cho.’ Rồi Ác ma Ba-tuần bảonhân dân khắp trong nước chớ bố thí đồ ăn cho Sa-môn Cù-đàm.

KhiThế Tôn vào thôn khất thực, mọi người [772b] đều khôngnói năng gì với Như Lai, cũng không thừa sự cúng dường.Như Lai khất thực xong mà không nhận được gì, bèn trởra khỏi thôn. Lúc bấy giờ Ác ma Ba-tuần đến chỗ NhưLai, hỏi Phật:

“Sa-môn,khất thực xong, có được gì không?”

ThếTôn đáp:

“Dohành vi của Ma mà Ta không nhận được thức ăn. Rồi khôngbao lâu ngươi cũng sẽ nhận lãnh quả báo này. Này Ma, nayhãy nghe Ta nói.

“TrongHiền kiếp, có Phật hiệu là Câu-lâu-tôn Như Lai, Chí chân,Đẳng chánh giác, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải,Vô thượng sỹ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, hiệulà Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời.[65] Lúc bấy giờ đứcPhật ấy cũng nương nơi thôn xóm này mà trú ngụ, dẫn theođồ chúng bốn mươi vạn người. Bấy giờ Ác ma Ba-tuầnsuy nghĩ như vầy: ‘Ta nay hãy khuyến cáo mọi người trongthôn Bà-la đừng cho Sa-môn này đồ ăn. Khi các Thánh chúngkhóac y, cầm bát vào thôn khất thực, nhưng các Tỳ kheo cuốicũng không nhận được gì, bèn trở ra khỏi thôn.

“Lúcbấy giờ, đức Phật kia nói với các Tỳ kheo pháp vi diệunày, ‘Phàm có chín điều để quán sát thức ăn. Bốn lọaithức ăn của nhân gian, và năm loại thức ăn xuất thế gian.Bốn loại thức ăn của nhân gian là gì? Một là đoàn thực;hai là xúc thực; ba là niệm thực; bốn là thức thực. Đólà bốn loại thức ăn của thế gian. Năm loại thức ăn xuấtthế gian là gì? Một thức ăn bởi thiền; hai, thức ăn bởinguyện; ba, thức ăn bởi niệm; bốn, thức ăn bởi tám giảithoát; năm, thức ăn bởi hỷ. Đó là năm loại thức ăn biểuhiện cho thức ăn xuất thế gian. Các ngươi hãy chuyên niệmxả bỏ bốn lọai thức ăn, tìm cầu phương tiện có đượcnăm lọai thức ăn. Như vậy, Tỳ kheo, hãy học điều này.’Các Tỳ kheo lúc bấy giờ thọ nhận lời dạy của đức Phậtkia, tự mình khắc kỹ để hoàn thành có năm loại thức ăn.Vì vậy, Ma Ba-tuần không thừa cơ hội được. Ba-tuần bènnghĩ, ‘Ta nay đã không lung lạc được Sa-môn này. Ta hãytìm cơ hội nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Ta hãy khuyếnkhích mọi người trong thôn khiến cho chúng Sa-môn nhận đượccác thứ lợi lộc trước đó chưa hề được; các lợi lộcđã được càng tăng thêm, cho đến mức khiến lòng tham lợidưỡng của các Tỳ kheo kia không thể xả bỏ trong chốc lát.Rồi ta sẽ thừa cơ hội từ nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, [772c] được chăng?’

“Bấygiờ, các Thanh văn của đức Phật kia, đến giờ, khóac y,cầm bát vào thôn khất thực. Khi ấy nhân dân trong thôn Bà-la[66]kia cung cấp Tỳ kheo các thứ áo chăn, cơm nước, giườngchõng và ngọa cụ, thuốc men, không để cho thiếu thốn. Mọingười đến trước, nắm y tăng-già-lê, ép phải nhậncác vật bố thí.

“ĐứcPhật kia lúc bấy giờ nói pháp này cho chúng Thanh văn: ‘Phàmlợi dưỡng khiến người rơi xuống nẻo xấu, không khiếncho đạt đến chỗ an ổn vô vi. Tỳ kheo các ngươi chớ móngkhởi ý tưởng tham đắm. Hãy chuyên niệm xả ly các thứlợi dưỡng. Nếu Tỳ kheo tham đắm lợi dưỡng sẽ khôngthể thành tựu năm phần Pháp thân, không đầy đủ giớiđức. Cho nên, này Tỳ kheo, tam lợi dưỡng chưa sinh thì khiếncho đừng sinh. Tâm lợi dưỡng đã sinh thì hãy nhanh chóngtrừ diệt. Như vậy, Tỳ kheo, hãy học điều này.’”

Lúcbấy giờ Ma Ba-tuần bèn ẩn hình mà đi mất.

Bấygiờ, các Tỳ kheo nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.

KINHSỐ 5
Tôinghe như vầy:

Mộtthời, Phật trú tại nước Xá-vệ, trong vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.

Bấygiờ Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:

“Hãyhành tâm từ; trải rộng tâm từ. Do hành tâm từ, những gìlà tâm sân hận thù nghịch tự chúng sẽ tiêu trừ. Vì saovậy? Tỳ kheo, nên biết, xưa có một con quỷ cực kỳ xấuxa hung bạo. Nó đến ngồi trên tòa của Thích Đề-hoàn Nhân.Lúc bấy giờ các trời Tam thập tam vô cùng tức giận, rằng‘Con quỷ này sao dám đến ngồi trên chỗ ngồi của Chúachúng ta?’ Khi chư thiên vừa khởi tâm sân hận, con quỷ kialiền trở thành có dung mạo đẹp đẽ dị thường. Lúc đó,Thích Đề-hoàn Nhân cùng với các ngọc nữ đang vui đùa tạigiảng đường Phổ tập. Bấy giờ có một thiên tử đi đếnchỗ Thích Đề-hoàn Nhân, tâu với Đế Thích rằng, ‘Cù-dực,[67]nên biết, nay có một con quỷ đang ngồi trên tôn tòa. Chưthiên Tam thập tam thảy đều tức giận. Khi chư thiên vừakhởi tâm sân hận, con quỷ ấy bỗng trở nên có dung mạođẹp đẽ khác thường.’ Thích Đề-hòan Nhân liền nghĩ,‘Con quỷ này tất phải là quỷ thần diệu.’ Rồi ThíchĐề-hoàn Nhân đi đến chỗ con quỷ kia, cách nhau không xa,cùng xưng tên họ, ‘Ta là Thích Đề-hoàn Nhân, Chúa củachư thiên.’ Khi Thích Đề-hoàn Nhân tự xưng danh tính, conquỷ kia liền trở thành có dung mạo xấu xí, dễ ghét. Conquỷ đó tức thì biến mất.

Tỳkheo, do phương tiện này mà biết, [773a] ai hành từ tâmkhông rời, thì đức của người ấy là như vậy.

“Lạinữa, Tỳ kheo, ngày xưa Ta trong bảy năm hằng tu từ tâm, trảiqua bảy kiếp thành, kiếp hoại không qua lại sinh tử. Khikiếp sắp hoại, sinh lên trời Quang âm. Khi kiếp sắp thành,sinh lên trời Vô tưởng. Hoặc làm Phạm thiên thống lãnhchư thiên, tháng lãnh mười nghìn thế giới. Lại có khi 37lần làm Thích Đề-hoàn Nhân. Lại vố số lần làm Chuyểnluân Thánh vương. Do phương tiện này mà biết rằng, ai hànhtừ tâm, đức của người ấy là như vậy.

“Lạinữa, ai hành từ tâm, khi thân hoại mạng chung, sinh lên cõitrời, rời xa ba ác đạo, tránh khỏi tám nạn.

“Lạinữa, ai hành từ tâm thì sinh vào nước trung chánh.

“Lạinữa, ai hành từ tâm, có dung mạo xinh đẹp, các căn khôngkhuyết, hình thể toàn vẹn.

“Lạinữa, ai hành từ tâm, tự thân được thấy Như Lai, thừasự chư Phật, không thích sống tại gia, muốn được xuấtgia học đạo, khóac ba pháp y, cạo bỏ râu tóc, tu hành phápsa-môn, tu Phạm hạnh vô thượng.

“Tỳkheo, nên biết, cũng như kim cang mà người mang lấy ăn, trọnkhông bao giờ tiêu hóa mà phải xổ ra. Người hành từ tâmcũng vậy. Nếu Như Lai xuất thế, người đó sẽ hành đạo,tu phạm hạnh vô thượng., cho đến, biết như thật rằngsinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, điều cần làm đã làmxong, không cần còn tái sinh đời sau.”

Lúcbấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật rằng:

“ThếTôn, giả sử khi Như Lai không xuất thế, mà thiện nam tửkia không thích sống tại gia, sẽ phải quy hướng về đâu?”

Phậtbảo A-nan:

“Nếukhi Như Lai không xuất thế, mà thiện nam tử kia không thíchsống tại gia, tự mình cạo bỏ râu tóc, sống nỡi chỗ nhàntĩnh, tự khắc kỷ tu tập, tức ngay ở nơi đó mà các lậudiệt tận, thành vô lậu hành.”

A-nanbạch Phật:

“ThếTôn, người tự mình tu phạm hạnh, hành theo ba thừa kia sẽquy hướng về đâu?”

Phậtbảo A-nan:

“Nhưđiều ông nói, Ta hằng thuyết hành của ba thừa. Chư Phậttrong ba đời, quá khứ và vị lai, cũng thuyết hành của bathừa.

“A-nan,nên biết, có một thời, các loài chúng sinh có dung mạo vàthọ mạng càng lúc càng giảm thiểu, thân hình gầy yếu,không co uy thần, nhiều sân, nộ, tật đố, nhuế, si, gianngụy, huyễn hoặc, sở hành không chân chánh. Hoặc có chúngsinh có các căn linh lợi, nhanh nhẹn, chúng tranh giành lẫnnhau, đấu tranh kiện tụng nhau; hoặc chúng nắm tay, [773b]hoặc lấy ngói, đá, dao, gậy, tàn hại nhau. Các loài chúngsinh vào lúc bấy giờ khi cầm đến cọng cỏ, cỏ liền biếnthành đao kiếm, cắt đứt mạng căn kẻ khác. Trong số đó,chúng sinh nào hành từ tâm, không có sân nộ, thấy sự biếnquái này, trong lòng kinh sợ, thảy cùng nhau bỏ chạy, tránhxa chỗn hung ác này. Trong chốn núi non, chúng tự nhiên cạobỏ râu tóc, khóac ba pháp y, tu phạm hạnh vô thượng, tựmình khắc kỷ tu tập, tâm được giải thoát khỏi các lậumà nhập cảnh giới vô lậu. Mỗi mỗi nói với nhau rằng,‘Chúng ta đã thắng kẻ thù.’ A-nan, nên biết, những ngườiđó được nói là tối thắng.”

A-nanbạch Phật:

“Nhữngvị ấy thuộc vào bộ nào, Thanh văn bộ, Bích-chi-phật bộhay Phật bộ?”

Phậtbảo A-nan:

“Nhữngvị ấy cần được nói là thuộc Bích-chi bộ. Vì sao vậy? Những người ấy đều do tạo các công đức, hành các gốcrễ thiện, tu thanh tịnh bốn đế, phân biệt các pháp. Phàmhành pháp thiện ở đây là hành từ tâm vậy. Vì sao vậy?Bước đi nhân ái, hành từ tâm, đức ấy rộng lớn. Ngàyxưa Ta khóac khôi giáp nhân từ này mà hàng phục Ma và quanthuộc của nó, ngồi dưới gốc thọ vương, thành Đạo vôthượng. Do phương tiện này mà biết từ là tối đệ nhất;từ là pháp tối thắng. A-nan, nên biết, do đó mà nói ai tốithắng hành từ tâm, đức của người ấy là như vậy, khôngthể ước tính. Vậy hãy nên tầm cầu phương tiện hành từtâm. Như vậy, A-nan, hãy học điều này.”

Bấygiờ A nan nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 6[68]
Tôinghe như vầy:

Mộtthời, Phạt ở tại nước Xá-về, trontg vườn Cấp Cô Độc,rừng cây Kỳ-đà.

Bấygiờ, Tôn giả Xá-lợi-phất, vào lúc sáng sớm, rời tĩnhthất, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân, rồingồi xuống một bên. Khi ấy Phật nói với Xá-lợi-phất:

“Ônghôm nay có các căn thanh tịnh, nhan sắc khác người. Ông đangan trú trong tam-muội nào?”

Xá-lợi-phấtbạch Phật:

“Kínhvâng, bạch Thế Tôn, con hằng an trú Không tam-muội.”

Phậtbảo Xá-lợi-phất:

“Lànhthay, lành thay, như Xá-lợi-phất mới có thể an trú nơi Khôngtam-muội. Vì sao vậy? Trong các tam-muội, Không[69] tam-muộilà tối thượng đệ nhất. Tỳ kheo an trú Không tam-muội khôngchấp trước ngã, nhân, thọ mạng, cũng không thấy có chúngsinh, cũng không thấy có bản mạt của các hành. Do không thấycó, nên không tạo gốc rễ của hành. Do không có [773c]hành nên không còn tái sinh đời sau. Do không còn tái sinh đờisau nên không chòn thọ nhận quả báo khổ lạc. Xá-lợi-phất,nên biết, ngày xưa khi Ta chưa hành Đạo, ngồi dưới gốcthọ vương, suy nghĩ như vầy: Các loài chúng sinh này do khôngnắmbắt được pháp gì mà phải trôi lăn trong sinh tử, khôngđược giải thoát? Khi ấy, Ta lại nghĩ, vì không có Khôngtam-muội nên phải trôi nổi sinh tử, không được giải thoát.Có Không tam-muội này, nhưng chúng sinh chưa đạt được, khiếnchúng sinh khởi tưởng niệm đắm trước. Do khởi tưởngthế gian nên thọ nhận phần sinh tử. Nếu đạt được Khôngtam-muội này, không có gì là sở nguyện, do đó đạt đượcVô nguyện tam-muội. Do đạt được Vô nguyện tam-muội, khôngmong cầu chết nơi này sinh về nơi kia; hoàn toàn không cótưởng niệm. Bấy giời hành giả ấy lại đạt được vàan trú trong Vô tướng tam-muội.

“Cácloài chúng sanh này do không đạt được ba tam-muội này nêntrôi nổi sinh tử.

“Saukhi quán sát các pháp, Ta liền đắc Không tam-muội. Sau khiđắc Khong tam-muội, Ta liền thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồđề. Ta lúc bấy giờ do đạt được Không tam-muội, bảyngảy bảy đêm quán sát cây Đạo thọ, mắt không hề nháy.

“Xá-lợi-phất,do phương tiện này mà biết rằng Không tam-muội là tối đệnhất trong các tam-muội. Vua trong các tam-muội là Không tam-muộivậy. Cho nên, xá-lợi-phất, hãy tìm cầu phương tiện hoànthành Không tam-muội. Như vậy, Xá-lợi-phất, hãy học điềunày.”

Bấygiờ Xá-lợi-phất nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.

KINHSỐ 7
Tôinghe như vầy:

Mộtthời Phật trú tại Ca-lan-đà Trúc viên, thành La-duyệt, cùngvới chúng đại tỳ kheo 2500 vị.

Lúcbấy giờ trong thành La-duyệt có một trưởng giả tên làThi-lợi-quật, có nhiều của cải, nhiều bảo vật, vàng,bạc, châu báu, xa cừ, mã não, không sao kể xiết. Nhưng ônglơ là Phật pháp, chỉ phụng sự ngoại đạo là Ni-kiền tử.Quốc vương, đại thần, thảy đều quen biết ông.

Lúcbấy giờ, các hàng tại gia và xuất gia ngoại đạo và cácđệ tử xuất gia và tại giả của Ni-kiền Tử tự nói lờiphỉ báng rằng, có ngã, và chấp có thân của ngã. Chúng cùngvới các nhóm sáu tôn sư ngoại đạo tập họp tại một nơi,bàn luận như vầy:

“NaySa-môn Cù-đàm không việc gì mà không biết. Ông ấy có Nhấtthiết trí. Song, chúng ta không được lợi dưỡng, mà Sa-mônấy lại có nhiều lợi dưỡng. Phải tìm phương tiện khôngcho ông ấy không được lợi dưỡng. Chúng ta hãy đến [774a]nhà Thi-lợi-quật, khiến trưởng giả ấy bày kế sách.”

Rồingoại đạo xuất gia, Ni-kiền Tử, cùng với sáu Tôn sư, điđến nhà trưởng giả Thi-lợi-quật, nói với trưởng giảnày rằng:

“Đạigia nên biết, ông là người được sinh bởi Phạm thiên, làcon của Phạm thiên, có được lợi ích. Nay ông hãy đếnchỗ Sa-môn Cù-đàm, vì thương tưởng chúng tôi, thỉnh Sa-môncùng chúng Tỳ kheo về nhà để tế tự. Lại sai làm mộthầm lửa lớn ở trong nhà, đốt ngọn lửa cực kỳ rự rỡ.Trong các thức ăn đều bỏ thuốc độc rồi mời đến ăn.Nếu Sa-môn Cù-đàm có Nhất thiết trí, biết rõ sự việctrong ba đời, sẽ không nhận lời mời. Nếu không có Nhấtthiết trí, tất sẽ nhận lời mời, dẫn đệ tử đến đây,để tất cả đều bị đốt cháy. Trời người sẽ đượcyên ổn, không có tai hại.”

Thi-lợi-quật-đaim lặng nhận lời của sáu Tôn sư. Ông ra khỏi thành, điđến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ dưới chân, mà trong lòngchứa chất độc hại, bạch Như Lai rằng:

“Cúixin Thế cùng Tỳ kheo Tăng nhận lời mời của tôi.”

ThếTôn biết rõ những điều suy nghĩ trong tâm ông, im lặng nhậnlời. Thi-lợi-quật-đa thấy Như Lai im lặng nhận lời mờiliền đứng dậy, đầu mặt lễ chân Phật, rồi thối luimà đi. Giữa đường, ông nghĩ như vầy: ‘Nay điều mà sáuTôn sư của ta nói rất là chính xác. Nhưng Sa-môn không biếtnhững điều suy nghĩ trong tâm ta. Họ sẽ bị lửa lớn đốtcháy.’

RồiThi-lợi-quật đa trở về nhà, sai làm một hầm lửa lớn,đốt ngọn lửa lớn hừng hực. Lại sai làm các món ăn đủloại, tất cả đều bỏ thuốc độc. Ở bên ngoài cửa lạilàm một hầm lửa lớn, với ngọn lửa lớn hừng hực. Bêntrên ngọn lửa đặt các giường ngồi, cũng bôi các thứkịch độc. Lúc giữa bữa, sai người đi báo giờ ăn đãđến.

Bấygiờ Thế Tôn biết giờ ăn đã đến, bèn khóac y, cầm bát,dẫn các Tỳ kheo vây quanh trước sau, đi đến nhà ấy. Ngàilại lệnh các Tỳ kheo Tăng không ai được đi trước Ngài,không được ngồi trước Ngài, cung không được ăn cái gìtrước Ngài. Trong lúc đó, các nhóm nhân dân trong thành La-duyệtnghe nói Thi-lợi-quật-đa cho đào làm hầm lửa, lại làm thứcăn độc mà thỉnh Phật và chúng tăng; chúng bốn bộ thảyđều than khóc, “Như Lai và Tỳ kheo tăng tất bị hại chăng?”

Cóngười đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lạy dưới chân,bạch Phật rằng:

“Cúixin Thế Tôn chớ đến nhà trưởng giả đó. Ông ấy làm hầmlửa lớn, lại làm các thức ăn độc.”

Phậtnói:

“Mọingười chớ ôm lòng sợ hãi. [774b] Như Lai không bao giờ bịkẻ khác hại. Giả sử ngọn lửa trong Diêm-phù-đề cao đếnPhạm thiên cũng không thể đốt cháy Ta được; huống gìngọn lửa nhỏ ấy mà hại được Như Lai. Không bao giờ cótrường hợp ấy. Các ưu-bà-tắc, nên biết, Ta không còn cótâm gây hại.”

Bấygiờ Thế Tôn với các tỳ kheo vây quanh trước sau đi vàothành La-duyệt, đến nhà trưởng giả. Thế Tôn bảo các Tỳkheo:

“Cácngười chớ đi vào nhà trưởng giả trước, cũng chớ cóăn trước. Đợi Như Lai rồi mới ăn.

KhiThế Tôn vừa cất chân lên trên ngưỡng cửa, hầm lửa tựnhiên hóa thành ao tắm cực kỳ mát mẻ, trong đó đầy cácloại hoa; cũng có mọc hoa sen lớn như bánh xe, cọng bằngbảy báu; và cũng mọc các loại sen khác, trong đó ong mậtbay nhởn nhơ.

Tronglúc đó, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, và Tứ thiênvương, cũng với càn-thát-bà, A-tu-la, các dạ-xoa, quỷ thầncác loại, thấy trong hầm lửa mọc lên hoa sen này, ai nấyđều chúc mừng chuyện lạ, khác giọng, cùng lời, thảy đềunói: “Thế mới biết Như là là đệ nhất trong các bậcđã Chiến thắng.”

Lúcbấy giờ trong nhà trưởng giả có đủ các ngoại đạo dịhọc cùng tụ tập về đó. Khi ấy, các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,sau khi thấy sự biến hóa của Như Lai, hoan hỷ phấn chấnkhông dừng được. các ngoại đạo dị học sau khi thấy sựbiến hóa của Như Lai thì trong lòng ưu sầu. Trong hư không,chư thiên tôn thần rải xuống đủ các loại danh hoa lên trênthân Như Lai. Thế Tôn lúc ấy bước trên không mà đi, cachmặt đất bốn tấc. Chỗ nào Như Lai cất chân, chỗ đó mọclên đóa hoa sen lớn như bánh xe. Rồi Thế Tôn quay về bênphải, bảo các Tỳ kheo:

“Cácngươi hãy đạp lên hoa sen mà đi.”

Khiấy các Thanh văn đều bước trên hoa sen mà đến nhà trưởnggiả.

RồiThế Tôn nói thí dụ bằng câu chuyện cổ tích:

“Ta,từ quá khứ cho đến nay, đã cúng dường hằng sa chưPhật, thừa sự, lễ kính, chưa hề làm sai Thánh ý; nay mangnhững điều này ra mà thệ nguyện, khiến cho các chỗ ngồiđều được vững vàng.”

RồiThế Tôn bảo các Tỳ kheo:

“Tacho phép các Tỳ kheo trước hết lấy tay đặt lên chỗ ngồi,rồi sau đó mới ngồi. Đây là giáo sắc của Ta.”

KhiThế Tôn và các Tỳ kheo Tăng đã ngồi lên chỗ ngồi, thìdưới chỗ ngồi ấy thảy đều mọc lên hoa sen thơm lừng.

Thi-lợi-quật-đathấy sự biến hóa của Như Lai như vậy, trong lòng suy nghĩ:“Ta bị ngọai đạo dị học dối gạt, làm ta mất đi sởhành trong loài người, vĩnh viễn mất con đường sinh thiên.”Trong lòng rất phẫn nộ, như [774c] uống phải chất độc.“Ta chắc sẽ đọa trong ba ác đạo. Quả thật, Như Lai xuấtthế, rất khó gặp.” Hiểu biết điều này rồi, ông liềnrơi lệ, cúi đầu lạy dưới chân Phật, bạch rằng:

“Cúimong Như Lai nghe con sám hối lỗi lầm. Con sẽ sửa đổi việclàm quá khứ, tu tập tương lai. Tự biết mình có tội đãxúc nhiễu Như Lai. Cúi nguyện Thế Tôn nhận sự hối lỗicủa con. Từ nay không con tái phạm nữa.”

Phậtbảo ông trưởng giả:

“Sửađổi lỗi lầm, dẹp bỏ tâm ý trước kia, mới có thể tựbiết đã xúc phạm Như Lai. Trong pháp của Hiền Thánh, thậtlà rộng rãi. Ta nghe cho ông sửa lỗi, tùy pháp mà xả bỏ.ta nay nhận sự hối lỗi của ông. Về sau chớ tái phạm.”

Nóinhư vậy ba lần.

Lúcbấy giờ Vua A-xà-thế nghe trưởng giả Thi-lợi-quật-đa đặtbày hầm lửa và pha thức ăn độc để hại Như Lai, bèn nổicơn thịnh nộ, bảo các quần thần:

“Cầnphải tiêu diệt hết những người trên Diêm-phù-lợi-địacó cùng tên Thi-lợi-quật-đa này!”

RồiVua A-xà-thế lại nhớ đến công đức của Như Lai, buồnkhóc rơi lệ, cởi mũ Thiên quan xuống, nói với quần thần:

“Taynay sống mà làm gì, nếu như Như Lai bị lửa đốt cháy, vàchúng Tăng cũng đều bị đốt cháy. Các ngươi hãy đến nhàtrưởng giả mà trông chừng Như Lai.”

Khiấy Kỳ-bà-già Vương tử tâu vua A-xà-thế:

“Đạivương, chớ có lo rầu, cũng đừng khởi lên ý tưởng ác.Vì sao? Như Lai không bao giờ bị kẻ khác hại. Hôm nay Thi-lợi-quật-đasẽ làm đệ tử của Như Lai. Ngưỡng mong Đại vương hãyđến xem sự biến hóa.”

Bấygiờ A-xà-thế theo lời khuyến dụ của Kỳ-bà-già, bèn cưỡicon voi lớn Tuyết sơn, đi đến nhà trưởng giả Thi-lợi-quật-đa.Vua xuống voi, đi vào nhà Thi-lợi-quật-đa. Lúc ấy đám đôngđang tụ tập ngoài cửa, có đến tám vạn bốn nghìn người.Khi A-xà-thế trông thấy hoa sen lớn như bánh xe, hoan hỷ phấnkhởi không dừng được, bèn nói lên rằng:

“Cầucho Như Lai hằng thắng các chúng Ma.”

Rồivua bảo Ky-bà-già Vương tử:

“Lànhthay, Kỳ-bà-già, ông mới tin có sự việc như vậy nơi NhưLai!”

Bấygiờ vua A-xà-thế đi đến Thế Tôn, cúi đầu lạy dướichân, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy A-xà-thế thấy từmiệng Như Lai phóng ra ánh sáng, và cũng nhìn thấy nhan sắclạ thường của Như Lai, trong lòng hết sức hoan hỷ khôngdừng được.

Lúcbấy giờ trưởng giả Thi-lợi-quật-đa bạch Thế Tôn:

“Nhữngthức ăn mà con dọn ra đều có độc. Cúi mong Thế Tôn đợigiây lát, [775a] con sẽ cho dọn thức ăn khác. Sở dĩ như vậy,để không khiến thân thể của Như Lai có tăng tổn.”

Phậtbảo trưởng giả:

“NhưLai cùng các đệ tử không bao giờ bị kẻ khác làm hại.Những thức mà trưởng giả đã dọn lên, hãy tùy thời thíchhợp mà dâng cúng.”

Khiấy trưởng giả tự tay san sớt, bưng lên các món thức ăn.

Bấygiờ Thế Tôn nói bài kệ này:

Chíthành Phật, Pháp, Tăng,

Giảiđộc không còn gì.

ChưPhật không có độc.

Chíthành Phật, giải độc.

Chíthành Phật, Pháp, Tăng,

Giảiđộc không còn gì.

ChưPhật không có độc.

Chíthành Pháp, giải độc.

Chíthành Phật, Pháp, Tăng,

Giảiđộc không còn gì.

ChưPhật không có độc.

Chíthành Tăng, giải độc.

Độctham dục, sân nhuế;

Thếgian có ba độc.

NhưLai hằng không độc.

Chíthành Phật, giải độc.

Độctham dục, sân nhuế;

Thếgian có ba độc.

PhápNhư Lai không độc.

Chíthành Pháp, giải độc.

Độctham dục, sân nhuế;

Thếgian có ba độc.

TăngNhư Lai không độc.

Chíthành Tăng, giải độc.

ThếTôn sau khi nói bài kệ này bèn ăn thức ăn có pha chất độc.Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:

“Cácngươi chớ có ăn trước. Hãy đợi Như Lai ăn đã, sau đómới ăn.

Bấygiờ trưởng giả tự tay san sớt, bưng dọn đủ các món thứcăn cúng dường Phật và Tỳ kheo tăng. Khi trưởng giả Thi-lợi-quật-đathấy Như Lai đã ăn xong, cất dẹp bát, ông lấy một cáighế nhỏ ngồi trước Như Lai. Thế Tôn bèn thuyết vi diệupháp cho trưởng giả và đám đông tám vạn bốn nghìn người.Ngài thuyết các đề tài về thí, về giới, về sinh thiên,dục là bất tịnh, dâm dật là tai họa lớn, xuất yếu làlạc. Như Lai xem xét thấy tâm ý của trưởng giả cũng támvạn bốn nghìn người đã khai tỏ, không còn bụi bẩn, nhưpháp mà chư Phật thường thuyết là Khổ, Tập, Tận, Đạo;Ngài thuyết cho hết thảy chúng tám vạn bốn nghìn người,phân biệt chi tiết các hành của chúng. Ngay lúc ấy, mộtngười từ trên chỗ ngồi mà sạch các bụi bẩn, đượcpháp nhẫn thanh tịnh, cũng như tấm vải mới dễ nhuộm màusắc, mọi người lúc bấy giờ cũng như vậy, mỗi ngườiđều ngay trên chỗ ngồi mà [775b] thấy được dấu tích củaĐạo, thấy pháp, đắc pháp, phân biệt các pháp, vượt quanghi hoặc, được vô sở úy, không thờ ai khác làm Thầy,tự quy y Phật, Pháp, Tăng, thọ năm giới.

Lúcbấy giờ trưởng giả Thi-lợi-quật-đa tự bết đã thấyđược dấu tích của Đạo, bèn đến trước Phật bạch rằng:

“Cúngthí chất dộc cho Như Lai mà lại được quả báo lớn; cúngthí cam lộ cho các ngoại đạo dị học lại thọ nhận tội.Vì sao vậy? Hôm nay con đem chất độc cúng dường Phật vàTỳ kheo Tăng mà ở ngay trong hiện pháp được chứng nghiệmnày. Đã từ lâu con bị ngoại đạo mê hoặc nên mới móngtâm như vậy đối với Như Lai. Những ai phụng sự ngoạiđạo dị học đều bị rơi vào biên tế.”

Phậtbảo Thi-lợi-quật-đa:

“Đúngnhư điều ông nói, không có gì khác, đều là bị ngườikhác dối gạt.”

Trưởnglão Thi-lợi-quật-đa bạch Phật:

“Từnay về sau, con không còn tin ngoại đạo dị học này nữa.Con cũng không thuận cho chúng bốn bộ tại gia cúng dường.”

Phậtbảo Trưởng giả:

“Chớnói như vậy. Ông trước kia thường cúng dường các vị ngoạiđạo này. Bố thí cho súc sinh còn được phước khó lường,huống gì bố thí cho người. Nếu có ngoại đạo dị họchỏi, ‘Thi-lợi-quật-đa là đệ tử của ai?’ ông trả lờinhư thế nào?”

Thi-lợi-quật-đatức thì rời chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay quỳ dài, bạchThế Tôn:

“Conlà đệ tử của Thích-ca Văn, là đấng Tiên nhân thứ bảy,dũng mãnh mà giải thoát, nay thọ thân người này.”

ThếTôn nói:

“Lànhthay, Trưởng giả, ông đã có thể nói lời tán thán vi diệuấy.”

RồiThế Tôn lại nói lần nữa pháp thậm thâm cho trưởng giả,tức thoiừ thuyết bài kệ này:

Tếtự, lửa trên hết,

Cácthư, tụng hơn hết;

Vuatôn quý giữa người,

Cácdòng, biển là nhất.

Cácsao, trăng đứng đầu,

Chiếusáng, mặt trời trước;

Bốnbên, trên và dưới,

Ởcác phương, cảnh vức,

Trờicùng người thế gian,

Phậtlà bậc tối thượng.

Aimuốn cầu phước kia,

Nênquy y Tam-phật*.

ThếTôn sau khi nói bài kệ này bèn rời chỗ ngồi đứng dậy.

Bấygiờ trưởng giả Thi-lợi-quật-đa và những người đếnhội nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.[70]

[1]Pāli, A. IX. 24. Sattāvāsa.

[2]Cửu chúng sanh cư xứ 九眾生居處. Cf. No 1(9): cửu chúng sanhcư 九眾生居. Tập dị 19, tr. 446b14: cữu hữu tình cư 九有情居.

[3]Tập dị: người và một phần trời. Pāli: manussā ekacce cadevāekacce ca vinipātikā, loài người, một phần chư thiên,và chúng sanh trong cõi dữ.

[4]Tập dị: chư thiên trên Phạm chúng thiên trong thời kỳ kiếpsơ. Pāli: devā brahmakāyikā paṭhamābhinibbattā.

[5]Quang âm thiên 光音天.Pāli: devā ābhassarā.

[6]Biến tịnh thiên 遍淨天. Pāli: devā subhakiṇhā.

[7]Không xứ thiên 空處天. Hán dịch này nhảy sót mất mộttầng thứ năm. Tập dị, hữu tình cư thứ năm: Vô tưởnghữu tình thiên 無想有情天, Pāli: devā asaññasattā; hữutình cư thú sáu, Không vô biên xứ thiên 空無邊處天. Pāli:ākāsānañcāyatanūpagā.

[8]Thức xứ thiên 識處天. Tập dị: Hữu tình cư thứ bảy,Thức vô biên xứ thiên 識無邊處天. Pāli: viññāṇañcāyatanūpagā.

[9]Bất dụng xứ thiên 不用處天. Tập dị, hữu tình cư thứtám, Vô sở hữu xứ thiên 無所有處天. Pāli: ākiñcaññāyatanūpagā.

[10]Hữu tưởng vô tưởng xứ thiên 有想無想處天. Tập dị:Phi tưởng phi tưởng xứ thiên 非想非非想處天. Pāli: nevasaññānāsaññāyatanūpagā.

[11]Sẩn nguyện 嚫願, trên kia dịch là đạt-sẩn 達嚫, Pāli:dakkhinā (Skt. dakṣiṇā), thí tụng, bài kệ chú nguyện thíchủ sau khi nhận cúng dường.

[12]Đạt-sẩn, xem cht. 15 kinh 2 phẩm 33.

[13]Hán: cưỡng nhan 強顏, mặt gượng làm vui.

[14]Ẩn nặc dâm dật 隱匿 婬泆; có bản chép không có chữdâm. Đoạn dưới chép là dâm dật ẩn (có bản chép tĩnh)nặc 婬泆隱/靜匿.

[15]Nguyên Hán: hành dâm 行婬. Tống-Nguyên-Minh: sở hành 所行.Bản khác chép không có chữ dâm.

[16]Phần trên chỉ giải thích tám pháp, thiếu “niệm không xảly 念不捨離.”

[17]Pāli, A.viii. 17 Bandha. Hán, No 26(106), kinh Tưởng.

[18]Nguyên Hán: kỹ 伎, trong định cú ca vũ kỹ 歌舞伎, chỉchung các loại ca kịch (Pāli: naṭa).

[19]Nguyên Hán: thường cầu phương nghi 常求方宜.

[20]Nguyên Hán: tự dĩ huyễn thuật 自以幻術.

[21]Pāli, ibid., tám hình thức người nhữ troi buộc người nam:ruṇṇena: khóc, hasitena: cười, bhaṇitena: trò chuyện , ākappena:phục sức, vanabhaṅgena: hoa quả, gandhena: hương, rasena:vị, phassena: xúc,

[22]Nguyên Hán: cánh lạc 更樂.

[23]Tham chiếu Pāli, Mūlapariyāya, M. i. 1. Hán, Trung kinh 106.

[24]Ưu-ca-la 優迦羅. Pāli: Ukkaṭṭhā, một thị trấn thuộc Kosala,gần Himalaya.

[25]Pāli: trong rừng Subhaga, dưới gốc cây Sa-la vương.

[26]Pāli: sabbadhammamūlapariyāyaṃ, pháp môn căn bản của tấtcả các pháp.

[27]Pāli: pathaviṃ pathavito sañjānāti; pathaviṃ pathavito saññatvā pathaviṃ maññati, ở đất mà có ấn tượnglà đất, tư duy là đất.

[28]Pāli: pathaviṃ maññati, pathaviyā maññati, pathavito maññati, pathaviṃ meti maññati, nó tư duyđất, tư duy về đất, tư duy từ đất, nghĩ rằng “Đấtlà của ta.” No 26(106): “Nơi đất tưởng là đất, (nghĩrằng), đất làThần (ngã), đất là sở hữu của Thần (ngã)…”

[29]Pāli: pathaviṃ abhinandati, người ấy hoan hỷ đất.

[30]Trong bản chép dư chữ thiên. Tham chiếu Pāli: deve devato sañjānāti, đối với chư thiên, nó có ấn tượng(tưởng) chư thiên.” Nghĩa các đoạn sau, chuẩn theo đây.

[31]Quả thật果實, hoặc Quảng quả thiên. Pāli: Vepphala, tầngcao nhất thuộc tứ thiền của phàm phu.

[32]A-tỳ-da-đà 阿毘耶陀; theo thứ tự Pāli, sau Vepphala đượckể là Abhibhū (Thắng thiên). Có lẽ Skt. Avṛha, Vô phiềnthiên, tầng thứ nhất trong 5 Tịnh cư thiên.

[33]Hán: kiến 見… văn 聞… dục 欲.. trí 智; chính xác nênnhiểu là kiến, văn giác, tri; xem đoạn dưới. Pāli: diṭṭhaṃ,cái được thấy; sutaṃ, cái được nghe; mutaṃ, cái đượctri giác; viññāta, cái được nhận thức (giác quan).

[34]Hán: nhất loại 一類, nhược can loại 若干類. Pāli: ekattaṃ,đồng nhấti, và nānattaṃ, đa thù tính.

[35]Pāli: apariññātaṃ tassā’tivadāmi, “Ta nói, người ấy khôngbiến tri về (những) cái đó.”

[36]Pāli: yopi so, bhikkhave, bhikkhu sekkho appattamānaso anuttaraṃ yogakkhemaṃpatthayamāno viharati, tỳ kheo thuộc bậc hữu học, tâm chưachứng đắc, đang tìm cầu sự an ổn tối thượng.

[37]Hán: bình đẳng giải thoát 平等解脫. Pāli: sammadaññā vimutto,bằng chánh trí mà giải thoát.

[38]Pāli: nandī dukkhassa mūlan’ti– iti viditvā ‘bhavā jāti bhūtassa jarāmaraṇan’ti,vì biết rằng, hỷ ái là gốc rễ của khổ; do hữu có sanh;và có già, chết đối với sinh vật.”

[39]Pāli: na te bhikkhū … abhinandunti, các tỳ kheo không hoan hỷ.No 26(106): các tỳ kheo hoan hỷ.

[40]Chủng tánh nhân 種性人, đọan dưới: hướng chủng tánhnhân 向種性人, thấp dưới hướng Tu-đà-hoàn. Pāli, cf. A.iv. tr. 372: gotrabhū, hạng phàm phu đang hướng đến Tu-đà-hoànđạo (Sotāpattimagga). Xem cht. 44 dưới.

[41]Nguyên Hán: ý giải 意解.

[42]Hán: thập nhị khiên liên 十二牽連.

[43]Pāli, A. IX. 10. Ahuneyya.

[44]Hán: (hướng) chủng tánh nhân 向種性人. Pāli: gotrabhū giaiđoạn chuyển chủng tánh, tương đương với phàm phu(puthujjana, A. ix. 9), từ phàm phu bước vào Thánh đạo; giaiđoạn hiện quán Thánh đế, đủ năng lực để thành bậchữu học, trong sat-na vô gián sẽ trở thành vị hướng Tu-đà-hoàn.(Sớ giải Pāli: sotāpattimaggassa anantarapaccayena sikhāpattabalavavipassanācittena samannāgato).

[45]Nguyên Hán âm: Mãn-hô 滿呼. Hán chép nhầm, cần sửa lại.Pāli tương đương: Uposatha(-kumāra), chuyện kể trong Jātakaiv. 133. Xem kinh 4, phẩm 50.

[46]Chu-lợi Bàn-đặc 朱利槃特. Xem kinh 12, phẩm 12. Pāli:Cūḷapanthaka.

[47]Lô-ca-diên 盧迦延.Trên kia, kinh 10 phẩm 17, dịch nghĩa làThế Điển 世典. Pāli: Lokāyatika.

[48]Nuyên Hán; vị 味; nên hiểu là văn cú hay âm vận. Ở đây,sau khi nghe văn cú của người kia rồi mới nhận biết. Xemcht.49 dưới.

[49]Hán: tri nghĩa, tri vị 知義知味: “theo nghĩa và văn mà biết.”Pāli: atthato byañjanato.

[50]Tư duy thần túc 思惟神足 (Pāli: vīmaṃsā-iddhipāda); 1 trongbốn thần túc (Pāli: cattāro iddhipādā).

[51]Nguyên hán: tam-phật 三佛, phiên âm từ sambuddha. Xem kinh 4phẩm 18.

[52]Bán phạm hạnh chi nhân 半梵行之人. Cf. No 99(1238). Pāli: upaḍḍhamidaṃ,bhante, brahmacariyassa– yadidaṃ kalyāṇamittatā (…), “BạchThế Tôn, một nửa đời sống phạm hạn này là thiện hữu.”

[53]Đề-hòa-kiệt-la 提和竭羅, phiên âm của từ Dīpaṃkāra,tứ dịch nghĩa Đăng Quang 燈光 ở trên. Cũng dịch là NhiênĐăng, Đính Quang.

[54]Hán: phi vị thực 非為食. Thức ăn, đây chỉ các hưởngthụ vật chất.

[55]Pāli: A.ix. 24 Sattāvasa.

[56]Cửu chúng sanh cư 九眾生居處. Xem kinh 1, phẩm 44, và cht…Pāli: nava sattāvāsā.

[57]Màu sắc, đây chỉ các sắc dân.

[58]Bản Hán, hết quyển 40.

[59]Tham chiếu, No 26 (136).

[60]Tham chiếu Pali, M. 67 Cātumā (R.i. 456). Hán, No 137.

[61]Thích-kiều 釋翅, phiêm âm, tương đương Pali: Sakkesu, “giữanhững người họ Thích.” Nhưng, M 67, ibid.: trú tại Cātumā,trong khu rừng Xoài.

[62]Ám-bà-lê quả viên 闇婆梨果園, khu vườn xoài. Pali, Cātumā,một ngôi làng của người họ Thích.

[63]Tứ sự 四
<lbn="0772a19"/>事, cũng gọi là tứ duyên, hoặc tứ y: y, thực,ngọa cụ, y dược.

[64]Bà-la viên 婆羅園. Xem kinh1, phẩm 23 Địa chủ.

[65]Cf. Pali, M. 50 Māratajjanīyasuttaṃ (R.i. 333). Hán, Trung 30, kinh131 Hàng ma (tr. 620c07).

[66]Để bản: Bà-la-môn thôn 婆[24]羅[25]門村. TNM, và các đoantrên: Bà-la thôn.

[67]Cù-dực 瞿翼, các nới khác âm là Câu-dực; họ của ĐếThích. Pāli: Kosiya.

[68]Tham chiếu Pali, M. 151 Piṇḍapātapārisuddhisuttaṃ (R. iii. 293).Hán, Tạp (Việt) kinh238.

[69]Để bản chép nhầm là hư không 虛空.

[70]Bản Hán, hết quyển 41.
22.PHẨMBA CÚNG DƯỜNG

KINHSỐ 1
[607a01]Tôi nghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Cóba người, xứng đáng được người đời cúng dường. Bangười ấy là ai? Như Lai Chí chơn Đẳng chánh giác, xứngđáng được người đời cúng dường. Đệ tử của đứcNhư Lai, A-la-hán lậu tận, xứng đáng được người đờicúng dường. Chuyển luân Thánh vương, xứng đáng được ngườiđời cúng dường.

“Cónhân duyên gì mà Như Lai xứng đáng được người đời cúngdường? Như Lai điều phục những ai chưa được điều phục,hàng phục những ai chưa được hàng phục, độ những ai chưađược độ, giải thoát những ai chưa được giải thoát,khiến thành Niết-bàn những ai chưa bát-niết-bàn, cứu hộnhững ai chưa được cứu hộ, làm con mắt cho những ai mùmắt. Như Lai là tối tôn đệ nhất, là ruộng phước tốitôn, đáng kính, đáng quý giữa Ma, hoặc Ma thiên, trời vàngười, làm đạo sư hướng dẫn loài người biết con đườngchánh, thuyết đạo giáo cho những ai chưa biết đạo. Do nhânduyên này, Như Lai là xứng đáng được người đời cúngdường.

“Cónhân duyên gì mà đệ tử của Như Lai, A-la-hán lậu tận,xứng đáng được người đời cúng dường? Tỳ-kheo nên biết,A-la-hán lậu tận đã vượt qua được dòng sanh tử, khôngcòn tái sinh, đã đắc pháp vô thượng; dâm, nộ, si vĩnh viễndiệt tận không còn, là ruộng phước của đời. Do nhân duyênnày, A-la-hán lậu tận xứng đáng được người đời cúngdường.

“Lạinữa, do nhân duyên gì mà Chuyển luân Thánh vương xứng đángđược người đời cúng dường? Các Tỳ-kheo nên biết, Chuyểnluân Thánh vương dùng pháp để trị hóa, trọn không sát sanh,lại dạy dỗ người khiến không sát sanh; tự mình không trộmcắp và cũng dạy người khác không trộm cắp; tự mình khôngdâm dật và dạy người khác không dâm dật; tự mình khôngnói vọng ngữ và dạy người khác không vọng ngữ; tự mìnhkhông nói hai lưỡi đấu loạn kia-đây, lại cũng dạy ngườikhác khiến không nói hai lưỡi; tự mình không ganh ghét, sân,si, lại dạy người khác cũng không tập pháp này; tự hànhtheo chánh kiến và dạy người khác không hành theo tà kiến.Do nhân duyên này, Chuyển luân Thánh vương xứng đáng đượcngười đời cúng dường.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 2
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ đức Thế Tôn bảo A-nan:

“Cóba thiện căn không thể cùng [607b01] tận, đưa dần đến Niết-bàngiới. Những gì là ba? Gieo trồng công đức ở nơi Như Lai,thiện căn này không thể cùng tận. Gieo trồng công đức ởnơi Chánh pháp, thiện căn này không thể cùng tận. Gieo trồngcông đức ở nơi Thánh chúng, thiện căn nầy không thể cùngtận. Này A-nan, đó gọi là có ba thiện căn không cùng tậnnày, đưa đến Niết-bàn giới. Cho nên A-nan, hãy tìm cầuphương tiện để đạt được phước không thể cùng tậnnày.

“A-nan,hãy học tập điều này như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 3
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Cóba thọ* này. Những gì là ba? Đó là cảm thọ lạc, cảm thọkhổ, cảm thọ không khổ không lạc.[50]

“Nàycác Tỳ-kheo, nên biết, cảm thọ lạc kia là sứ giả củaái dục. Cảm thọ khổ kia là sứ giả của sân nhuế sai khiến.Cảm thọ không khổ không lạc kia là sứ giả của si. Chonên, này Tỳ-kheo, hãy học phương tiện tìm cầu diệt cácsứ giả này. Vì vậy, các ngươi hãy tự nhiệt hành, tựtu hành pháp cần phải tu hành, đắc pháp vô tỷ. Các Tỳ-kheonên biết, sau khi Ta diệt độ, nếu có Tỳ-kheo nào tự niệmnhiệt hành tu hành pháp này, đắc pháp vô tỷ, người ấychính là đệ nhất Thanh văn.

“Thếnào, Tỳ-kheo, hãy tự nhiệt hành, tự tu hành pháp cần phảitu hành, đắc pháp vô tỷ. Ở đây, Tỳ-kheo tự quán thânnơi nội thân, tự quán thân nơi ngoại thân, tự quán thânnơi ngoại thân mà tự an trú*; quán nội thọ, quán ngoạithọ, quán nội ngoại thọ; quán nội tâm, quán ngoại tâm,quán nội ngoại tâm; quán nội pháp, quán ngoại pháp, quánnội ngoại pháp tự an trú*.

“Nhưvậy Tỳ-kheo, hãy tự nỗ lực tu hành pháp ấy, đắc phápvô tỷ. Những Tỳ-kheo nào thực hành pháp nầy, người ấylà đệ tử bậc nhất ở trong hàng Thanh văn.

“CácTỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 4
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ đức Thế Tôn bảo Tỳ-kheo:

“Cóba sự, che khuất thì tốt, hiển lộ thì không tốt.[51] Nhữnggì là ba? Một là nữ nhân, che khuất thì tốt, hiển lộ thìkhông tốt. Hai là chú thuật bà-la-môn, che khuất thì tốt,hiển lộ thì không tốt. Ba là nghiệp của tà kiến, [607c01]che khuất thì tốt, hiển lộ thì không tốt. Tỳ-kheo, đógọi là có ba sự này, che khuất thì tốt, hiển lộ thì khôngtốt.

“Lạicó ba sự mà hiển lộ thì tốt, che khuất thì không tốt.[52]Những gì là ba? Mặt trời, mặt trăng, hiển lộ thì tốt,che khuất thì không tốt. Pháp ngữ của Như Lai, hiển lộthì tốt, che khuất thì không tốt. Tỳ-kheo, đó gọi là cóba sự này mà hiển lộ thì tốt, che khuất thì không tốt.”

Bấygiờ, Thế Tôn liền nói kệ này:

Nữnhân cùng chú thuật,

Tàkiến hành bất thiện:

Đâyba pháp ở đời

Chedấu thì rất tốt.

Nhật,nguyệt chiếu khắp nơi;

Lờichánh pháp Như Lai:

Đâyba pháp ở đời

Hiệnbày là đẹp nhất.

“Chonên, các Tỳ-kheo, hãy hiển bày pháp Như Lai, chớ để chekhuất.

“Tỳ-kheo,hãy học điều này như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 5
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Cóba tướng hữu vi của hữu vi. Những là ba? Biết nó sinh khởi;biết nó biến thiên; biết nó diệt tận.[53]

“Saogọi đó là biết nó sinh khởi? Biết nó sanh, nó lớn, thànhhính năm uẩn, đạt đến các giới và xứ[54]. Đó gọi làbiết nó sinh khởi.

“Saogọi là nó diệt tận? Nó chết, mạng đã qua, không tồn tại,vô thường, các uẩn tan hoại, dòng họ chia lìa, mạng căncắt dứt. Đó gọi là biết diệt tận.

“Saogọi là nó biến dịch? Răng rụng, tóc bạc, khí lực hao mòn,tuổi cao sức yếu, thân thể rã rời. Đó gọi là biệt phápbiết pháp biến dịch’.

“Tỳ-kheo,đó là ba tướng hữu vi của hữu vi. Nên biết ba tướng hữuvi của hữu vi nầy. Hãy khéo phân biệt.

“CácTỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 6
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ngườingu có ba tướng, ba pháp không thể trông cậy.[55] Ba pháp gì?Ở đây, điều mà người ngu không nên tư duy mà cứ tư duy;điều không nên luận nói mà cứ luận thuyết; điều khôngnên hành mà cứ tu tập.

“Thếnào là người ngu tư niệm điều không nên tư duy? Ở đây,người ngu khởi ba hành của ý, rồi tư duy, ức niệm. Nhữnggì là ba? [608a01] Người ngu khởi tâm ganh tị tài sản vànữ sắc nơi người khác, tâm nghĩ lời ác làm trổi dậytâm ganh ghét, rằng ‘Mong những cái mà người ấy có thuộcvề ta.’ Như vậy người ngu tư duy điều không nên tư duy.

“Thếnào là người ngu luận thuyết điều không nên luận thuyết?Ở đây, người ngu gây bốn tội lỗi nơi miệng. Những gìlà bốn? Người ngu thường thích vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu,gây đấu loạn giữa người này người kia. Người ngu bốntội lỗi nơi miệng như vậy.

“Thếlà người ngu tạo các hành vi ác? Ở đây, người ngu tạohành vi ác bởi thân, thường nghĩ đến sát sanh, trộm cắp,dâm dật. Người ngu có hành vi xấu ác như vậy.

“Nhưvậy, Tỳ-kheo, người ngu có ba hành tích nầy, người ngu sitập hành ba sự nầy.

“Lạinữa, Tỳ-kheo, người trí có ba sự cần được niệm tưởngtu hành. Những gì là ba? Ở đây, người trí tư duy điềuđáng tư duy; luận thuyết điều đáng luận thuyết; hành thiệnđiều đáng tu hành thiện.

“Thếnào là người trí tư duy điều đáng tư duy? Ở đây, ngườitrí tư duy ba hành vi của ý. Những gì là ba? Người trí khôngganh ghét, oán giận, si mê; thường hành chánh kiến, thấytài sản của người khác không sanh tưởng niệm. Như vậy,người trí tư duy điều đáng tư duy.

“Thếnào là người trí luận thuyết điều đáng luận thuyết?Ở đây, người trí thành tựu bốn hành vi bởi miệng. Nhữnggì là bốn? Người trí không nói dối, cũng không dạy ngườikhác nói dối, thấy người nói dối, ý không hoan hỷ. Đógọi là người trí giữ gìn miệng mình. Lại nữa, ngườitrí không nói thêu dệt, ác khẩu, tranh loạn kia đây, cũngkhông dạy người khiến nói thêu dệt, ác khẩu, gây đấuloạn giữa người này người kia. Như vậy, người trí thànhtựu bốn hành vi bởi miệng.

“Thếnào là người trí thành tựu ba hành vi của thân? Ở đây,người trí tư duy thân hành không có điều gì xúc phạm; songngười trí lại tự mình không sát sanh, cũng không dạy bảongười sát sanh, thấy người khác giết hại, tâm không hoanhỷ; tự mình không trộm cắp, không dạy bảo người trộmcắp, thấy người khác trộm cắp tâm không hoan hỷ; cũngkhông dâm dật, thấy nữ sắc của kẻ khác tâm không khởitưởng, cũng không dạy bảo người khiến hành dâm dật. Nếuthấy người già thì xem như mẹ, người vừa như chị, ngườinhỏ như em, ý không cao thấp. Người trí đã thành tựu bahành của thân như vậy.

“Đógọi là những hành tích của người trí.

“Nhưvậy, này Tỳ-kheo, có ba tướng hữu vi này của hữu vi. [608b01]Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy thường xả ly ba tướng củangười ngu. Chớ nên phế bỏ ba điều sở hành của ngườitrí.

“CácTỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 7
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Cóba pháp nầy, vì không được giác tri, không được thấy,không được nghe, nên trải qua sinh tử mà chưa từng nhìnngắm; Ta và các ngươi trước đây chưa từng thấy nghe. Nhữnggì là ba? Đó là giới Hiền thánh, không thể giác tri, khôngthấy, không nghe, nên trải qua sinh tử mà chưa từng nhìn ngắm;Ta và các ngươi trước đây chưa từng thấy nghe. Tam-muộiHiền thánh, trí huệ Hiền Thánh, không thể giác tri, khôngthấy, không nghe. Nay, như thân Ta, cùng với các ngươi, thảyđều giác tri cấm giới Hiền thánh, tam-muội Hiền thánh,trí huệ Hiền thánh, thảy đều thành tựu, nên không còntái sinh nữa, đã đoạn nguồn gốc sanh tử. Như vậy, cácTỳ-kheo, hãy niệm tưởng tu hành ba pháp này.

“CácTỳ-kheo, hãy học điều nầy như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 8
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Cóba pháp rất đáng mến yêu mà người đời tham muốn. Ba phápgì? Trẻ khỏe là pháp đáng mến yêu mà người đời thammuốn. Không bệnh là pháp đáng mến yêu mà người đời thammuốn. Tuổi thọ bệnh là pháp đáng mến yêu mà người đờitham muốn. Tỳ-kheo, đó gọi là có ba pháp đáng mến yêu màngười đời tham muốn.

“Lạinữa Tỳ-kheo, tuy có ba pháp đáng mến yêu mà người đờitham đắm này, nhưng lại có ba pháp không đáng mền yêu màngười đời không tham muốn. Ba pháp gì? Tỳ-kheo nên biết,tuy có trẻ khỏe, nhưng ắt sẽ già, pháp không đáng mếnyêu mà người đời không tham muốn. Tỳ-kheo nên biết, tuycó không bệnh, song tất sẽ bệnh, pháp không đáng mến yêumà người đời không tham muốn. Tỳ-kheo nên biết, tuy cósống lâu, song tất sẽ chết, pháp không đáng mến yêu màngười đời không tham muốn. Cho nên, này các Tỳ-kheo, tuycó trẻ khỏe, nhưng phải tìm cầu cái không già, đến Niết-bàngiới. Tuy có không bệnh, nhưng phải tìm cầu phương tiệnđể không có cái bệnh. Tuy có sống lâu, nhưng hãy [608c01]tìm cầu phương tiện để không bị chết.

“CácTỳ-kheo, hãy học điều nầy như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 9
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Giốngnhư mùa Xuân, trời mưa đá lớn. Cũng lại như vậy, nếuNhư Lai không xuất hiện ở đời, chúng sanh sẽ rơi vào địangục. Bấy giờ người nữ vào địa ngục nhiều hơn đốingười nam. Vì sao vậy? Tỳ-kheo nên biết, do ba sự nên cácloài chúng sanh thân hoại mạng chung rơi vào ba đường dữ.Những gì là ba? Đó là tham dục, ngủ nghỉ, trạo cử[56].Bị ba sự nầy quấn chặt tâm ý, thân hoại mạng chung rơivào ba đường ác.

“Ngườinữ cả ngày tập hành ba pháp mà tự an trú*.[57] Ba pháp gì?Sáng sớm để cho tâm ganh tị quấn chặt mình. Buổi trưalại để cho ngủ nghỉ quấn chặt mình. Buổi chiều đểcho tâm tham dục quấn chặt mình. Do nhân duyên nầy khiếnngười nữ kia thân hoại mạng chung sanh vào ba đường dữ.Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy niệm tưởng tránh xa ba phápnầy.”

Bấygiờ, đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Ganhtị, ngủ, trạo cử;

Thamdục là pháp ác

Lôingười vào địa ngục,

Cuốicùng không giải thoát.

Vìvậy phải lìa bỏ

Ganhtị, ngủ, trọ cử.

Vàcũng xả bỏ dục,

Đừngtạo hành ác kia.

“Chonên, này các Tỳ-kheo, hãy niệm tránh xa sự ganh tị, khôngcó tâm keo kiệt, thường hành huệ thí, không ham ngủ nghỉ,thường hành không nhiễm,[58] không đắm tham dục.

“CácTỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

KINHSỐ 10
Tôinghe như vầy:

Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.

Bấygiờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Cóba pháp nầy, tập hành chúng, thân cận chúng, không hề biếtchán đủ, lại cũng không thể đến chỗ tĩnh chỉ. Nhữnggì là ba? Đó là tham dục, mà người nào tập pháp nầy, banđầu không chán đủ. Hoặc lại có người tập uống rượu,ban đầu không chán đủ. Hoặc lại có người tập ngủ nghỉ,ban đầu không chán đủ. Này Tỳ-kheo, đó gọi là có ngườitập ba pháp nầy, ban đầu không chán đủ, lại cũng khôngthể đến nơi diệt tận. Cho nên, Tỳ-kheo, thường phải lìabỏ ba pháp nầy, không gần gũi nó.

“CácTỳ-kheo, hãy học điều nầy như vậy.”

CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.

Kệtóm tắt:

Cúngdường, ba thiện căn,

Bathọ, ba khuất lộ,

Tướng,pháp, ba bất giác,

Mếnyêu, xuân, không đủ.[59]

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com