HánDịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà
Việtdịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: TuệSỹ
(PL.2549- 2005 sửa chữa và bổ sung)
KINHSỐ 1[237]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng câyKỳ-đà, nước Xá-vệ.
Bấygiờ, Sanh Lậu bà-la-môn đến chỗ Thế Tôn, chào hỏi thămnhau rồi ngồi qua một bên. Khi ấy, bà-la-môn bạch Thế Tôn:
“Sốngtrong rừng, ở trong hang, thật là khổ thay! Sống một mình,đi đứng một mình, dụng tâm thật khó!”
ThếTôn bảo:
“Thậtvậy, bà-la-môn, như những gì ông nói. Sống trong rừng, ởtrong hang, thật là khổ thay! Sống một mình, đi đứng mộtmình, dụng tâm thật khó! Vì sao vậy? Ngày xưa, lúc Ta chưathành Phật đạo, hành hạnh Bồ-tát, Ta thường nghĩ: ‘Sốngtrong rừng, ở trong hang, thật là khổ thay! Sống một mình,đi đứng một mình, dụng tâm thật khó!”
Bà-la-mônbạch Phật:
“Đốivới các thiện gia nam tử với tín tâm kiên cố xuất gia họcđạo, Sa-môn Cù-đàm là tối thượng thủ, đem lại nhiềulợi ích, [665c01] làm người dẫn đường cho đám bằng hữuấy.”
ThếTôn bảo:
“Thậtvậy, bà-la-môn, như những gì ông nói. Có những thiện gianam tử, với tín tâm kiên cố, Ta là tối thượng thủ, đemlại nhiều lợi ích, làm người dẫn đường cho đám bằnghữu ấy. Nếu thấy Ta, họ đều khởi lòng hổ thẹn, đếntrong núi khe, sống trong động vắng vẻ.
“Bấygiờ, Ta nghĩ thầm, các Sa-môn, Bà-la-môn có thân hành bấttịnh, mà gần gũi, sống chỗ vắng vẻ không người, do thânhành bất tịnh, thì ở đó chỉ luống nhọc công, chẳng phảihành chân thật, mà là pháp ác, bất thiện, sự kinh sợ. Nhưngnay, Ta với thân hành không phải bất tịnh, gần gũi, sốngnơi vắng vẻ. Với những gì là thân hành bất tịnh, do gầngũi, sống nơi vắng vẻ, những điều ấy không có nơi Ta.Vì sao vậy? Nay, Ta thân hành thanh tịnh. Trong những vị A-la-hán,[238]do thân hành thanh tịnh, ưa ở nơi hang vắng, Ta là tối thượngthủ. Cũng vậy, bà-la-môn, Ta tự quán thân, thấy sở hànhthanh tịnh nên ưa ở nơi vắng vẻ, lại càng vui thích.
“Bấygiờ, Ta nghĩ thầm, những Sa-môn, Bà-la-môn nào với ý hànhkhông thanh tịnh, mạng không thanh tịnh, mà gần gũi, sốngnơi vắng vẻ không người; họ tuy có hạnh này mhưmg vẫnkhông phải chân chánh; do đó, họ đều đầy đủ pháp ácbất thiện,[239] điều này Ta không có. Vì sao vậy? Vì naynhững việc làm của thân, miệng, ý, mạng Ta đều thanh tịnh.
“Cónhững Sa-môn, Bà-la-môn thân, miệng, ý, mạng đều thanh tịnh,ưa ở nơi vắng vẻ thanh tịnh, điều này thì Ta có. Vì saovậy? Vì nay những sở hành bởi thân, miệng, ý, mạng, củaTa thanh tịnh. Trong những A-la-hán do thân, miệng, ý, mạngthanh tịnh, nên ưa ở nơi thanh vắng, Ta là tối thượng thủ.Như vậy, bà-la-môn, khi Ta có thân, miệng, ý, mạng thanh tịnh,khi ấy lại càng ưa thích sống nơi vắng vẻ.
“Bấygiờ, Ta nghĩ thầm, Sa-môn, Bà-la-môn có nhiều điều phảisợ hãi kinh khiếp khi sống ở nơi nhàn vắng; đó là phápác bất thiện, sự sợ hãi kinh khiếp. Nhưng nay, Ta không cóbất cứ sự sợ hãi nào khi sống nơi vắng vẻ không người.Trong các Sa-môn, Bà-la-môn có tâm sợ hãi kinh khiếp khi sốngở chỗ vắng vẻ, trong số đó không có Ta. Vì sao vậy? Vìnay Ta không có bất sứ sợ hãi nào ở nơi vắng vẻ mà tựan trú. Ta không ở trong số những người có tâm sợ hãi kinhkhiếp khi sống ở nơi vắng vẻ. Vì sao vậy? Vì nay Ta đãlìa khổ hoạn, không đồng với họ. Như vậy, bà-la-môn,Ta quán sát ý nghĩa này rồi, không có sợ hãi, lại càng thêmvui thích.
“NhữngSa-môn, Bà-la-môn nào mà khen mình, chê người, tuy sống ởchỗ vắng vẻ vẫn có tưởng bất tịnh.[240] Nhưng Ta, nàybà-la-môn, Ta không chê bai người khác, [666a01] cũng không tựkhen mình. Những ai tự khen mình lại chê bai người khác, Takhông phải người đó. Vì sao vậy? Vì nay Ta không có mạn.Trong các Hiền thánh không có mạn, Ta là tối thượng thủ.Ta quán sát ý nghĩa này rồi, lại càng vui thích hơn[241].
“NhữngSa-môn[242] nào ham cầu lợi dưỡng, không hề biết đủ. Nhưnghôm nay, Ta không ham cầu lợi dưỡng. Vì sao vậy? Vì nay Takhông cầu có nhiều hơn người, và cũng tự biết đủ. Trongnhững người biết đủ, Ta là thượng thủ. Ta quán sát ýnghĩa này rồi, lại vui thích hơn.
“NhữngSa-môn, Bà-la-môn nào ôm lòng biếng nhác, không chuyên cầntinh tấn, mà gần gũi nơi vắng, Ta không phải người đó.Vì sao vậy? Vì nay Ta có tâm dõng mãnh, nên trong đó khônglười mệt. Trong các Hiền thánh có tâm dõng mãnh, Ta là tốithượng thủ. Ta quán sát ý nghĩa này rồi, lại càng vui thíchhơn.
“Bấygiờ, Ta lại nghĩ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào hay nhiều quênlãng, mà sống ở nơi vắng vẻ; tuy có hạnh này vẫn có phápác bất thiện[243]. Nhưng nay Ta không có những điều quênlãng. Lại này bà-la-môn, Ta không có trong số những ngườihay quên lãng. Trong các Hiền thánh không hay quên lãng, Ta làtối thượng thủ. Nay Ta quán sát ý nghĩa này rồi, lại càngvui thích hơn.
“Bấygiờ, Ta lại nghĩ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào mà ý loạn,không định; những người ấy liền có pháp ác bất thiện,cùng chung với hành ác. Nhưng nay Ta ý không hề loạn, thườngnhư nhất tâm. Ta không có trong số những người có tâm ýloạn, bất định. Vì sao thế? Vì Ta thường nhất tâm. Trongcác Hiền thánh có tâm chuyên nhất, định tĩnh, Ta là tốithượng thủ. Nay Ta quán sát ý nghĩa này rồi, lại càng vuithích hơn khi sống ở nơi vắng vẻ.
“Bấygiờ, Ta lại nghĩ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào mà ngu si, tămtối cũng như bầy dê, người ấy liền có pháp ác bất thiện.Ta không phải người đó. Nhưng nay Ta thường có trí tuệ,không có chỗ ngu si, sống ở nơi vắng. Những hành như vậy,có ở nơi Ta. Nay Ta thành tựu trí tuệ. Trong các Hiền thánhthành tựu trí tuệ, Ta là tối thượng thủ. Nay Ta quán sátý nghĩa này rồi, lại càng vui thích hơn khi sống ở nơi vắngvẻ.
“KhiTa sống ở nơi vắng vẻ, lúc đó, giả sử cây cối gãy đổ,chim thú chạy bay, bấy giờ Ta nghĩ thầm: ‘Đây là khu rừngđáng kinh sợ.’ Rồi lại nghĩ thầm, ‘Nếu có điều kinhsợ xảy đến, Ta sẽ tìm cầu phương tiện khiến nó khôngxảy đến nữa.’ Khi Ta đi kinh hành, nếu có sự kinh sợxảy đến, lúc này, Ta cũng không ngồi, nằm; chỉ khi nàotrừ được sự kinh sợ, sau đó mới ngồi, nằm. Khi Ta đứng,nếu sự kinh sợ xảy đến, lúc ấy Ta không kinh hành, cũngkhông ngồi xuống, chỉ khi nào trừ được sự kinh sợ, sauđó mới ngồi. Khi Ta ngồi, nếu sự kinh sợ xảy đến, lúcấy Ta không kinh hành, chỉ khi nào trừ được sự kinh sợ,rồi sau mới ngồi. Khi Ta nằm, nếu sự kinh sợ xảy đến,lúc ấy, Ta không kinh hành, cũng không ngồi, chỉ khi nào trừđược sự kinh sợ, sau đó mới ngồi.
“Bà-la-mônnên biết, những Sa-môn, Bà-la-môn nào không hiểu đạo lýban ngày với ban đêm, nay Ta nói người ấy rất ngu si.[244]Nhưng Ta, này bà-la-môn, hiểu đạo lý ở trong ban ngày vàban đêm, thêm có tâm dũng mãnh, cũng không hư vọng, ý khôngthác loạn, hằng chuyển nhất tâm, không tưởng tham dục,có tầm có tứ, có hỷ lạc do viễn ly sanh,[245] nhập sơ thiền.Đó là, này bà-la-môn, tâm thứ nhất Ta sống an lạc tronghiện pháp.[246]
“Trừtầm và tứ, nội tâm tịch tĩnh, chuyên nhất ý, không tầm,không tứ, có hỷ lạc do định sinh, chứng nhập và an trúnhị thiền, nhập nhị thiền. Đó là, này bà-la-môn, Ta tâmthứ hai sống an lạc trong hiện pháp.[247]
“Taly hỷ, an trú xả, hằng tự giác tri, thân có tri giác lạc,điều mà các hiền thánh nói là xả, niệm, an trú lạc,nhập tam thiền. Đó là, này bà-la-môn, tâm thứ ba sống anlạc trong hiện pháp.[248]
“Lạinữa, khổ, lạc đã trừ, ưu và hỷ từ trước đã trừ,không lạc không khổ, xả, niệm thanh tịnh, nhập tứ thiền.Đó là, này bà-la-môn, tâm tăng thượng thứ tư mà Ta tựgiác tri, tâm ý an trú.
“KhiTa đang sống ở nơi vắng vẻ, có bốn tâm tăng thượng này,Ta do tâm tam-muội này, thanh tịnh không tỳ vết, cũng khôngkết sử, được không sợ hãi, tự biết túc mạng một đời,hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươiđời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, trămđời, nghìn đời, kiếp thành hoại đều phân biệt hết.Ta từng sinh chỗ nọ, tên gì, họ gì, ăn thức ăn như thế,chịu khổ vui như thế , v.v.. Từ đó Ta chết mà sinh nơi này,chết đây sinh kia, nhân duyên gốc ngọn đều rõ ràng hết.
“Bà-la-mônnên biết, vào đầu hôm Ta đắc được [666c01] minh thứ nhất,trừ vô minh, không u tối nữa, tâm ưa sống nơi vắng vẻmà tự giác tri.
“Lạinữa, với tâm tam-muội không tỳ vết, không kết sử, tâmý tại định, được không sợ hãi mà biết chúng sanh ngườisinh, người chết. Ta lại dùng thiên nhãn quán chúng sanh ngườisinh, người chết, sắc lành sắc dữ, cõi lành, đường dữ,hoặc tốt, hoặc xấu, tuỳ hạnh thiện ác đều phân biệthết. Có các chúng sanh thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩác, phỉ báng Hiền thánh, hằng ôm tà kiến, tương ưng vớità kiến, khi thân hoại mạng chung sinh trong địa ngục. Cócác chúng sanh thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành,không phỉ báng Hiền thánh, hằng tu chánh kiến, tương ưngvới chánh kiến, khi thân hoại mạng chung sinh đường lànhlên trời. Ta lại dùng thiên nhãn thanh tịnh không tỳ vếtquán chúng sanh người sinh, người chết, sắc lành, sắc dữ,đường lành, đướng ác, hoặc tốt hay xấu, các hạnh bổnTa đều biết rõ.
“Bà-la-mônnên biết, vào lúc giữa đêm, Ta được minh thứ hai, khôngcòn tăm tối, tự giác tri, vui sống ở nơi vắng vẻ.
“Ta,lại với tam-muội thanh tịnh không tỳ vết, cũng không kếtsử, tâm ý được định, được không sợ hãi, được tâmdiệt tận lậu, cũng biết như thật không hư dối, rằng ‘Đâylà khổ.” Ngay khi ấy, Ta được tâm này, tâm được giảithoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu; sau khi giảithoát, liền được trí giải thoát, biết như thật rằng,sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong,không còn tái sinh, như thật mà biết.
“Đólà, này bà-la-môn, Ta cuối đêm được minh thứ ba, không utối nữa.
“Thếnào, này bà-la-môn, có tâm này chăng, Như Lai có tâm dục,tâm sân hận, tâm ngu si chưa dứt, khi sống ở nơi vắng vẻ?Này bà-la-môn, chớ xem như thế. Vì sao thế? Vì ngày nay NhưLai vĩnh viễn diệt trừ các lậu, hằng ưa sống nơi thanhvắng, không sống giữa người đời. Hôm nay, Ta khi quán sáthai ý nghĩa này, thích sống nơi vắng vẻ. Thế nào là hai?Tự mình sống ở nơi vắng vẻ, và độ hết chúng sanh khôngthể tính kể.”[249]
Bấygiờ, bà-la-môn Sanh Lậu bạch Phật:
“Ngàiđã vì thương xót chúng sanh, độ cho tất cả.”
Rồibà-la-môn lại bạch Phật:
“Thôi,thôi, Thế Tôn! Những điều được nói đã quá nhiều. Vínhư người gù được thẳng, người mê được đường, ngườimù được mắt, trong tối thấy sáng. Cũng vậy, Sa-môn Cù-đàmdùng vô số phương tiện, vì con mà thuyết pháp. [667a01] Naycon xin quy y Phật, Pháp, Tăng. Từ nay về sau con thọ trì ngũgiới, không sát sanh nữa, làm Ưu-bà-tắc.”
Bấygiờ, bà-la-môn Sanh Lậu nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 2
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật ở vườn Cù-sư, ở Câu-thâm, nơi bốn đức Phậtđời quá khứ đã ở.
Bấygiờ, vua Ưu-điền[250] cùng phu phân Xá-di[251] và năm trămcô gái muốn đến vườn dạo chơi ngắm cảnh. Ngay khi ấy,trong thành Xá-vệ có một Tỳ-kheo nghĩ: ‘Ta xa Thế Tôn đãlâu, muốn đến lễ bái thăm hỏi.’
Đếngiờ, Tỳ-kheo đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực;ăn xong thu xếp y bát, toạ cụ. Ông lại dùng thần túc baylên hư không, đến nước Câu-thâm.[252] Tỳ-kheo ấy xả thầntúc, đi vào rừng, đến một chỗ vắng, ngồi kiết già tĩnhtoạ, chánh thân, chánh ý, buộc niệm ở trước. Khi ấy, phuphân Xá-di dẫn năm trăm cô gái đến rừng này. Phu nhân Xá-ditừ xa trông thấy Tỳ-kheo dùng thần túc đến ngồi dướibóng cây, liền đến trước Tỳ-kheo cúi lạy rồi chấp tayđứng trước, năm trăm cô gái đều cúi lạy và chấp tayđứng vây quanh.
Lúcấy, vua Ưu-điền từ xa trông thấy năm trăm cô gái chấptay đứng vây quanh Tỳ-kheo này, liền nghĩ: “Trong đây chắccó bầy nai, hoặc có các loài thú, chắc chắn không nghi.”Vua liền cỡi ngựa chạy mau đến đám phụ nữ. Phu nhân Xá-dixa thấy vua đến liền nghĩ: “Vua Ưu-điền cực kỳ hung ác,có thể hại Tỳ-kheo này.” Phu nhân bèn đưa tay mặt lêntâu vua:
“Đạivương nên biết, đây là Tỳ-kheo, chớ có kinh sợ.”
Vualiền xuống ngựa, bỏ cung, đến chỗ Tỳ-kheo, bảo Tỳ-kheo:
“Tỳ-kheo,thuyết pháp cho ta nghe!”
Tỳ-kheoấy đưa mắt trông vua, im lặng không nói.
Vualại bảo Tỳ-kheo:
“Mauthuyết pháp cho ta!”
Tỳ-kheolại đưa mắt nhìn vua, im lặng không nói.
Vualại nghĩ: “Nay ta hãy hỏi những sự việc ở trong thiền.Nếu thuyết cho ta, ta sẽ cúng dường, trọn đời thí cho yphục, [667b01] thức ăn uống, giường chõng, thuốc thang trịbệnh. Nếu chẳng thuyết cho ta, ta sẽ giết.” Vua lại bảoTỳ-kheo:
“Tỳ-kheo,thuyết pháp cho ta!”
Tỳ-kheokia vẫn im lặng không đáp.
Bấygiờ, thọ thần biết tâm vua, liền hoá ra một bầy nai ởđàng xa, muốn làm loạn tai mắt của vua khiến khởi nghĩchuyện khác. Khi ấy, vua thấy nai liền nghĩ: “Ta hãy bỏSa-môn này. Sa-môn rốt cuộc đi đâu cho khỏi.”
Vualiền cỡi ngựa đi bắn bầy nai. Phu nhân bèn thưa:
“NayTỳ-kheo đến đâu?”
Tỳ-kheonói:
“Tôimuốn đến trú xứ của bốn Phật, đến gặp Thế Tôn.”
Phunhân bạch:
“Tỳ-kheo,nay đã đúng lúc. Ngài mau đi đến đó, đừng ở đây nữa,sẽ bị vua hại thì tội vua rất nặng.”
Tỳ-kheoấy liền đứng lên xếp y bát bay lên hư không đi về phươngxa. Phu nhân thấy Tỳ-kheo bay cao trên hư không, bèn gọi vuanói:
“Kínhmong Đại vương, xem Tỳ-kheo này có đại thần túc. Ngay ởhư không vọt lên, ẩn mất tự tại. Nay Tỳ-kheo ấy còn cósức này, huống Phật Thích-ca Văn mà có thể bì kịp sao?”
Tỳ-kheoấy đến vườn Cù-sư, xả thần túc, bằng pháp bình thườngđến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tônhỏi Tỳ-kheo:
“Thếnào, Tỳ-kheo, nhập hạ ở thành Xá-vệ có nhọc nhằn chăng?Tuỳ thời khất thực có mệt mỏi không?”
Tỳ-kheođáp:
“Conở thành Xá-vệ không có gì mệt mỏi.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Hômnay cớ sao đến đây?”
Tỳ-kheobạch Phật:
“Concốt đến hầu thăm sức khỏe Thế Tôn.”
ThếTôn bảo:
“Nayngươi thấy Ta và trụ xứ của bốn đức Phật thời quákhứ đây chăng? Nay ngươi thoát khỏi tay vua, rất là đạikỳ! Sao ngươi không thuyết pháp cho vua? Lại nữa, vua Ưu-điềnnói: ‘Nay Tỳ-kheo hãy thuyết pháp cho ta. Nay cớ sao ông khôngthuyết pháp cho ta?’ Nếu Tỳ-kheo thuyết pháp cho vua, vua Ưu-điềnsẽ rất hoan hỷ. Đã hoan hỷ, vua sẽ suốt đời cúng dườngy phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh.”
Tỳ-kheobạch Phật:
“Vìvua muốn hỏi những sự việc ở trong thiền nên con khôngđáp nghĩa này.”
ThếTôn bảo:
“Tỳ-kheo!Tỳ-kheo sao không nói cho vua nghe những sự việc [667c0] ởtrong thiền?”
Tỳ-kheođáp:
“VuaƯu-điền dùng thiền này làm gốc; ôm lòng hung bạo, khôngcó tâm từ, sát hại chúng sanh vô kể, tương ưng với dục,ba độc lừng lẫy, chìm trong vực sâu, không thấy Chánh pháp,tập hoặc vô tri, nhóm đủ các ác, hành động kiêu mạn,ỷ thế lực vua, tham đắm tài bảo, khinh mạn người đời,mù không có mắt. Người này dùng thiền làm gì? Phàm phápthiền định là pháp vi diệu trong các pháp, khó thể giáctri, không có hình tướng, chẳng phải đem tâm lường được.Đây chẳng chỗ người thường đến được, chỉ ngườitrí mới biết. Vì những cớ này nên con không thuyết phápcho vua.”
Bấygiờ, Thế Tôn bảo:
“Nếuy cũ rách cần phải giặt mới sạch. Dục tâm cực thịnhcần nên quán tưởng bất tịnh, sau đó bèn trừ được. Nếusân giận thịnh thì dùng tâm từ trừ đi. U ám ngu si thì dùngpháp mười hai duyên sau đó trừ hết. Này Tỳ-kheo, cớ saokhông thuyết pháp cho vua Ưu-điền? Nếu thuyết pháp, vua sẽhết sức hoan hỷ. Ngay dù lửa cực mạnh vẫn có thể diệtđược, huống nữa là người?”
Tỳ-kheokia im lặng chẳng nói. Bấy giờ, Phật bảo Tỳ-kheo:
“NhưLai xử thế rất đặc biệt. Dù trời, rồng, quỷ thần, càn-thát-bà,ai hỏi nghĩa Như Lai, Ta sẽ thuyết cho họ. Giả sử quốcvương đại thần, nhân dân hỏi nghĩa Như Lai, Ta cũng sẽthuyết cho họ. Nếu dòng sát- lợi, bốn chủng tánh, đếnhỏi nghĩa, Ta cũng sẽ thuyết pháp cho. Vì sao thế? Vì hômnay, Như Lai được bốn vô sở uý, thuyết pháp không có khiếpnhược; cũng được bốn thiền, trong đó tự tại, kiêm đắcbốn thần túc chẳng thể tính kể, hành bốn vô lượng tâm.Thế nên, Như Lai thuyết pháp không có khiếp nhược. La-hán,Bích-chi-phật không có thể kịp được. Thế nên, Như Laithuyết pháp không khó. Nay, các Tỳ-kheo, các ngươi hãy tìmphương tiện hành bốn vô lượngg tâm: từ, bi, hỷ, xả. Nhưthế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này. Vì sao Thế? Nếu Tỳ-kheovì chúng sanh, thiện tri thức được gặp, và tất cả chamẹ, tri thức, thân thuộc đều nhân lấy bốn sự dạy khiếnhọ biết pháp. Thế nào là bốn? Nên cung kính Phật là bậcNhư Lai, Chí chơn Đẳng chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ,Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, ThiênNhân sư, Phật Thế tôn, độ người vô lượng.
“Hãynên cầu pháp, tu hành [668a01] pháp chính chân, trừ bỏ hànhuế ác. Đây là điều mà bậc trí giả tu hành.
“Hãytìm cầu phương tiện cúng dường chúng Tăng. Chúng của NhưLai thường hoà hợp nhau không có tranh tụng, pháp tùy phápthành tựu, giới thành tựu, tam-muội thành tựu, trí tuệthành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát tri kiến thànhtựu. Đó là bốn đôi, tám bậc, mười hai hiền sĩ. Đâylà Thánh chúng của Như Lai, đáng tôn đáng quí, là ruộngphước vô thượng của Thế gian.
“Lạinên khuyến trợ khiến hành pháp luật Hiền Thánh, không nhiễmô, tịch tĩnh vô vi. Nếu có Tỳ-kheo nào muốn hành đạo,nên hành đủ pháp bốn sự[253] này. Vì sao thế? Vì pháp cúngdường Tam bảo, tối tôn, tối thượng không ai sánh kịp.Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 3
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng câyKỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Cóbốn hành tích của sự.[254] Thế nào là bốn? Có hành tíchlạc mà sở hành ngu hoặc;[255] đây là hành tích thứ nhất.Có hành tích lạc mà sở hành nhanh chóng; có hành tích khổmà sở hành ngu hoặc; có hành tích khổ mà sở hành nhanh chóng.
“Thếnào gọi là lạc hành tích, sở hành ngu hoặc? Hoặc có mộtngười tham dục, sân giận, ngu si lừng lẫy, sở hành rấtkhổ không tương ưng với gốc của hạnh. Người ấy nămcăn ngu tối không được lanh lợi. Thế nào là năm? Đó làtín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Nếu đemý ngu để cầu tam-muội dứt hữu lậu, đấy gọi là lạchành tích, độn căn đắc đạo.
“Thếnào gọi là hành tích lạc, sở hành nhanh chóng? Hoặc có mộtngười không dục, không dâm, hằng tự giảm bớt tham dụckhông ân cần; sân hận, ngu si rất giảm thiểu. Năm căn lanhlợi, không buông lung. Thế nào là năm? Nghĩa là tín căn, tấncăn, niệm căn, định căn, tuệ căn; đó là năm căn. Có đượcnăm căn, thành tựu tam-muội, diệt tận hữu lậu thành vôlậu. Đó gọi là bằng lợi căn mà hành nơi đạo tích.
“Thếnào gọi là hành tích khổ, sở hành ngu hoặc? Hoặc có mộtngười lòng dâm quá nhiều; sân giận, ngu si lừng lẫy. Ngườiấy sống với pháp này mà dứt sạch hữu lậu, thành tựuvô lậu. Đó gọi là khổ hành tích độn căn.
“Thếnào gọi là hành tích lạc, sở hành nhanh chóng? Hoặc có mộtngười ít dục, ít dâm, không sân hận, cũng không khởi tưởnghành ba việc này. Lúc ấy, năm căn này không thiếu sót. Thếnào là năm? Nghĩa là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn,tuệ căn; đó là năm. Người ấy bằng pháp này mà đượctam-muội, dứt hữu lậu thành vô lậu. Đó gọi là khổ hànhlợi căn.
“Đólà, này Tỳ-kheo, có bốn hành tích này. Hãy tìm cầu phươngtiện bỏ ba hành tích trước, vâng hành một hành sau. Vì cớsao? Vì với khổ hành tích, khó đắc tam-muội. Khi đã đắc,liền thành đạo, tồn tại lâu ở đời. Vì sao thế? Chẳngthể đem lạc cầu lạc, do khổ mà sau mới thành đạo. Thếnên, này các Tỳ-kheo, hãy thường dùng phương tiện thànhtựu hành tích này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điềunày.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 4
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật ở thành La-duyệt, trong khu Ca-lan-đà, Trúc viên,cùng với đại chúng năm trăm Tỳ-kheo.
Bấygiờ, bốn bà-la-môn cùng đắc ngũ thông, tu hành pháp lành,ở chung một chỗ, bàn luận với nhau rằng: “Lúc thần chếtđến, chẳng tránh người mạnh khoẻ. Mỗi người hãy ẩnnấp khiến thần chết không biết chỗ đến.”
Sauđó, một bà-la-môn bay lên không trung, muốn được khỏi chết;nhưng tránh chẳng khỏi, mà chết ở không trung. Vị bà-la-mônthứ hai lặn xuống đáy biển lớn, muốn được khỏi chết,nhưng chết ở đó. Bà-la-môn thứ ba muốn khỏi chết, chuivào lòng núi Tu-di và chết trong đó. Bà-la-môn thứ tư chuixuống đất, đến biên tế kim cang, muốn được thoát chết,lại chết ở đó.
Bấygiờ, Thế Tôn dùng thiên nhãn xem thấy bốn bà-la-môn, mỗingười đều tránh chết mà thảy đều chết. Thế Tôn liềnnói kệ:
Khôngphải hư không, biển,
Khôngphải vào hang đá,
Khôngcó địa phương nào,
Thoátkhỏi không bị chết.[256]
Bấygiờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ởđây, này Tỳ-kheo, có bốn vị bà-la-môn, tụ tập một nơi,muốn được khỏi chết. Mỗi người quay tìm chỗ chạy màkhông [668c01] khỏi chết. Một người ở hư không, một ngườivào biển lớn, một người vào lòng núi, một người xuốngđất, đồng chết hết. Thế nên, các Tỳ-kheo, muốn đượckhỏi chết, nên tư duy bốn pháp bổn.[257] Thế nào là bốn?
“Tấtcả hành vô thường; đó là pháp bổn thứ nhất, hãy niệmtưởng tu hành. Tất cả hành là khổ, đó là pháp bổn thứhai, hãy nên tư duy. Tất cả pháp vô ngã; đây là pháp bổnthứ ba, hãy nên tư duy. Niết-bàn là diệt tận; đây là phápbổn thứ tư, hãy nên cùng tư duy. Như thế, này các Tỳ-kheo,hãy cùng tư duy bốn pháp này. Vì sao thế? Vì sẽ thoát sanh,già, bệnh, chết, sầu lo não khổ. Đây là nguồn của khổ.Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 5
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng câyKỳ-đà, nước Xá-vệ.
Bấygiờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“TrờiTam thập tam có bốn vườn cảnh để ngắm. Chư thiên ở đóvui chơi hưởng vui ngũ dục. Bốn vườn gì? Vườn cảnh Nan-đà-bàn-na,[258]vườn cảnh Thô sáp,[259] vườn cảnh Trú dạ,[260] vườn cảnhTạp chủng.[261]
“Trongbốn vườn có bốn ao tắm, ao tắm rất mát, ao tắm hươngthơm, ao tắm nhẹ nhàng, ao tắm trong suốt. Thế nào là bốn?Ao tắm Nan-đà,[262] ao tắm Nan-đà đảnh, ao tắm Tô-ma;[263]ao tắm Hoan duyệt.[264] Tỳ-kheo nên biết, trong bốn vườncó bốn ao tắm này khiến người thân thể thơm sạch, khôngcó bụi bặm.
“Vìsao gọi là vườn Nan-đà-bàn-na? Nếu Trời Tam thập tam vàovườn Nan-đà-bàn-na, tâm tánh sẽ vui vẻ không dừng được;ở đó vui chơi, nên gọi là vườn Nan-đa-bàn-na.
“Vìsao gọi là vườn Thô sáp? Nếu Trời Tam thập tam vào trongvườn này, thân thể sẽ hết sức thô. Ví như mùa đông lấyhương bôi lên thân, thân hết sức thô, chẳng như lúc thường.Vì thế nên gọi là vườn Thô sáp.
Saogọi là vườn Trú dạ? Khi Trời Tam thập tam vào trong vườnnày, nhan sắc chư Thiên sẽ khác nhau, tạo bao nhiêu hình thể,ví như phụ nữ mặc các loại áo xiêm, chẳng giống lúc thường.Đây cũng như thế. Nếu Trời Tam thập tam vào trong vườnsẽ trở thành các hình sắc không giống lúc thường. Vì thếnên gọi là vườn Trú dạ.
“Vìsao gọi là vườn Tạp chủng? Bấy giờ, các vị trời tônquý nhất, và trời bậc trung và trời bậc thấp, khi vào trongvườn này đều trở thành giống nhau. Nếu là trời thấpnhất thì không được vào ba vườn kia. Ví như vườn củaChuyển luân Thánh vương vào, các vua khác không được vàovườn tắm rửa. Còn nhân dân chỉ có thể đứng xa nhìn.Đây cũng như thế, nếu chỗ Trời thần cao nhất vào tắmrửa, các Trời nhỏ khác không được vào. Thế nên, gọilà vườn Tạp chủng.[265]
“Vìsao gọi là ao tắm Nan-đà? Nếu Trời Tam thập tam vào trongvườn này, lòng sẽ rất vui vẻ. Thế nên gọi là ao tắmNan-đà.
“Vìsao gọi là ao tắm Nan-đà đảnh? Nếu Trời Tam thập tam vàotrong vườn này, từng cặp hai người nắm tay chà trên đỉnhđầu mà tắm. Ngay trong Thiên nữ cũng làm như thế. Do đógọi là ao tắm Nan-đà dảnh.
“Vìsao gọi là ao tắm Tô-ma? Nếu Trời Tam thập tam vào trong aotắm này, bấy giờ, nhan mạo chư Thiên đều giống như người,không có đa dạng. Thế nên gọi ao tắm Tô-ma.
“Vìsao gọi là ao tắm Hoan duyệt? Nếu Trời Tam thập tam vào trongao này sẽ đều không có lòng kiêu mạn cao thấp, tâm dâmgiảm bớt, bấy giờ đồng nhất tâm mà tắm. Thế nên gọilà ao tắm Hoan duyệt.
“Đólà, này Tỳ-kheo, có nhân duyên này, có tên này.
“Naytrong Chánh pháp của Như Lai cũng lại như thế. Có tên bốnvườn. Thế nào là bốn? Vườn Từ, vườn Bi, vườn Hỷ,vườn Xả*. Đó là, Tỳ-kheo, trong chánh pháp Như Lai có bốnvườn này.
“Tạisao gọi là vườn Từ? Tỳ-kheo nên biết, do vườn Từ nàymà sinh lên trời Phạm thiên; từ cõi trời Phạm thiên đóchết đi, sinh trong nhà hào quý, nhiều tiền lắm của, hằngcó vui ngũ dục, an trú chưa từng rời mắt. Thế nên gọilà vườn Từ.
“Vìsao gọi là vườn Bi? Tỳ-kheo nên biết, nếu hay thân cậntâm bi giải thoát thì sinh cõi trời Phạm Quang Âm. Nếu sinhtrở lại trong [69b01] loài người thì sinh nhà tôn quí, khôngcó sân giận, cũng nhiều tiền lắm của. Vì thế nên gọilà vườn Bi.
“Vìsao gọi là vườn Hỷ? Nếu người hay thân cận vườn Hỷthì sinh trời Quang âm. Nếu sinh trở lại trong loài ngườithì sinh nhà Quốc vương, lòng thường hoan hỷ. Vì thế nêngọi là vười Hỷ.
“Vìsao gọi là vườn Xả*? Nếu người thân cận vườn xả thìsẽ sinh trời Vô tưởng, thọ bốn vạn tám nghìn kiếp. Nếulại sinh trong loài người thì sinh nhà ở chốn trung ương,cũng không sân hận, hằng xả[266] tất cả hành phi pháp. Vìthế nên gọi là vườn Xả.
“Tỳ-kheonên biết, trong Chánh pháp Như Lai có bốn vườn này khiếncác Thanh văn được dạo chơi trong ấy. Trong bốn vườn nàycủa Như Lai có bốn hồ tắm để hàng Thanh văn của Ta tắmrửa, dạo chơi trong ấy, dứt hết hữu lậu thành tựu vôlậu, không còn trần cấu. Những gì là bốn? Hồ có tầm,có tứ; hồ tắm không tầm, không tứ; hồ tắm xả* niệm;[267]hồ tắm không khổ, không lạc.[268]
Thếnào là hồ tắm có tàm có tứ? Tỳ-kheo đắc sơ thiền, ởtrong các pháp hằng có tầm tứ, tư duy pháp trừ bỏ kếtsử triền cái, vĩnh viễn không còn dư tàn. Thế nên gọicó tầm có tứ.
Thếnào là hồ tắm không tầm không tứ? Tỳ-kheo đắc nhị thiền,diệt có tầm có tứ, lấy thiền làm thức ăn. Vì thế gọilà không tầm không tứ.
Thếnào gọi là hồ tắm xả* niệm? Tỳ-kheo đắc tam thiền[269],diệt có tầm có tứ; không tầm, không tứ, hằng xả* niệmtam thiền. Vì thế gọi là hồ tắm xả niệm.
Thếnào gọi là hồ tắm không khổ không lạc? Tỳ-kheo đắc tứthiền[270], cũng không niệm lạc, cũng chẳng niệm khổ; cũngkhông niệm pháp quá khứ, vị lai, chỉ dụng tâm ở trong pháphiện tại, thế nên gọi là hồ tắm không khổ không lạc.
“Dovậy, này các Tỳ-kheo, trong Chánh pháp của Như Lai có bốnhồ tắm này, để hàng Thanh Văn của Ta ở trong ấy tắm rửa,diệt hai mươi mốt kết, qua biển sinh tử, vào thành Niết-bàn.Thế nên, này các Tỳ-kheo, nếu muốn qua biển sinh tử này,hãy tìm cầu phương tiện diệt hai mươi mốt kết, vào thànhNiết-bàn. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy [669c01] học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 6[271]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng câyKỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Vínhư bốn con rắn độc lớn hết sức hung bạo được bỏchung trong một cái hộp. Nếu có người từ bốn phương đến,muốn sống, không muốn chết, muốn tìm vui không tìm khổ,chẳng ngu chẳng tối, tâm ý không rối loạn, không bị tróibuộc, khi ấy, nếu vua hay đại thần của vua gọi ngườinày bảo, ‘Nay có bốn con rắn độc lớn, hết sức hung bạo.Ông nên tùy thời nuôi nấng, tắm rửa chúng cho sạch; tùythời cho ăn uống, đừng để thiếu thốn. Nay là lúc thíchhợp, hãy đi mà làm đi!’
“Ngườikia trong lòng sợ hãi không dám tới thẳng trước, bèn bỏchạy mà không biết chạy đường nào. Người kia lại đượcbảo rằng, ‘Nay ta sai năm người cầm đao kiếm theo sau ông.Nếu họ bắt được sẽ dứt mạng ông. Không được chậmtrễ.’
“Ngườikia sợ bốn con rắn độc lớn, lại sợ năm người cầm đaokiếm, bèn phóng chạy tứ tung, không cần biết chạy đi đâu.Người kia lại được bảo rằng: ‘Nay ta lại sai sáu oangia theo sau ông. Ai bắt được ông sẽ dứt mạng ông. Muốnlàm gì hãy làm cho kịp thời!’
“Ngườikia sợ bốn con rắn độc lớn, lại sợ năm người cầm đaokiếm, lại sợ sáu oan gia, liền phóng chạy khắp nơi. Ngườikia khi thấy cái xóm hoang, muốn vào trong đó mà núp; nó gặpmột căn nhà trống, gặp tường vách đổ, không có gì chắcchắn; nó thấy một cái ghe trống, hoàn toàn không có gì.Khi ấy có người thân hữu với nó, muốn giúp đỡ nó chokhỏi nạn, liền bảo, ‘Xóm vắng này có nhiều giặc cướp,muốn làm gì thì cứ tùy ý.’
“Ngườikia đã sợ bốn rắn độc lớn, lại sợ năm người cầmđao kiếm, lại sợ oan gia, lại sợ cái xóm vắng, liền phóngchạy khắp nơi. Người ấy nhắm phía trước, thấy có consông lớn, vừa sâu vừa rộng, cũng không có người và cầuđò để có thể qua được bờ kia, mà chỗ người ấy đứnglại nhiều giặc cướp hung ác. Lúc đó, người ấy nghĩ,‘Sông này rất sâu rộng, nhiều giặc cướp, làm sao qua đượcbờ kia? Nay ta nên gom góp cây cối, cỏ rác làm bè, nươngvào bè này mà [670a01] từ bờ bên đây qua đến bờ bên kia.’Người ấy liền gom cây cỏ làm bè, rồi qua được bờ kia,chí không di động.
“CácTỳ-kheo nên biết, nay ta lấy ví dụ, nên khéo suy nghĩ. Nóinghĩa này là có nghĩa gì?
“Bốnrắn độc là bốn đại. Những gì là bốn đại? Đó là đất,nước, gió, lửa. Đó là bốn đại.
“Nămngười cầm kiếm tức năm thủ uẩn. Những gì là năm? Đólà sắc uẩn, thọ* uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
“Sáuoan gia là ái dục.
“Xómvắng là sáu xứ bên trong.[272] Thế nào là sáu? Đó là nhãnxứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Nếu ngườicó trí tuệ, khi quán mắt, thấy thảy đều trống không, khôngchỗ gì, hư dối, vắng lặng, không bền chắc. Khi quán tai,mũi, miệng, thân, ý, thấy đều trống không, đều rỗng lặng,cũng không bền chắc.
“Nướclà bốn bộc lưu. Thế nào là bốn? Dục bộc lưu, hữu bộclưu, vô minh bộc lưu, kiến bộc lưu.
“Bèlớn là tám đạo phẩm của Hiền Thánh. Thế nào là tám?Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh tinh tấn, chánhnghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh định. Đó là tám đạophẩm Hiền thánh.
“Muốnvượt qua nước là sức tinh tấn với phương tiện khéo léo.Bờ này là thân kiến.[273] Bờ kia là diệt thân kiến. Bờnày là quốc giới của vua A-xà-thế. Bờ kia là quốc giớicủa vua Tỳ-sa. Bờ này là quốc giới của Ba-tuần. Bờ kialà quốc giới của Như Lai.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 7
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng câyKỳ-đà, nước Xá-vệ cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trămngười.
Lúcấy trong thành Xá-vệ, có một Ưu-bà-tắc vừa mạng chungvà lại sinh trong nhà đại trưởng giả tại thành Xá-vệ.Vị phu phân lớn nhất mang thai. Thế Tôn dùng thiên nhãn thanhtịnh không tỳ vết để xem; thấy Ưu-bà-tắc này sinh trongnhà trưởng giả giàu nhất thành Xá-vệ. Ngay ngày đó lạicó bà-la-môn thân hoại mạng chung sinh trong địa ngục. ThếTôn cũng dùng thiên nhãn xem thấy. Cũng ngay ngày đó, trưỏnggiả Cấp Cô Độc mạng chung, sinh cõi thiện, lên trời. ThếTôn cũng dùng thiên nhãn xem thấy. Ngay ngày hôm đó, cũng cómột Tỳ-kheo [670b01] chứng nhập Niết-bàn, Thế Tôn cũng bằngthiên nhãn mà nhìn thấy.
Bấygiờ, Thế Tôn thấy bốn việc này rồi, liền nói kệ này:
Nếungười thọ bào thai,
Hànhác vào địa ngục;
Ngườilành sinh lên trời.
Vôlậu nhập Niết-bàn.
Nayngười hiền thọ thai.
Bà-la-mônvào địa ngục.
Tu-đạtsinh lên trời.
Tỳ-kheothì diệt độ.
Bấygiờ, Thế Tôn rời tĩnh thất, đến giảng đường Phổ tậpmà ngồi. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Naycó bốn việc mà nếu người tu hành theo thì khi thân hoạimạng chung sẽ được sinh trong loài người. Thế nào là bốn?Người mà thân, miệng, ý và mạng thanh tịnh không tỳ vết,lúc mạng chung sẽ được sinh trong loài người.
“NàyTỳ-kheo, lại có bốn pháp mà ai tập hành, người đó sẽvào trong địa ngục. Thế nào là bốn? Thân, miệng, ý, vàmạng không thanh tịnh. Đó là, này Tỳ-kheo, có bốn pháp nàymà ai thân cận thì khi thân hoại mạng chung sẽ sinh vào trongđịa ngục.
“Lạinữa, này Tỳ-kheo, lại có bốn pháp mà nếu ai tu tập hànhtheo thì sẽ sinh cõi lành, lên trời. Thế nào là bốn? Bốthí, nhân ái, lợi người, đồng lợi.[274] Đó là, này Tỳ-kheo,ai hành pháp này, khi thân hoại mạng chung sẽ sinh cõi lành,lên trời.
“Lạinữa, này Tỳ-kheo, lại có bốn pháp nếu ai tập hành theo,khi thân hoại mạng chung, diệt tận hữu lậu, thành tựu vôlậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, như thật biết rằng,sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong,không còn tái sinh nữa. Thế nào là bốn? Thiền có tầm cótứ; thiền không tầm, không tứ; xả* niệm; thiền khổ lạcdiệt.[275] Đó là, này Tỳ-kheo, có bốn pháp này, nếu ai tutập thực hành theo đó thì sẽ diệt tận hữu lậu, thànhtựu vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, như thật biếtrằng, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đãxong, không còn tái sinh nữa.
“Thếnên, này các Tỳ-kheo, thiện gia nam tử trong bốn bộ chúng,muốn sinh trong loài người, hãy tìm cầu phương tiện hànhthân, miệng, ý, mạng thanh tịnh. Nếu muốn được sinh lêncõi trời, cũng hãy tìm cầu phương tiện hành bốn ân huệ.[276]Nếu muốn được hết hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giảithoát, trí tuệ giải thoát, cũng hãy tìm cầu phương tiệnhành bốn thiền. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điềunày.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo [670c01] nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 8[277]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, Phật ngoài thành Tỳ-xá-ly, trong một khu rừng. Bấygiờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Xưa,lúc Ta chưa thành đạo, lúc ấy, Ta sống trong núi Đại úy.[278]Nếu ai có lòng dục hay không lòng dục mà vào trong núi này,taòn thân lông dựng ngược. Lại gặp lúc quá nóng nực, sóngnắng tung hoành, Ta cởi trần mà ngồi, ban đêm thì vào rừngsâu. Lúc trời quá lạnh, gió mưa dồn dập thì ban ngày Tavào trong rừng, ban đêm ngủ ngoài trời. Bấy giờ, Ta hay tụngmột bài kệ mà xưa chưa từng nghe, chưa từng thấy:
Lạnhlẽo, đêm nghỉ
Trongnúi Đại uý;
Thânthể cởi trần:
Tađã thệ nguyện.[279]
“HoặcTa đến gò mả để lấy áo người chết che mình. Bấy giờ,có người xóm Án-trá[280] đến lượm nhánh cây đâm vào taiTa hay thọc vào mũi Ta. Có người khạc nhổ, có người đitiểu hoặc lấy đất bôi lên mình Ta. Nhưng Ta trọn khôngnghĩ gì về họ. Lúc ấy, Ta có tâm xả này.
“Bấygiờ, tại chỗ chuồng bò, nếu thấy phân bê, Ta liền lấyăn. Nếu không có phân bê, Ta liền ăn phân bò. Khi ăn mónnày, Ta nghĩ: ‘Nay ăn để làm gì? Hãy nhịn trọn ngày.’Lúc Ta nghĩ vậy, chư thiên đến chỗ Ta bảo, ‘Nay Ngài chớnhịn ăn nữa. Nếu Ngài nhịn, tôi sẽ đem cam lồ, tinh khígiúp Ngài sống.’ Ta lại nghĩ: ‘Đã nhịn ăn sao lại đểchư thiên đem cam lồ cho Ta? Đó là sự dối trá.’ Rồi Talại nghĩ: ‘Nay Ta có thể ăn các thứ mè, gạo bỏ dư.’Bấy giờ, mỗi ngày Ta ăn một hạt mè, một hạt gạo, thânhình liệt nhược, xương cốt dính nhau. Trên đỉnh đầu mọcmụt nhọt, da thịt rơi rớt. Ví như trái bầu khô vỡ, khônglành lặn, đầu Ta lúc ấy cũng thế, trên đỉnh mọc nhọt,da thịt rơi rớt, do không ăn. Cũng như tinh tú hiện trong giếngsâu; lúc ấy, mắt Ta cũng thế, đều vì không ăn. Ví nhưxe cũ [671a01] hư nát, thân Ta cũng thế, tất cả đều hư hỏngkhông thể theo ý mình. Cũng như dấu chân lạc đà, hai xươngcùng của Ta cũng thế. Nếu khi Ta lấy tay đè bụng, liềnđụng xương sống. Nếu lúc đè xương sống, liền đụngda bụng. Thân thể ốm yếu đều vì không ăn. Bấy giờ, Tađã dùng một hạt mè, một hạt gạo làm thức ăn mà trọnvô ích, chẳng được pháp thượng tôn. Nếu muốn đại, tiểutiện, Ta liền té xuống đất, không tự đứng lên được.
“Bấygiờ, chư thiên trông thấy liền nói, ‘Sa-môn Cù-đàm đãdiệt độ!’ Lại có chư thiên nói, ‘Sa-môn này chưa chết,nay ắt phải chết.’ Có chư thiên lại nói, ‘Sa-môn nàykhông phải chết! Sa-môn này thực là A-la-hán. Pháp La-hánthường có khổ hành này.’
“Bấygiờ, Ta còn thần thức, biết được chuyện bên ngoài. Talại nghĩ: ‘Nay lại nhập vào thiền không hơi thở.’ VàTa liền nhập vào thiền không hơi thở, đếm hơi thở ra vào.Ta do đếm hơi thở ra vào, giác biết có hơi từ lỗ tai ra.Khi ấy, tiếng gió như tiếng sấm. Ta lại nghĩ: ‘Nay Ta ngậmmiệng, bịt tai cho hơi thở không ra.’ Hơi thở vì không rađược, khi đó hơi thở theo chân và tay mà ra. Giả sử khihơi không ra từ tai, mũi, miệng, bấy giờ, bên trong như tiếngsấm rền. Ta cũng thế, khi ấy thần thức vẫn còn chuyểntheo thân.
Talại nghĩ: ‘Ta hãy nhập lại thiền nín thở.’ Khi ấy, Taphong bế hết các lỗ thở. Ta vì phong bế các hơi thở ravào, đầu trán liền đau nhức như có người lấy dùi màdùi đầu. Ta cũng vậy, đầu đau rất khổ sở.
“Bấygiờ, Ta vẫn còn thần thức. Ta lại nghĩ: ‘Nay Ta nên ngồi[671b01] thiền, dứt hơi thở, không cho hơi thở ra vào.’ Khiấy, Ta liền bít hơi thở ra vào. Các hơi thở dồn xuốngbụng. Lúc hơi thở chuyển động hết sức nhỏ nhiệm, nhưđồ tể cầm đao giết bò, Ta cũng vậy, hết sức đau đớn.Cũng như một người yếu đuối bị hai người mạnh khỏenắm lấy đem nướng trên lửa, đau đớn chịu không nỗi.Ta cũng vậy, khổ đau này không thể trình bày đầy đủ.
“Bấygiờ, Ta vẫn có thần thức. Ngày ngày Ta ngồi thiền, thânthể không có màu sắc giống người. Có người trông thấynói, ‘Sa-môn này có màu da quá đen.’ Có người thấy nói,‘Sa-môn này có da như màu chàm.’[281]
“Tỳ-kheo,nên biết, trong sáu năm tu hành khổ hạnh này mà chẳng đượcphép thượng tôn, bấy giờ, Ta nghĩ: ‘Nay Ta nên ăn mỗi ngàymột trái cây.’ Ta liền ăn một trái. Khi Ta ăn ngày mộttrái, thân hình yếu đuối, không thể tự đi đứng, như mộttrăm hai mươi tuổi, đốt xương rời rạc, chẳng thể nângđỡ. Tỳ-kheo nên biết, một quả khi ấy bằng một trái táonhỏ bây giờ. Bấy giờ, Ta lại nghĩ: ‘Đây chẳng phảicăn bản Ta thành đạo. Hẵn phải có con đường khác.’
“Talại nghĩ: ‘Ta nhớ lại ngày xưa ở dưới gốc cây củaPhụ vương, không dâm, không dục,[282] trừ bỏ pháp ác bấtthiện, nhập sơ thiền. Không tầm không tứ, nhập nhị thiền.[283]Xả[284] niệm thanh tịnh, không có các tưởng, nhập tam thiền.[285]Không khổ lạc, xả niệm thanh tịnh,[286] nhập tứ thiền.Có thể đây là đạo. Nay Ta nên tìm đạo này.’
“Trongsáu năm, Ta cầu đạo cần khổ mà không thành tựu, hoặcnằm trên gai góc, hoặc nằm trên ván đóng đinh sắc, hoặctreo thân thể cách xa mặt đất, hai chân ở trên, đầu chúcxuống, hoặc tréo chân, ngồi chồm hỗm, hoặc để râu tócdài không hề cạo hớt, hoặc ngày phơi lửa thiêu đốt, hoặcthời tiết đông lạnh ngồi trên băng, thân thể chìm trongnước, hoặc lặng lẽ không nói, hoặc có lúc một ngày ănmột bữa, hoặc hai ngày ăn một bữa, hoặc ba ngày một bữa,hoặc bốn ngày một bữa, cho đến bảy ngày một bữa, hoặcăn rau trái, hoặc ăn lúa mè, hoặc ăn rễ cỏ, hoặc ăn tráicây, hoặc ăn hương hoa, hoặc ăn các thứ quả, củ. Có lúcở trần, có lúc mặc y rách nát, hoặc đắp y bằng cỏ gấu,hay đắp y lông da, có lúc lấy tóc người che thân, có lúcđể tóc dài, có lúc lấy tóc người khác đội thêm.
“Nhưthế Tỳ-kheo, khi xưa Ta khổ hành đến như vậy mà chẳngthu hoạch được căn bản của bốn pháp. Thế nào là bốn?Nghĩa là giới luật Hiền thánh khó tỏ, khó biết; trí tuệHiền thánh khó tỏ, khó biết; giải thoát Hiền Thánh, khótỏ, khó biết; tam-muội Hiền thánh[287] khó tỏ, khó biết.Đó là, này Tỳ-kheo, có bốn pháp này. Xưa Ta khổ hạnh chẳngđược cốt yếu này.
“Bấygiờ, Ta lại nghĩ, ‘Nay Ta cần phải [671cb01] tìm cầu đượcđạo vô thượng. Thế nào là đạo vô thượng? Đó là hướngvề bốn pháp này: Giới luật Hiền thánh, tam-muội Hiền thánh,trí tuệ Hiền thánh, giải thoát Hiền thánh.’
“RồiTa lại nghĩ, ‘Chẳng thể đem thân ốm yếu này mà cầu đạothượng tôn. Ta nên ăn chút ít để được khí tinh vi, nuôinấng thân thể, khí lực mạnh mẽ. Sau đó mới tu hành đắcđạo.’
“Ngaykhi Ta ăn chút ít, được khí tinh vi, năm Tỳ-kheo bỏ Ta màđi, ‘Sa-môn Cù-đàm này tánh hạnh thác loạn, bỏ chân pháptheo nghiệp tà.’
“Lúcđó, Ta từ chỗ ngồi đứng dậy, kinh hành theo hướng đông.Ta lại nghĩ, ‘Chỗ thành đạo của hằng sa chư Phật đờiquá khứ là ở đâu?’ Ngay khi ấy, phía trên Ta, có thiênthần đứng giữa hư không, nói vói Ta rằng, ‘Hiền sỹ,nên biết, hằng sa chư Phật quá khứ ngồi dưới bóng mátcây đạo thọ mà thành Phật.’ Rồi Ta lại nghĩ, ‘Ngồichỗ nào mà được thành Phật?’ Chư thiên lại bảo Ta, ‘Quákhứ hằng sa chư Phật ngồi trên đệm cỏ, rồi sau đó mớithành Phật.’
“Khiấy, cách Ta không xa, có bà-la-môn Cát Tường cắt cỏ mộtbên. Ta liền đến đó hỏi, ‘Ông là ai? Tên gì? Có họ gì?’Bà-la-môn đáp, ‘Tôi tên Cát Tường, [288] họ Phất tinh.’[289]
“Tabảo người ấy, ‘Lành thay, lành thay! Tên họ như thế rấthiếm có trên đời. Họ tên không dối mới thành hiệu này.Cầu mong cho ông đời hiện tại tốt lành, không điều gìbất lợi, trừ sạch sanh, già, bệnh, chết. Ông họ Phấttinh, thật phù hợp với Ta. Nay Ta muốn xin ít cỏ.’ Cát Tườnghỏi, ‘Cù-đàm dùng cỏ để làm gì?’ Ta đáp Cát Tường,‘Ta muốn trải dưới cây Thọ vương để cầu bốn pháp.Thế nào là bốn? Đó là giới luật Hiền thánh, tam-muộiHiền thánh, trí tuệ Hiền thánh, giải thoát Hiền thánh.’
“Tỳ-kheonên biết, bây giờ Cát Tường tự thân đem cỏ trải dướicây Thọ vương. Rồi Ta ngồi lên, chính thân, chính ý, ngồikiết già, buộc niệm ở trước. Bây giờ, tâm ý Ta cởi bỏtham dục, trừ các ác pháp, có tầm có tứ, nhập sơ thiền.Trừ diệt có tầm có tứ, tâm nhập nhị thiền, tam thiền;xả* niệm thanh tịnh, ưu hỷ trừ sạch, tâm nhập tứ thiền[290].
“Bấygiờ, Ta với tâm thanh tịnh, [672a01] trừ các kiết sử, đắcvô sở uý, tự biết túc mạng biến đổi vô số. Ta liềntự nhớ việc vô số đời, hoặc một đời, hai đời, bađời, bốn, năm đời, mười đời, hai mươi, ba mươi, bốnmươi, năm mươi, một trăm đời, nghìn đời, trăm nghìn, vạnđời; kiếp thành kiếp hoại, vô số kiếp thành, vô số kiếphoại, vô số kiếp thành hoại. Ta từng chết đây, sinh kia;từ kia mạng chung đến sinh nơi này; nguồn gốc nhân duyêngốc ngọn. Ta nhớ việc vô số đời như thế.
“Talại bằng thiên nhãn thanh tịnh, không tỳ vết, quán chúngsanh, kẻ sinh, người chết, cõi lành sắc lành, cõi ác sắcác, hoặc đẹp hay xấu tùy hành nghiệp từ trước, Ta thảyđều biết rõ. Hoặc có chúng sanh do thân, miệng, ý hành ác,phỉ báng Hiền thánh, tạo gốc nghiệp tà, tương ưng vớità kiến, thân hoại mạng chung, sinh trong địa ngục. Hoặccó chúng sanh do thân, miệng, ý hành thiện không phỉ bángHiền thánh, tương ưng với chánh kiến, thân hoại mạng chungsinh ở nhân gian. Đó là chúng sanh mà thân, miệng, ý khôngcó tà nghiệp.
“Tado tâm tam-muội thanh tịnh không tỳ vết, dứt sạch hữu lậu,thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, như thậtbiết rằng, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làmđã xong, không còn tái sinh, liền thành vô thượng Chánh chơn.
“Nàycác Tỳ-kheo, hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn rõ biết các nẻo[291],nhưng những nẻo đường này, vốn ngày xưa Ta chưa có đườngnào chẳng đi, chỉ trừ chưa hề một lần sinh lên trời Tịnhcư vì ở đó không còn tái sinh trở lại cõi này. Hoặc vớimột số Sa-môn, Bà-la-môn, đó là chỗ đáng tái sinh nhưngTa chẳng sinh, vì không thích hợp. Vì đã sinh lên trời Tịnhcư thì không còn trở lại thế gian này nữa.
“Cácngươi đã đạt được giới luật Hiền thánh, Ta cũng đạtđược. Các ngươi đạt được tam-muội Hiền thánh, Ta cũngđạt được. Các ngươi đạt được giải thoát Hiền thánh,Ta cũng đạt được. Các ngươi đạt được giải thoát trikiến Hiền thánh, Ta cũng đạt được. Ta đã cắt dứt gốcrễ bào thai, sinh tử đã hết hẳn, không còn tái sinh.
“Thếnên, các Tỳ-kheo, hãy cầu phương tiện thành tựu bốn pháp.Vì sao thế? Vì nếu Tỳ-kheo nào được bốn pháp này thìthành đạo không khó. Như ngày nay, Ta thành Đạo vô thượngChánh chơn đều do bốn pháp này mà được thành quả. Nhưthế, các Tỳ-kheo, [672b01] hãy học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 9
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng câyKỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Quákhứ lâu xa, Trời Tam thập tam là Thích Đề-hoàn Nhân cùngcác ngọc nữ đến vườn Nan-đà-bàn-na dạo chơi. Có mộtvị trời làm kệ:
Khôngthấy vườn Nan-đàn,
Thìchẳng biết có vui.
Cácchỗ chư thiên ở,
Khôngđâu hơn nơi này.
Bấygiờ, có vị trời khác bảo vị trời ấy rằng:
“Ôngkhông có trí, không biết phân biệt chánh lý. Vật ưu khổmà ngược lại cho là vui. Vật không bền chắc mà nói làbền. Vật vô thường nói ngược là thường. Vật không lõichắc lại nói lõi chắc. Vì sao thế? Ông há không nghe NhưLai nói kệ sao?
Tấtcả hành vô thường.
Cósanh tất có chết.
Chẳngsanh thì không chết;
Diệtnày là vui nhất.
“Đãcó nghĩa này, lại có kệ này. Sao ông nói cõi này vui nhất?Nay ông nên biết, Như Lai cũng nói pháp bốn bộc lưu. Nếuchúng sanh chìm trong những dòng lũ này, trọn chẳng đắc đạo.Những gì là bốn? Nghĩa là dục bộc lưu, hữu bộc lưu, kiếnbộc lưu, vô minh bộc lưu.
“Thếnào gọi là dục bộc lưu? Đó là năm dục. Những gì là năm?Mắt thấy sắc khởi thức tưởng của mắt; tai nghe tiếngkhởi thức tưởng của tai, mũi ngửi mùi khởi thức tưởngcủa mũi, lưỡi nếm vị khởi thức tưởng lưỡi, thân biếtxúc chạm khởi thức tưởng thân. Đó gọi là dục bộc lưu.
“Thếnào là hữu bộc lưu? Đó là ba hữu. Thế nào là ba? Dụchữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Đó là hữu bộc lưu.
“Thếnào gọi là kiến bọc lưu? Chấp thế gian là thường, vôthường; thế gian là hữu biên, vô biên; có thân, có mạng;chẳng phải thân, chẳng phải mạng; Như Lai có chết, NhưLai không chết, hoặc Như Lai vừa chết Như Lai không chết,không phải Như Lai vừa chết cũng không phải Như Lai khôngchết. Đó gọi là kiến bộc lưu.
“Thếnào là [72c01] vô minh bộc lưu? Vô minh là không biết, khôngtin, không thấy; tâm ý tham dục, hằng mong cầu và có ngũcái: tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, trạo cửcái, nghi cái. Lại chẳng biết khổ, chẳng biết tập, chẳngbiết diệt, chẳng biết đạo. Đó gọi là vô minh bộc lưu.
“Thiêntử nên biết, Như Lai nói bốn dòng lũ này. Nếu có ai chìmvào đây thì chẳng thể đắc đạo.
“Bấygiờ, vị trời kia nghe lời này xong, trong khoảnh khắc nhưlực sĩ co duỗi cánh tay, từ trời Tam thập tam biến mất,đi đến chỗ Ta, cúi lạy rồi đứng một bên. Trời ấy bạchvới Ta:
“Lànhthay, Thế Tôn, khéo nói nghĩa này: Như Lai đã nói bốn dònglũ. Nếu phàm phu chẳng nghe bốn dòng lũ này thì chẳng đượcbốn an lạc. Thế nào là bốn? Đó là lạc do an chỉ,[292]lạc chánh giác, lạc của Sa-môn, lạc Niết-bàn. Nếu phàmphu chẳng biết bốn dòng lũ này thì chẳng được bốn anlạc này.
Nóivậy xong, Ta lại bảo:
“Thậtvậy, Thiên tử, như lời ông nói, nếu không biết đượcbốn dòng này thì không biết được bốn an lạc này.
“RồiTa tuần tự nói các đề tài cho vị trời kia, đề tài vềthí, đề tài về giới, đề tài về sanh thiên, dục là tưởngbất tịnh, là hữu lậu, là tai hoạn lớn, xuất yếu là anlạc.
“Bấygiờ, vị trời ấy đã phát tâm hoan hỷ, Ta liền diễn nóirộng về pháp bốn dòng lũ và nói về bốn an lạc. Khi ấy,vị trời kia chuyên tâm nhất ý tư duy pháp này, sạch cáctrần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Nay Ta cũng nói bốnpháp, bốn lạc này, để được pháp bốn đế. Như thế,này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 10
Tôinghe như vầy:
Mộtthời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng câyKỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nêntu tưởng vô thường, nên quảng bá tưởng vô thường. Đãtu tưởng vô thường, quảng bá tưởng vô thường thì đoạnái dục giới, ái sắc giới, ái vô sắc giới, đoạn tậnvô minh, đoạn tận kiêu mạn. Ví như đốt cháy cây cỏ, tấtcả đều dập tắt hết. Đây cũng vậy, nếu tu tưởng vôthường thì đoạn trừ hết tất cả kết sử. Vì sao thế?
“Ngàyxưa rất lâu, có một thiên tử đem năm trăm ngọc nữ, theonhau kẻ trước người sau, đến dạo chơi trong vườn Nan-đàn-bàn-na,chơi đùa dần dần đến dưới cây Ca-ni, [673a01] hưởng thúngũ dục. Rồi thiên tử kia leo lên cây chơi, hái hoa, tâm ýrối loạn, rơi xuống cây mà chết. Ông sinh trong nhà Trưởnggiả lớn trong thành Xá-vệ này. Bấy giờ, năm trăm ngọcnữ đấm ngực kêu gào không ngớt. Ta dùng thiên nhãn trôngthấy thiên tử chết sinh trong nhà đại trưởng giả, trongthành Xá-vệ. Qua tám chín tháng sinh một bé trai xinh đẹpvô song, như màu hoa đào. Con trưởng giả dần dần khôn lớn.Cha mẹ liền tìm vợ cho nó. Cưới vợ chưa bao lâu, nó lạichết, sanh trong biển lớn làm thân rồng. Bấy giờ, trong nhàtrưởng giả kia, cả nhà đều kêu khóc đau đớn rất thươngtâm. Rồng ấy lại bị chim cánh vàng ăn thịt, chết sinh trongđịa ngục, Bấy giờ, các long nữ lại thiết tha thương nhớvô tả.”
Bấygiờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Trờikia lúc hái hoa,
Tâmý loạn không an,
Nhưnước trôi thôn xóm,
Tấtchìm không vớt được.
Bấygiờ chúng ngọc nữ,
Vâyquanh mà khóc lóc,
Mặtmày rất xinh đẹp,
Yêuhoa mà mạng chung.
Loàingười cũng than khóc,
Mấtkhúc ruột của ta.
Vừabụng lại mạng chung.
Bịvô thường tan hoại.
Longnữ theo sau tìm,
Cácrồng đều tụ tập,
Bảyđầu thật dũng mãnh;
Bịchim cánh vàng hại.
Chưthiên cũng ưu sầu.
Loàingười cũng như thế.
Longnữ cũng sầu ưu.
Địangục chịu đau khổ.
Diệupháp bốn đế này
Màchẳng biết như thật.
Cósinh thì có chết,
Chẳngthoát biển sông dài.
Thếnên hãy khởi tưởng,
Tucác pháp thanh tịnh;
Tấtsẽ lìa khổ não;
Lạichẳng bị tái sinh.
“Thếnên, các Tỳ-kheo, hãy nên tu hành tưởng vô thường, quảngbá tưởng vô thường, sẽ đoạn dục ái, sắc ái, vô sắcái, cũng đoạn kiêu mạn, đoạn tận vô minh không dư tàn.Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 11
[673b01]Tôi nghe như vầy:
Mộtthời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng câyKỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, đệ tử Tôn giả Mục-liênvà đệ tử Tôn giả A-nan, hai người nói chuyện:
“Haichúng ta đồng tụng kinh xem ai hay hơn!”
Lúcấy, nhiều Tỳ-kheo nghe hai người thảo luận, bèn đến chỗThế Tôn, cúi lạy, rồi ngồi qua một bên. Các Tỳ-kheo bạchThế Tôn:
“Naycó hai người bàn luận: ‘Hai chúng ta cùng tụng kinh xem aihay!’”
ThếTôn bảo một Tỳ-kheo:
“Ngươiđi gọi hai Tỳ-kheo ấy đến đây.”
Tỳ-kheođáp:
“Kínhvâng, bạch Thế Tôn!”
Tỳ-kheovâng lời Phật dạy, đến hai người kia bảo họ:
“ThếTôn cho gọi hai ông.”
Haingười nghe Tỳ-kheo nói, liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạyrồi đứng một bên. Bấy giờ, Thế Tôn bảo hai người:
“Cácngươi ngu si! Các ngươi thực có nói: ‘Chúng ta cùng tụngkinh xem ai hay hơn’ không?”
Haingười đáp:
“Thậtvậy, bạch Thế Tôn!”
ThếTôn bảo:
“Cácngươi có nghe Ta nói pháp này: ‘Hãy cạnh tranh với nhau chăng?’Pháp như thế đâu khác bà-la-môn?”
CácTỳ-kheo đáp:
“Conchẳng nghe Như Lai nói pháp này.”
ThếTôn bảo:
“Tado không thuyết pháp này cho Tỳ-kheo, vì vậy mà các ngươitranh hơn thua chăng? Nhưng Pháp mà Ta thuyết hôm nay là muốncó người được hàng phục, có người được giáo hoá. Tỳ-kheonào lúc thọ lãnh pháp, hãy nhớ suy nghĩ bốn duyên, xem cótương ưng với Khế kinh, A-tỳ-đàm, Luật không? Nếu tươngưng, hãy nhớ vâng làm.”
Bậygiờ, Thế Tôn nói kệ:
Tụngnhiều việc vô ích;
Phápnày chẳng phải hay,
Nhưđi đếm số bò,
Chẳngthiết yếu Sa-môn.[293]
Nếutụng tập chút ít,
Nhưngthực hành theo pháp;
Phápnày là trên hết,
Đánggọi pháp Sa-môn.[294]
Tuytụng đến nghìn chương,
Khôngnghĩa đâu ích gì?
Chẳngbằng tụng một câu
Nghexong đắc đạo được.[295]
Tuytụng đến nghìn lời
Khôngnghĩa đâu ích gì?
Chẳngbằng tụng một nghĩa
Nghexong đắc đạo được.[296]
Dẫutại bãi chiến trường,
Thắngnghìn nghìn quân địch;
Tựthắng mình tốt hơn:
Chiếnthắng thật tối thượng.[297]
“Thếnên, này các Tỳ-kheo, từ nay về sau chớ nên tranh tụng, chớcó tâm hơn thua. Vì sao thế? Hãy nghĩ hàng phục tất cả mọingười. Nếu Tỳ-kheo có tâm hơn thua, tâm tranh tụng nhau màcùng cạnh tranh thì phải lấy pháp luật mà trị. Tỳ-kheo,vì thế hãy tự tu hành.”
HaiTỳ-kheo nghe Phật nói xong, liền từ chỗ ngồi đứng lên,cúi lạy Thế Tôn sám hối:
“Từnay về sau, chúng con không làm vậy nữa. Cúi xin Thế Tôn nhậnlời con hối lỗi.” Thế Tôn bảo:
“Trongđại pháp, các ngươi đã chịu sửa lỗi, tự biết có tâmcạnh tranh. Ta nhận sự hối lỗi của các ngươi. Các Tỳ-kheo,chớ nên thế nữa. Như thế, các Tỳ-kheo hãy học điều này.”
Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Kệtóm tắt:
Tăngthượng, toạ, hành tích,
Vôtình, vườn quán, hồ,
Vôlậu, vô tức, thiền,
Bốnlạc, không tranh tụng.[298]
[1]Tham chiếu Pāli, S. 56. 21 Vijjā (R. v. 431).
[2]Ngũ thạnh ấm 五盛陰, tức năm thủ uẩn (Pāli: pañca-upādānakkhandha).
[3]Cf. Tập dị 6 (T26n1536, tr. 393a11), Pháp uẩn 2 (T26n1537, tr. 458b26),bốn Dự lưu chi 預流支: thân cận thiện sỹ 親近善士, thínhvăn chánh pháp 聽聞正法, như lý tác ý 如理作意, pháp tùypháp hành 法隨法行. Pāli, D 33 Saṅgīti (R.iii. 227 ): cattāri sotāpattiyaṅgāni– sappurisasaṃsevo, saddhammassa-vanaṃ, yonisomanasikāro,dhammānudhammappaṭipatti.
[4]Tham chiếu Pāli, A IV 127 Adbhūtadhammā (R.ii. 131).
[5]Vị tằng hữu pháp. Pāli 未曾有法: adbhūtadhamma.
[6]Trong bản: Đa-tát-a-kiệt .多薩阿竭.
[7]Tham chiếu Pāli, S.22. 22 Bhāra (R. iii. 25).
[8]Dẫn bởi Câu-xá 30 (T29n1558, tr. 155a27): trọng đảm 重擔 (Pāli:bhāra), hà trọng đảm 荷重擔 (Pāli: bhārahāra), xả trọngđảm 捨重擔 (Pāli: bhāranikkhepana).
[9]Pāli: bhāranidāna.
[10]Pāli, định cú: yāyaṃ taṇhā ponobhavikā nandīrāgasahagatātatratatrābhinandinī seyyathidaṃ– kāmataṇhā, bhavataṇhā, vibhavataṇhā,ái đương lai hữu, câu hữu với hỉ tham, mong ước ta sẽở đây, ta sẽ ở kia, tức là, dục ái, hữu ái, phi hữuái.
[11]Cf. M 12 Mahā-Sīhanādasuttaṃ (R.i. 73): catasso yoniyo: aṇḍajāyoni, jalābujā yoni, saṃsedajā yoni, opapātikā yoni.
[12]Nhân duyên sinh 因緣生. Tức thấp sinh kể trên.
[13]Tham chiếu Pāli, M. 5 Anaṅgaṇasuttaṃ (R. i. 24); Hán, Trung 22kinh 87 (T1n26, tr. 566a13).
[14]Pāli, ibid., sāṅgaṇova (…) ajjhattaṃ aṅgaṇan’ti yathābhūtaṃnappajānāti, có ô uế, nhưng không như thực biết rằng tabên trong có ô uế.
[15]Pāli: subhanimittaṃ manasi karissati, nó sẽ tác ý đến dấuhiệu tinh sạch.
[16]Để bản nhảy sót. Tham chiếu Pāli, ibid.; Trung 22, dẫn trên.
[17]Câu này nghi để bản chép dư, nên cho vào ngoặc.
[18]Kết 結; đây hiểu là “bẩn”; Trung 22 nói là uế 穢. Pālinói là aṅgaṇa (vết bẩn).
[19]Cf. Trung 22: “Vô lượng pháp ác bất thiện phát sinh từ dục,đó gọi là uế.” Pāli: pāpakānaṃ akusalānaṃ icchāvacarānaṃadhivacanaṃ yadidaṃ aṅgaṇan ‘ti, ác, bất thiện, cảnh giớicủa dục, là những từ đỗng nghĩa của cáu bẩn.
[20]Trong ngoặc, không có trong Hán dịch, nhưng được thêm vàocho rõ nghĩa.
[21]Cf. Trung 22, ibid.: “Vị ấy liền sinh ác tâm. Khi tâm sinh ácvà tâm sinh dục, thảy đều bất thiện.” Cf Plia, ibid., sokupito hoti appatīto. kopo yo ca appaccayo– ubhayametaṃ aṅgaṇaṃ,vị ấy phẩn nộ và bất mãn. Phẩn nộ và bất mãn, cảhai đều ô uế.
[22]Viên 園, tức trong tăng già lam, hay tăng viện. Pāli: ārāma.
[23]Hán dịch có sự nhầm lẫn. Tỳ-kheo không thanh tịnh khôngđược nói tội Tỳ-kheo khác. Cf. Vin.i. 170. Tham chiếu, Trung22: “Ta phạm giới, mong người hơn ta chỉ tội, chứ khôngphải người không bằng ta chỉ tội.” Pāli: sappaṭipuggalomaṃ codeyya, no appaṭipuggalo’ti.
[24]Cf. A IV 105 Ambasuttaṃ (R.ii. 106): Có bốn loại xoài (amba: am-ma-lặc).
[25]Pāli, ibid. “Hạng người tới lui, cúi ngước, co duỗi, v.v.,thảy đều đoan chánh, nhưng không như thực biết đây làkhổ, đây là tập, v.v. : sống mà có màu sắc như trái chín.”
[26]Câu-sí-la 拘翅羅. Chưa rõ chim gì. Skt. (Pāli): kokila, chim cuốc.
[27]Chí điểu 鷙鳥; một loại diều hâu, chim dữ.
[28]Cf. A IV 102 Dutiyavalāhakasuttaṃ (R.ii. 103).
[29]Pāli, ibid. “Thông suốt Khế kinh (sutta), Ứng tụng (geyya),v.v., nhưng không như thực biết đây là khổ, đây là tập,v.v.: sấm mà không mưa”
[30]Pāli, ibid., “Không thông suốt Khế kinh, Ứng tụng, v.v., nhưngnhư thực biết đây là khổ, đây là tập, v.v.: mưa mà khôngsấm.”
[31]Bản Hán, hết quyển 17.
[32]Tứ ý đoạn 四意斷 . Cf. Tập dị 6 (T26n1536, tr. 391c06): Tứchánh đoạn giả 四正斷者. Pháp uẩn 3 (T26n1537, tr. 467c24):Tứ chánh thắng 四正勝. Đại trí độ 19 (T25n1509, tr. 197b20):Tứ chánh cần 四正懃. Pāli, D 33 Saṅgīti (R. iii. 221): cattārosammappadhānā. Skt. samyak-prahāna/ samyak-pradhāna.
[33]Nguyên Hán: Linh diệt 令滅. Có sự nhầm lẫn. Nên sửa lại,vì đấy đối với pháp chưa sanh.
[34]Nguyên Hán: Linh bất sanh 令不生. Có sự chép nhầm. Nên sửalại.
[35]Túc tán quốc vương 粟散國王. Chỉ các Tiểu vương, chưhầu. Skt. koṭa-rāja, lãnh chúa tại một địa phương (Skt.pradeśa-rāja).
[36]Chiêm-bặc 瞻蔔. Skt (Pāli). campaka, một loại hoa vàng, hoànghoa, kim sắc hoa.
[37]Tu-ma-na 須摩那. Skt. (Pāli) sumanas (sumanā): tố hương, hảoý hương.
[38]Bà-sư 婆師. Skt. vārṣika (Pāli: vassika), ha gian hoa, hạ sinhhoa, một hoa nở mùa hè.
[39]Pāli, S 3. 21 Puggalasutta (R.i. 93). Hán, No 127 Tứ nhân kinh.
[40]Pāli, ibid., tamotamaparāyano, tamojotiparāyano, jotitamaparāyano,jotijotiparāyano, từ bóng tối đi đến bóng tối, từ bóngtối đi đến ánh sáng, từ ánh sáng đi đến bóng tối, từsáng đi đến sáng.
[41]Đạm nhân 噉人, nghĩa đen, “ăn thịt người (?)” Có lẽchỉ người bán thịt. No 127: Khôi khoái gia 魁膾家.
[42]Hán: Lõa tiển 裸跣.
[43]Trưởng giả chủng 長者種, đây chỉ đẳng cấp thứ ba,phệ-xá hay cư sĩ.
[44]Hán diễn ý thay vì dịch từ tương đương Pāli: huta: phẩmvật hiến tế; xem D. i. 55, thuyết đoạn diệt (uccheda) củaAjitakesakambala.
[45]Thuyết của Ajitakesakambala, D. 2 Samaññaphala (R.i. 55).
[46]Hán: Bất bình quân 不平均; đoạn dưới: bất bình đẳng不平等. Nên hiểu là “Không chân chánh.”
[47]Tam tôn 三尊, tức Tam bảo.
[48]Hán: thọ mạng 受命; được hiểu là “chánh mạng”, sốngbằng nghề nghiệp lương thiện.
[49]Tam-Phật 三佛, phiên âm, Pāli = Skt. Sambuddha.
[50]Cf. Tạp (Việt) 1031: Tô mẫu (bà nội). Pāli, S. 3 22: ayyakā.
[51]Ca-thi 加尸. Pāli: Kāsi, thời Phật, thuộc quyền cai trị củavua Ba-tư-nặc.
[52]Hán: dã mã 野馬.
[53]Tăng-ca-lợi 僧迦利, tức y tăng-già-lê.
[54]Bốn biện tài 四辯才, cũng nói là bốn vô ngại biện haybốn vô ngại giải. Pāli: Cf. A IV 172 Vibhattisuttaṃ (R. ii. 160).
[55]Nghĩa biện 義辯, hay nghĩa vô ngại giải. Pāli, ibid. atthapaṭisambhidāsacchikatā odhiso byañjanaso, do từng trường hợp, y theo văn,tôi tác chứng nghĩa vô ngại giải.
[56]Pháp biện 法辯. Pāli: dhammapaṭisambhidā.
[57]Ứng biện 應辯, tức từ vô ngại giải. Pāli: iruttipaṭisambhidā,giải thích từ nguyên thông suốt.
[58]Tự biện 自辯, hay biện (tài) vô ngại giải. Pāli: paṭibhānapaṭisambhidā.
[59]Trong ngoặc, nhảy sót trong để bản, nên thêm vào cho đủvăn.
[60]Chấp trượng phạm chí 執杖梵志, nhóm ngoại đạo cầm gậy.Tỳ-nại-da tạp sự 18 (T24n1451, tr. 287a26): Nhóm ngoại đạotà mạng, cầm gậy và bện tóc, đón đường đánh chết Mục-kiền-liện.Tỷ-nại-da 2 (T24n1464, tr. 857c27): nhóm phạm chí chấp trượng,cầm gậy có hình như đầu người. Truyền thuyết Pāli, Ngàibị giết bởi nhóm Nigaṇṭha.
[61]Ma-sấu 摩瘦. Cf. Tây vực ký 4 (T51n2087, tr. 890a28): Mạt-thố-la秣菟羅, tại đó có tháp thờ di thân của Xá-lợi-phất.Phiên âm của Mathurā hay Madhurā (Skt., Pāli đồng).
[62]Quân-đầu Sa-di 均頭沙彌. Pāli: Cunda Samaṇuddesa. Cf. S. 47.13 Cundasuttaṃ (R.v. 161)
[63]Để bản: Cúng dường Tôn giả xá-lợi 供養尊者舍利. Hoặcnói đủ là “Cúng dường Tôn giả Xá-lợi-phất.” Ý ĐếThích muốn phục vụ nuôi bệnh ngài Xá-lợi-phất.
[64]Không thể phục vụ người bịnh, vì dơ bẩn.
[65]Cf. S 47 ibid. : Xá-lợi-phất y trên giới uẩn ( sīlakkhandhaṃvā ādāya), hay y trên định uẩn (samādhikkhandhaṃ vā ādāya),tuệ uẩn (paññākkhandhaṃ), giải thoát uẩn (vimuttikkhandhaṃ),giải thoát tri kiến uẩn (vimuttiñāṇadassanakkhandhaṃ) mànhập Niết-bàn (parinibbuto)?
[66]Danh sách các Bích-chi-phật, xem phẩm 38 kinh 7 dưới. Pāli,cf. M 116 Isigili (R.iii. 68): Ariṭṭho; Upariṭṭho; Tagarasikhī;Yasassī; Sudassano; Piyadassī; Gandhāro; Pinḍolo; Upāsabho;Nīto; Tatho, Sutavā; Bhāvitatto.
[67]Pāli, D 16 Mahāparinibbānasuttaṃ (R.ii. 157): aniccā vata saṇkhārā,uppādavaya-dhammino; uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho.
[68]Bản Hán, hết quyển 18.
[69]Các loại trí của Xá-lợi-phất, cf. Pāli, S 8.7 Pavāraṇāsuttaṃ(R.i. 191): paṇḍito (bác huệ), mahāpañño (đại huệ), puthupañño(quảng huệ), hāsapañño (tật huệ), javanapañño (tiệp huệ),tikkhapañño (lợi huệ), nibbedhikapañño (quyết trạch huệ).
[70]Na-la-đà thôn 那羅陀村. Pāli: Nālaka, một ngôi làng Bà-la-môngần Vương xá, sinh quán của Xá-lợi-phất. Theo truyến thốngPāli, sinh quán Mục-kiền-liên tại Kolita, cũng ngôi làng gầnVương xá.
[71]Hán: Tự thâu-bà 寺偷婆. Skt. stūpa (Pāli: thūpa).
[72]Bà-ca-lê 婆迦梨. Pāli: Vakkali. Cf, S.22. 87 Vakkalisuttaṃ (R.iii. 119). Hán. Tạp (Việt) kinh 1279: Bạt-ca-lê 跋迦梨.
[73]Phổ Tập giảng đường 普集講堂: Hội trường của cácTỳ-kheo trong mỗi tinh xá. Cũng gọi là cần hành đường,hay thị giảng đường. Pāli: upaṭṭhāna-sālā.
[74]Pāli, ibid., appatiṭṭhitena ca viññāṇena vakkali kulaputto parinibbuto,thức của Vakkali vô trụ mà nhập Niết-bàn.
[75]Tham chiếu Pāli, M141 Saccavibhaṅgasuttaṃ (R. iii. 247). Hán, Trung7 kinh 31(T1n26, tr. 467a28).
[76]Tham chiếu Pāli, M 11 Cūḷa-Sīhanādasuttaṃ (R. i. 63). Hán, Trung26 kinh 103 (T1n26, tr. 590b5).
[77]Pāli, ibid., ekā niṭṭhā, udāhu puthu niṭṭhā’ti?
[78]Bình đẳng thuyết; được hiểu là “trả lời chân chánh,hay chánh xác.” Pāli: sammā byākaramānā.
[79]Hán: Bỉ cứu cánh 彼究竟, được hiểu là “cứu cánh làmột ấy.”
[80]Pāli: sā niṭṭhā sarāgassa udāhu vītarāgassā’ti? Đó làcứu cánh cho người có tham, hay cho người ly tham?
[81]Pāli: sammā byākaramānā, trả lời chân chánh.
[82]Pāli: sā niṭṭhā sataṇhassa udāhu vītataṇhassā’ti, đólà cứu cánh cho người có khát ái, hay cho người không cònkhát ái?
[83]Thọ 受, đây nên hiểu là chấp thủ. Pāli: sā niṭṭhā sa-upādānassaudāhu anupādānassā’ti? Đó là cứu cánh cho người có chấpthủ, hay cho người không còn chấp thủ?
[84]Hán: Nộ giả sở cứu cánh 怒者所究竟; nên hiểu là khôngbất mãn với hoàn cảnh. Pāli: sā niṭṭhā anuruddhappaṭiviruddhassaudāhu ananuruddha-appaṭiviruddhassā’ti? Đó là cứu cánh chongười thuận tùng (lạc quan) hay người vi nghịch (bi quan),hay không thuận tùng, không vi nghịch?
[85]Hữu kiến, vô kiến 有見無見. Pāli: bhavadiṭṭhi vibhavadiṭṭhi.
[86]Thọ 受, đây hiểu là chấp thủ. Pāli: upādāna.
[87]Xem cht. 17 trên; cuối cùng trong các trả lời về cứu cánhđoạn trên. Pāli: te anuruddhappaṭiviruddhā, họ là những ngườicó lạc quan, có bi quan.
[88]Bất dữ hành tương ưng 不與行相應. Pāli: te papañcảāmā,họ là những người ưa hý luận.
[89]Tứ thọ 四受. Pāli: cattārimāni pādānāni: kāmupādānaṃ,diṭṭhupādānaṃ, sīlabbatupādānaṃ, attavādu-pādāna, có bốnthủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luậnthủ..
[90]Pāli: “Một số Sa-môn Bà-la-môn tự tuyên bố (paṭijānamānā)là chủ trương biến tri tất cả dục thủ (kāmupādānapariññāvādā)nhưng họ không chỉ thị ra được (paññapenti) sự biến tritất cả thủ một cách chân chánh.”
[91]Cf. Trung 26, ibid. “Họ thi thiết (=chủ trương) đoạn dụcthọ (=dục thủ), nhưng không thi thiết đoạn ba thọ kia. Vìhọ không biêt ba trường họp này một cách như chơn.”
[92]Tam-da-tam-phật 三耶三佛, Pāli: sammāsambuddha (Skt. samyak-sambuddha),Phật Chánh đẳng Chánh giác.
[93]Ư thị 於是, ở đây, chỉ ở trong Phật pháp.
[94]Cf. Trung 26: Thử hữu (…) thử ngoại cánh vô Sa-môn 此有… 此外更無沙門, chỉ trong đây (trong Phật pháp), ngoàiđây ra (ngoài Phật pháp) không có Sa-môn (…). Pāli:idheva samaṇo,suññā parappa-vādā samaṇebhi aññehī’ti, chính nơi đây mớicó Sa-môn (đệ nhất…đệ tứ). Các giáo thuyết khác trốngkhông, không có Sa-môn.
[95]Tham chiếu Pāli, A. IX. 20 Velāma (R. iv. 392). Hán, Trung 39 kinh125 (T1n26, tr. 677a8).
[96]A-na-bân-để 阿那邠邸.
[97]Bấy giờ, gia sản Cấp Cô Độc bị khánh kiệt. Cf. Sớ giảiPháp cú, DhA. iii. 11.
[98]Tỳ-la-ma 毘羅摩, Pāli: Velāma.
[99]Hán: Long tượng 龍象.
[100]Chiêu-đề Tăng 招提僧; Tăng du hành bốn phương, không trúxứ nhất định. Pāli: catuddisā-saṅgha.
[101]Đạo , dịch từ bodhi (bồ-đề).
[102]Tham chiếu Pāli, A IV 8 Vesārajjasutta (R. ii. 9).
[103]Bốn vô sở úy 四無所畏. Pāli: cattārimāni tathāgatassa vesārajjāni,bốn điều tự tín của Như Lai. Cf. Câu-xá 27 (T29n1558, tr.140c17).
[104]Phạm luân 梵輪. Pāli: brahmacakka.
[105]Cf. Câu-xá, dẫn trên: Chánh đẳng giác vô úy 正等覺無畏,Skt. sarva-dharmābhisaṃbodhi-vaiśāradya, tự tin, không do dự,khi tuyên bố tự thân chứng giác tất cả các pháp.
[106]Cf, Câu-xá, ibid., lậu vĩnh tận vô úy 漏永盡無畏, Skt. sarvāsrava-kṣaya-jñāna-vaiśāradya,tự tin, khi tuyên bố tự thân biết rõ tất cả các đã diệttận.
[107]Pāli: antarāyikā dhammā vuttā, những pháp được nói là chướngngại. Bản Hán có thể đọc Skt. andharakāra-dharmā (Pāli: andhakāra-dhammā):Pháp u ám, thay vì Skt. anatarāyika-dharmā (Pāli: antarāyika-dhammā):Pháp chướng ngại.
[108]Câu-xá, ibid., thuyết chướng pháp vô úy 說障法無畏. Skt.anatarāyikadharmānyathātva-niścita-vyākaraṇa-vaiśāradya, tựtin khi tuyên bố xác nhận quyết định không thay đổi nhữnggì là pháp chướng ngại đạo.
[109]Câu-xá, ibid., thuyết xuất đạo vô úy 說出道無畏. Skt. sarvasampad-adhigamāyanairyāṇikapratipat-tathāva-vaiśāradya, tự tin khi tuyên bố khôngthể đổi khác con đường hành trì dẫn đến chứng đắc.
[110]Tham chiếu Pāli, A IV 7 Sobhanasutta (R. ii. 8).
[111]Pháp pháp thành tựu.
[112]Pāli: Saṅghaṃ sobhenti, những người ấy làm sáng chói Tăng.
[113]Vô sở úy 無所畏; Pāli: Visārada, tự tin, không do dự.
[114]Thuyết pháp 說法. Pāli: Dhammadhara, trì pháp.
[115]Kim sí điểu 金翅鳥. Pāli: Garuḷa (Skt. garuḍa). Xem Trương19, kinh Thế ký, phẩm Long điểu.
[116]Thiết xoa thọ 鐵叉樹. Trường ibid., Cứ-la thiểm-ma-la. Pāli:simbala (Skt. śimbala).
[117]Mười lẻ là một thưng.
[118]Nguyên Hán: trì tín 持信. Tùy tín hành 隨信行, thấp nhấttrong bảy bậc Thánh của Thanh văn. Cf. Tập dị 16 (T26n1536,tr. 435b15): Thất bổ-đặc-già-la 七補特伽羅. Pāli: saddhānusārī;cf. M. 70 Kīṭāgirisutta (M. i. 479)
[119]Nguyên Hán: phụng pháp 奉法; tùy pháp hành 隨法行, hàng thứhai từ thấp trong 7 bảy bậc Thánh Thanh văn; cf. Tập dị,ibid. Pāli: dhammānusārī, cf. Kīṭgiri, ibid.
[120]Thân chứng 身證; hàng thứ năm từ dưới, nhảy hàng ba vàtư. Trong liệt kê này, Hán dịch nhảy sót hàng thứ ba: tínthắng giải (Pāli: saddhāvimutto). cf. Tập dị, ibid. Pāli, ibid.kāyasakkhi.
[121]Kiến đáo 見到; hay kiến chí見至, hàng thứ tư, Hán dịchthứ tự nghịch đảo. Cf. Tập dị, ibid. Pāli, ibid., diṭṭhippatto
[122]Phạm chí ngữ 梵志語, ở đây nên hiểu là lời của cácđồng phạm hạnh (Pāli: sabrahmacarī), tức những bạn đồngtu.
[123]Cf. Tập dị, ibid., “Đã tự thân tác chứng nơi tám giảithoát, nhưng chưa được huệ giải thoát, đó gọi là Thânchứng.” Tức vị A-na-hàm khi chứng đắc diệt tận định,được gọi là vị Thân chứng.
[124]Cg. Tập dị, ibid: “Hạng tùy pháp hành, khi chứng đắc đạoloại trí, xả địa vị tùy pháp hành, trở thành Kiến chí.”
[125]Bản Hán, hết quyển 19.
[126]Để bản: Tỷ 姊. TNM: Muội.
[127]Nan-đà Mẫu 難陀母.
[128]Chất-đa Trưởng giả 質多長者. Pāli: Citta-gahapati, ngườiở Macchikāsaṇda.
[129]Ma-sư-san 摩師山; phiên âm. Để bản hiểu nhầm san 山 làtên núi, thay vì từ phiên âm, nên chép “Ma-sư san trung.”Pāli: Macchikāsaṇda, một thị trấn ở Kāsi.
[130]Ca-tỳ-la 迦毘羅. Pāli: Kapila, tên người Bà-la-môn, thân phụngài Đại Ca-diếp.
[131]Tỷ-ba-la-da-đàn-na 比波羅耶檀那. Pāli: Pippāli, tên củaĐại Ca-diếp.
[132]Bà-đà 婆陀. Pāli: Bhaddhā Kāpilāni.
[133]Tham chiếu Pāli, A IV 50 Upakkilesasutta (R. ii. 53).
[134]Pāli: cattārome candimasūriyānaṃ upakkilesā, bốn sự che mờ(upakkilesa: sự làm hoen ố, ô nhiễm, tùy phiền não) của mặttrời, mặt trăng.
[135]Pāli: Rāhu asurinda.
[136]Pāli: cattāro upakkilesā, bốn tùy phiền não (=sự làm hoen ố).
[137]Pāli, ibid., bốn ô nhiễm: uống rượu (suraṃ pivanti), tậphành dâm dục (methunaṃ dhammaṃ paṭisevanti), thọ dụng vàngbạc (jātarūparajataṃ sādiyanti, sống bằng tà mạng (micchājīvenajīvanti).
[138]Tham chiếu Pāli, A III 24 Hatthakasutta (R.i. 137).
[139]A-la-tỳ từ 阿羅毘祠. Pāli: Āḷavī, thị trấn cách Xá-vệ30 di-tuần, tại đó có miếu thờ Aggāḷva.
[140]Thủ A-la-bà trưởng giả 手阿羅婆長者. Pāli: Hatthaka Āḷavaka.
[141]Để bản: khiếp 怯. Có thể khoái 快, bị chép nhầm.
[142]Pāli: Sabbadā ve sukhaṃ seti, brāhmaṇo parinibbuto, đấng Bà-la-mônđã hoàn toàn tịch diệt, ngủ an lạc trong mọi thời
[143]Để bản: Minh miên 明眠. Có thể minh nhãn 明眼, chép nhầm.
[144]Cf. Pāli: Upasanto sukhaṃ seti, tịch tĩnh, ngủ an lạc.
[145]Lộc Đầu phạm chí; có thể đồng nhất Pāli Migasira, Trưởnglão A-la-hán, nguyên người Bà-la-môn, sau xuất gia ngoại đạo(pabbājika), cuối cùng theo Phật. Ông có biệt tài gõ vào đầulâu mà biết người chết sinh về đâu.
[146]Có lẽ Pāli, Sītavana (Hàn lâm), thường được mô tả làbhayabherava-sītavana, khu rừng lạnh đầy sợ hãi kinh khiếp.
[147]Ha-lê-lặc 呵梨勒; Pāli: harīṭaka, harītakī (Skt. đồng),kha tử 柯子.
[148]Xem, ThaA, ii. 52, chuyện Mgasira.
[149]Câu này nên tồn nghi trong Hán dịch.
[150]Tham chiếu Pāli, A IV 180 Mahāpadesasutta (R.ii. 167).
[151]Cf. Pāli: cattārome mahāpadese, bốn đại xứ (địa phương,khu vực). Hán đọc là desanā (Skt. deśanā): Giáo thuyết, phápthuyết.
[152]Bốn đại nghĩa: Kinh, Luật, A-tì-đàm, Giới. Hán dịch cósự nhầm lẫn. Theo nội dung đoạn sau, đây là bốn y cứđể thẩm sát trong bốn trường hợp khi nào điều đượcnói là do chính Phật nói.
[153]Pāli: desa (Skt. deśa), trong truyền bản Pāli được hiểu hiểutheo nghĩa bóng: 1. Pháp nghe từ chính Thế Tôn nói, 2. Nghe từmột Thượng tọa Trưởng lão trong Tăng nói, 3. Nghe từ nhiềutỳ kheo trưởng lão nói, 4. Nghe từ một tỳ kheo nào đó.Trong truyền bản Hán dịch này, được hiểu là phương hướng,tức bốn phương đông, tây, nam bắc.
[154]Oali, ibid., “Không hoan hỷ cũng không mạ lỵ (neva abhinanditabbaṃnappaṭikkositabbaṃ).
[155]Vị 味. Đây chỉ văn từ. Pāli: vyañjana.
[156]Đại Oai vương 大威王; TNM: Đại Thạnh vương大盛王. Cólẽ tương đương Pāli Mahāsammato được nói đến trong Aggaññasutta,D. iii. 80. Xem Trường, kinh 5 (Tiểu duyên); Trung kinh 154 (Bà-la-nà-đường).
[157]Nguyên Hán: vô dục ác pháp, niệm trì hye an, du ư nhị thiền無欲惡法。念持喜安遊心初禪. Về bốn thiền, đoạn dịchViệt đã đính nhiều chỗ sai sót trong bản Hán, xem cht.42 và tiếp, phẩm 12, kinh số 1.
[158]Bốn thiền được gọi là bốn hiện pháp lạc trú.
[159]Nguyên trong bản: hữu giác hữu quán, tức hữu tầm hữu tứ;nhưng nhị thiền không có tầm và tứ (giác quán). Hán chépnhảy một phủ định từ.
[160]
[161]A-na-hàm nhập Niết-bàn trên một trong năm Tịnh cư thiên.
[162]Hoàng lâm hoa 黃藍花. Pāli: (samaṇa)macala (?). Từ diển PTSkhông thấy từ này. Macala cũng là tên một tụ lạc tại Magadha.Cf. A IV 88, bản dịch Hoa văn (Nam truyền) đọc là samaṇam-acalam,“bất động Sa-môn.” Sớ giải: đây chỉ vị Tu-đà-hoànan trụ vững trong Thánh giáo (sāsane laddhappatiṭṭhattā).
[163]Bân-đà-lợi 邠陀利. Pāli: puṇḍrīka, sen trắng.
[164]Tợ nhu nhuyến Sa-môn 似柔軟沙門. Pāli: samaṇapaduma, Sa-mônsen hồng.
[165]Pāli: samaṇesu samaṇasukhumālo, Sa-môn nhu hòa trong các Sa-môn.
[166]Pāli: niyato sambodhiparāyaṇo, quyết định hướng đến Chánhgiác.
[167]Gia gia 家家; (Skt. kulaṃkula), hạng Tu-đà-hoàn quả hướngđến Tư-đà-hàm, tái sinh Dục giới tối đa ba lần, rồinhập Niết-bàn.
[168]Nhất chủng 一種 (Skt. ekabījika), hoặc nhất gián (Skt. ekavīcika),hạng Bất-hoàn hướng, còn một lần tái sinh Dục giới.
[169]Bản Hán, hết quyển 20.
[170]Sát nhân chủng 殺人種; đây chỉ lớp tiện dân chiên-đà-la(Pāli, Skt. caṇḍāla), phần lớn làm nghề giết chó, đượcxem là hung dữ. Các nghề nghiệp hạ tiện, xem kinh số 5, phẩm26.
[171]Phân-đàn bố thí 分檀布施; có lẽ phiên âm, Pāli: piṇḍa-dāyaka,người bố thí vật thực. Đoạn tiếp, TNM: bố thí phầnđoạn, cùng ý nghĩa.
[172]Trong ngoặc, câu này để bản nhảy sót. Đây y theo TNM thêmvào.
[173]Để bản: Duy nguyện 唯願. TNM: duy nhiên 唯.
[174]La-hán Duy Dụ 羅漢唯喻; chưa rõ.
[175]Thi-ba-la 尸波羅. Đồng nhất với Pāli, Sīvalī, được Phậttuyên bố là đệ nhất lợi đắc cúng dường (aggaṃ lābhīnaṃ),cf. A.i. 24.
[176]Tứ phạm chi phước 四梵之福; đoạn dưới có khi nói: Phạmthiên chi phước 梵天之福, có khi nói thọ phạm chi phước受梵之福. Có thẻ tương đương Pāli, brahmadeyya, tặng vậtcủa Phạm thiên, được hiểu là tặng vật cao thượng nhất.
[177]Nguyên Hán dịch: Thâu-bà 偷婆, Skt. stūpa (Pāli: thūpa).
[178]Nguyên trong bản: Đa-tát-a-kiệt.
[179]Nguyên Hán dịch: Diêm-phù-lý-địa 閻浮里地, phiên âm Skt.Jambudvīpa (Jambudīpa).
[180]Xem Trường 8, kinh 9 Chúng tập (T1n1, tr. 50c2): Bốn loại thứcăn 四種食: Đoàn thực 摶食, xúc thực 觸食, niệm thực念食, thức thực 識食. Tập dị 8 (tr. 400b2):: Đoạn thựchoặc thô hoặc tế 段食或<gaiji cb='CB0715' des='[色-巴+鹿]'uni='9E81' >麁</gaiji>或細; xúc thực 觸食; ý tư thực 意思食;thức thực
<lbn="0400b03"/>識食. Pāli, D 33 Saṅgīti (R. iii. 228): cattāro āhārā–kabaḷīkāro āhāro oḷāriko vā sukhumo vā, phasso dutiyo, manosañcetanātatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ.
[181]Nguyên Hán dịch: Cánh lạc thực 更樂食. Được hiểu lànhững thứ tạo ra sự thoái mái cho xúc giác.
[182]Nguyên Hán dịch: Cánh lạc 更樂.
[183]Tứ biện 四辯. Xem trên, kinh 9 phẩm 26: Bốn biện tài. Cf.Câu-xá 27 (T29n1558, tr. 142a22): bốn vô ngại giải (Skt. catasraḥpratisaṃvidaḥ), 1. pháp vô ngại giải 法無礙解 (dharma-pratisaṃvid);2. nghĩa vô ngại giải 義無礙解 (artha-p.); 3. từ vô ngạigiải 詞無礙解 (nirukti-p.); 4. biện vô ngại giải 辯無礙解(pratibhāna-p.).
[184]Từ biện: Từ nguyên luận hay ngữ pháp luận. Cf. Pāli, Vin.ii. 139: có hai Tỳ-kheo, Yameḷu và Tekula, cho nhiều tỳ kheothuộc giai câp thấp, đọc sai lời Phật về mặt ngữ pháp( te sakāya niruttiyā buddha-vacanaṃ dūsenti), họ không phân biệtđọc âm dài, âm ngắn, giống đực, giống cái, nên muốnchuẩn hóa lời Phật theo đúng ngữ pháp cho các Tỳ-kheo. NhưngPhật không cho phép.
[185]Hán: Trường đoản chi ngữ 長短之語; các từ ngữ có âmdài, âm ngắn.
[186]Nam ngữ, ngữ nữ 男語女語: Danh từ giống đực, giống cái.
[187]Chỉ ngữ pháp khác nhau giữa các chủng loại, các địa phương,và giai cấp.
[188]Ma-ha-câu-hy-la 摩訶拘絺羅. Pāli: Mahā-Koṭṭhika, được Phậtkhen là đệ nhất vô ngại giải (paṭisambhidāpattānaṃ, A.i.24). Xem trên, kinh 3 phẩm 4.
[189]Cf. A IV 77 Acinteyyasutta (R. ii. 80), bốn điều bất khả tư nghị(acinteyyāni): 1. cảnh giới Phật của chư Phật (buddhānaṃbuddhavisayo), 2. cảnh giới thiền của những người tu thiền(jhāyissa jhānavisayo), 3. dị thục của nghiệp (kammavipāko),4. tư duy về thế giới (lokacintā).
[190]Để bản: Đại thân 大身.
[191]Hưu tức xứ 休息處; cung dịch là tô tức xứ 蘇息處, sựphục hồi hơi thở bình thường; chỉ trạng thái an ổn củaA-la-hán. Pāli: assānīya-dhamma.
[192]Bốn thần túc 四神足. Cf. Trường 8 kh 9: Chúng tập (T1n1,tr. 50c17): Tư duy dục định diệt hành thành tựu 思惟欲定滅行成就;tinh tấn định 精進定; ý định 意定; tư duy định 思惟定.Pháp uẩn 4 (T26n1537, tr. 471c13).
[193]Tự tại tam-muội hành tận thần túc 自在三昧行盡神足.Pháp uẩn, ibid: Dục tam-ma-địa thắng hành thành tựu thầntúc 欲三摩地勝行成就神足. Pāli, D 33 Saṅgīti (R. iii. 221):chandasamādhipadhāna-
[194]Tâm tam-muội hành tận thần túc 心三昧行盡神足. Pháp uẩn,ibid: Tâm tam-ma-địa thắng hành thành tựu thần túc 心三摩地勝行成就神足Pāli, ibid., cittasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃbhāveti..
[195]Tinh tấn tam-muội hành tận thần túc 精進三昧行盡神足.Pháp uẩn,: Cần tam-ma-địa thắng hành thành tựu thần túc勤三摩地勝行成就神足. Pāli, ibid., 3. vīriyasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃiddhipādaṃ bhāveti.
[196]Giới tam-muội hành tận thần túc 誡三昧行盡神足. Phápuẩn, ibid.: Quán tam-ma-địa thắng hành thành tựu thần túc 觀三摩地勝行成就神足. Pāli, ibid., vīmaṃsāsamādhipadhāna-saṅkhārasamannāgataṃiddhipādaṃ bhāveti.
[197]Bốn pháp ái khởi 四起愛之法. Cf. Pāli, A IV Taṇhuppādasutta(R. ii. 10).
[198]Xem Trường 18, kinh Thế ký, phẩm Diêm-phù-đề.
[199]Hằng gìà 恒伽. Skt. Gaṅgā.
[200]Tân-đầu 新頭. Skt. Shintu (Pāli: Shindu).
[201]Bà-xoa 婆叉. Skt. Vakṣu.
[202]Tư-đà 私陀. Skt. Sitā.
[203]Ngưu đầu khẩu 牛頭口. Pāli: Usabhamukha.
[204]Sư tử khẩu 師子口. Pāli: Sīhamukha.
[205]Tượng khẩu 象口. Pāli: Hatthimukha.
[206]Mã khẩu 馬口. Pāli: Asamukha.
[207]Nghĩa là được hóa sanh từ pháp.
[208]Nguyên Hán: Phạm đường 梵堂. Thường nói là Phạm trú.Pāli: Brahmavihāra.
[209]Thiên 千: một nghìn Pāli: Sahampati (Skt. Sahāmpati), Chúa củathế giới Saha (Skt. Sahā-loka: thế giới Ta-bà hay Sa-bà); cũngthường gọi là Thế giới chủ, Ở dây, Hán dịch hiểu Sahā(Skt.) là sahaśra (Pāli: sahasa): Số một nghìn.
[210]Bản Hán, hết quyển 21.
[211]Ba-sa sơn 波沙山.
[212]Tu-đà 須陀. Skt. Sodayin; xem cht. 5 dưới.
[213]Thọ, tức thủ hay chấp thủ. Pāli upādāna.
[214]Hữu tự, vô tự 有字無字; chưa rõ. Có lẽ Skt. sa-akṣaya(sa-akkhaya): hữu tận nhưng Hán đọc là sa-akṣara: hữu tự.
[215]Cf. Câu-xá 14 (T29n1558, tr. 74c1): Tô-đà-di 蘇陀夷, đắc giớicụ túc do khéo trả lời. Câu-xá luận ký 14 (T41n1821, tr. 222b25),và Câu-xá luận sớ 14 (T41n1822, tr. 643c23) đều nói, sa-di Tô-đà-dimới 7 tuổi đắc giới cụ túc, do khéo trả lời. Phật hỏiTô-đà-di: “Nhà ngươi ở đâu?” Tô-đà-di đáp: “Ba cõikhông nhà.” Skt. Sodāyin (Kośa-bhāṣya). Không tìm thấy đồngnhất trong văn hệ Pāli.
[216]A-na-bân-để.
[217]Mãn phú 滿富, xem cht. 8 dưới.
[218]Mãn Tài 滿財. No 130: Trưởng giả Mô-thi-la 謨尸羅, thànhPhước tăng 福增. No 129 nói ông này là quốc vương của Nanquốc 難國王, tên là Phân-pha-đàn 分陂檀. Cf. Dvy. 402, tênthành phố này là Puṇḍavardhana (Mãn phú), mà No 130 đọclà Puṇyavardhana (Phước tăng).
[219]Tu-ma-đề 修摩提. No 130: Thiện Vô Độc 善無毒. N0 129: Tam-ma-kiệt三摩竭. Dvy. 402, cô này tên là Sumāgadhā. Pāli: Cūḷa-Subhaddhā.
[220]Truyền thuyết Pāli. Sớ giải Dhp. iii. 465, nói ông là phúhộ Ugga ở thị trấn Ugganagara. Sớ giải A. IV 24 Kāḷakārāmasutta,sớ giải nói, ông này là Kāḷaka ở Sāketa.
[221]Do-diên.
[222]Để bản: ngũ khắc 五刻. TNM: Ngũ ngoan. Hình phạt chặt 2tay, 2 chân và chém đầu.
[223]Quân-đầu sa-di. Xem cht 31 kinh 9 phẩm 26.
[224]Vô năng kiến đảnh còn gọi là Vô kiến đảnh tướng, 1trong 80 tùy hình hảo, vẻ đẹp của Phật.
[225]Phát thẻ nhận phần đi phó trai. Pāli: Salākā.
[226]Quân-đầu-ba-hán 君頭波漢, trên kia phiên âm là Quân-đầu-bà-mạc.Xem kinh 3 phẩm 4, cht 26.
[227]Để bản: thất. Bản Tống: Tthuật.
[228]Tỳ-sa, vua Bình-sa (Tần-bà-sa-la; Pāli: Bimbisāra).
[229]Ban-giá-tuần, Ngũ kế nhạc thần, một càn-thát-bà, thầnâm nhạc của Đế Thích. Pāli: Pañcasikha.
[230]Để bản: Không, Vô tướng, Nguyện; có nhảy sót.
[231]Tự nhiên 自然, Skt. svayaṃbhū, từ khác chỉ Phạm thiên (Brahman),tự sinh. Skt.
[232]Phạm sanh 梵生, Skt. Brahmaja, được sinh bởi Brahman, chỉ hàngchư thiên thượng đẳng.
[233]Bốn nhiếp sự: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.
[234]Tứ thọ chi pháp 四受之法, được hiểu là bốn pháp nhiếpthọ, tức bốn nhiếp pháp hay nhiếp sự. Pāli: cattāri saṃgahavatthūni.
[235]Tứ sự 四事, cũng tức bốn nhiếp sự. Xem cht. trên.
[236]Bản Hán, hết quyển 22.
[237]Tham chiếu Pāli, M. 4 Bhayabherava (R.i. 16).
[238]Pāli, ibid., ye hi vo ariyā parisuddhakāyakammantā, những vị Thánhmà thân hành thanh tịnh.
[239]Hán dịch đoạn này thiếu: “Sự kinh sợ” được nói ởđoạn trên. Pāli, ibid., : te bhonto samaṇabrāhmanā akusalaṃbhayabheravaṃ avhāyanti, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy làm nổilên sự kinh sợ khiếp đảm, bất thiện.
[240]Hán lược bỏ, theo văn mạch trên: (…) cho đến, “sợ hãikinh khiếp.”
[241]Hán lược bỏ ý: Không sợ hãi khiếp đảm.
[242]Hán dịch lược bỏ: Sa-môn, Bà la-môn.
[243]Hán lược bỏ: Sợ hãi khiếp đảm.
[244]Pāli, ibid., những Sa-môn, Bà-la-môn tưởng ban ngày như làban đêm (rattiṃyeva samānaṃ divāti sañjānanti), ta nói họsống trong si ám (sammohavihārasmiṃ). Những người này, đểkhông kinh sợ, ngày mà tưởng tượng là đêm; đêm mà tươhngrtượng là ngày.
[245]Niệm trì hỷ lạc 念持喜樂. Văn chuẩn về bốn thiền, xemkinh 1, phẩm 12, và các cht. 42 tt.
[246]Sơ thiền: Hiện pháp lạc trú thứ nhất.
[247]Nhị thiền: Hiện pháp lạc trú thứ hai.
[248]Tam thiền: Hiện pháp lạc trú thứ ba.
[249]Pāli, ibid.: Sống tại núi rừng thanh vắng (araññavanapathāni),vì hai mục đích (dve atthavase): tự mình sống an lạc ngay tronghiện tại, hiện pháp lạc trú (attano diṭṭhadhammasukhavihāraṃ),và vì thương tưởng chúng sanh trong tương lai (pacchimañca janataṃanukampamāno).
[250]Ưu-điền 優填; Pāli: Udena, quốc vương nước Kosambī (Hándịch Câu-thâm).
[251]Xá-di phu nhân 舍彌夫人. Pāli: Sāmāvatī.
[252]Để bản: Câu-thâm viên 拘深園, chép nhầm. Nên sửa lạilà Câu-thâm quốc.
[253]Bốn sự nói trên, tức bốn bất hoại tín, bất động tín,hay bốn chứng tịnh. Pāli: avecca-pasāda.
[254]Bốn sự hành tích 四事行跡; bốn thông hành 四通行, xemPháp uẩn 3 (T26n1537, tr. 465a23): khổ trì thông hành 苦遲通行,khổ tóc thông hành 苦速通行, lạc trì thông hành 樂遲通行,lạc tốc thông hành 樂速通行. Pāli, D 33 Saṅgīti (R.iii. 229):Catasso paṭipadā– dukkhā paṭipadā dandhābhiññā, dukkhā paṭipadākhippābhiññā, sukhā paṭipadā dandhābhiññā, sukhā paṭipadākhippābhiññā, bốn sự hành trì: hành trì khổ chứng tríchậm, hành trì; hành trì khổ, chứng trí nhanh; hành trì lạc,chứng trí chậm; hành trì lạc, chứng trí nhanh.
[255]Ngu hoặc, ở đây được hiểu là chậm lụt.
[256]Dhp. 128: na antalikkhe na samuddamajjhe, na pabbatānaṃvivaraṃ pavissa, na vijjatī so jagatippadeso, yatthaṭṭhitaṃ nappasaheyyamaccu.
[257]Tứ pháp bổn 四法本, tức bốn pháp ấn.
[258]Nan-đàn-ba-na 難檀槃那. Skt. (Pāli đồng): Nandana-vana. Xem Trường20, kinh 30, phẩm Đao-lợi.
[259]Thô sáp 麤澀. Skt. Pāruṣya. (Pāli: Phārusa, Phārusaka). Xem Trường20, dẫn trên.
[260]Trú dạ 晝夜. Theo giải thích đoạn sau, rõ ràng Hán dịchtừ này sai. Skt. Caitrarati (Pāli: Cittalatā-vana; Cf. J.i. 204).Xem Trường 20, dẫn trên: Họa lạc viên 畫樂園.
[261]Tạp chủng 雜種. Skt. Miśraka (Pāli: Missaka). Xem Trường 20,dẫn trên.
[262]Nan-đà dục trì 難陀浴池. Pāli: Nandā-pokkharaṇī, cf. J. 204.205.
[263]Tô-ma 蘇摩.
[264]Hoan duyệt 歡悅.
[265]Văn Hán dịch đoạn này mâu thuẫn nhau. Nên hiểu, chỉ vườnTạp chủng, chư thiên bình đẳng vào được hết. Ba vườnkia, tùy theo bậc lớn nhỏ.
[266]Hán: Hộ, nghĩa không rõ bằng xả.
[267]Hán kể ngược; đây là thiền thứ tư: xả niệm thanh tịnhđịa. Xem cht. tiếp theo
[268]Hán kể ngược thứ tự: đây là thiền thứ ba, ly hỷ diệulạc địa. Xem cht. ngay trên.
[269]Xem cht. 30 trên.
[270]Xem cht. 31 trên.
[271]Tham chiếu Pāli, S 55 197 Āsīvisopama (R.iv. 172).
[272]Nội lục nhập 內六入, tức sáu nội xứ.
[273]Thân tà 身邪, tức hữu thân kiến.
[274]Bốn nhiếp sự: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.
[275]Xem cht. 30 * 31, kinh số 5 phẩm 31.
[276]Bốn nhiếp sự.
[277]Tham chiếu Pāli, M 12 Mahāsīhanādasutta (R. i. 68).
[278]Đại úy sơn. Pāli, ibid. tr. 79: aññataraṃ bhiṃsanakaṃ vanasaṇḍaṃ,vào một khu rừng rậm hãi hùng; không phải danh từ riêng.
[279]Pāli, ibid., esanāpasuto munī”ti., ẩn sỹ (mâu-ni) với ướcnguyện nhiệt thành.
[280]Án-tra thôn nhơn. Pāli, ibid. gāmaṇḍala, bọn mục đồng.Nhưng Hán đọc là Aṇḍalagāma, đảo âm vận.
[281]Để bản: tợ chung 似終, như người chết. TNM: tợ lục,như màu xanh lục.
[282]Vô dâm vô dục, trạng thái ly dục của sơ thiền; Hán dịchđiệp từ.
[283]Hán dịch có thể khoa đại. Bấy giờ thái tử Tấ-đạt-đachỉ có thể chứng đắc sơ thiền thôi.
[284]Để bản nháy sót.
[285]Xem cht. 30 & 31 kinh 5 phẩm 31.
[286]Trong bản Hán: ý niệm thanh tịnh. Bản Hán này lẫn llọnthiền thứ ba và thứ tư.
[287]Đaọn hán này kể đảo ngướic thứ tự: giới, định, tuệ,giải thoát. Xem tiếp đoạn kế chánh văn.
[288]Cát Tường 吉祥, tên người cắt cỏ theo Pāli: Sotthiya.
[289]Phất tinh 弗星, sao Phất, Skt. Puṣya(nakṣatra), sao Quỷ trong28 tú; khoảng tháng 6 dương lịch. Trường A-hàm, phần kết:Phật thành đạo vào tháng Phất tinh.
[290]Để bản, nhảy sót tam thiền. Xem kinh 1, phẩm 12; kinh 5 phẩm31.
[291]Chư thú, các nẻo đường tái sinh.
[292]Phục tức 伏息, hay tô tức 蘇息, sự điều phục hơi thở;chỉ trạng thái an ổn của A-la-hán. Pāli: Assānīya-dhamma.
[293]Cf. Dhp. 19.
[294]Cf. Dhp. 20.
[295]Cf. Dhp. 101.
[296]Cf. Dhp. 100.
[297]Cf. Dhp. 103.
[298]Bản Hán, hết quyển 23.