HánDịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà
Việtdịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích: TuệSỹ
(PL.2549- 2005 sửa chữa và bổ sung)
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn dạy chư Tỳ-kheo:
“Nêngần gũi thiện tri thức, đừng tập theo ác hành, tin vào ácnghiệp. Vì sao vậy? Chư Tỳ-kheo, gần gũi thiện tri thức,tín được tăng trưởng; văn, thí, trí huệ, hết thảy đềutăng trưởng. Nếu các Tỳ-kheo gần gũi thiện tri thức, thìkhông tập theo các ác hành. Vì sao vậy? Nếu gần ác tri thức,sẽ không có tín, không có giới, văn, thí, trí tuệ. Cho nên,này các Tỳ-kheo, hãy gần gũi thiện tri thức, đừng gầngũi ác tri thức. Các Tỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, [597a01] hoan hỷ phụnghành.
KINHSỐ 2
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật ở tại Ca-lan-đà,[145] trong Trúc viên, thànhLa-duyệt, thuyết pháp cho năm trăm đại Tỳ-kheo vây quanh trướcsau.
Bấygiờ, Đề-bà-đạt-đâu[146] dẫn năm trăm Tỳ-kheo đi ngangqua, cách Như Lai không xa. Đức Thế Tôn từ xa thấy Đề-bà-đạt-đatự dẫn môn đồ đi, liền nói kệ nầy:
Đừnggần ác tri thức,
Cũngđừng dại theo hầu.
Nêngần thiện tri thức,
Bậctối thắng trong người.
Ngườivốn không có ác;
Tậpgần ác tri thức,
Sautất trồng gốc ác,
Ởmãi trong tối tăm.
Lúcđó, năm trăm đệ tử Đề-bà-đạt-đa nghe đức Thế Tônnói kệ nầy, liền đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chânPhật, rồi ngồi qua một bên. Không lâu, họ rời chỗ ngồi,hướng về đức Thế Tôn hối lỗi:
“Chúngcon ngu muội không hiểu biết gì. Cúi xin đức Thế Tôn nhậnsự sám hối chúng con.”
ThếTôn nhận sự sám hối của năm trăm vị Tỳ-kheo kia, rồithuyết pháp cho họ, khiến được tín căn.
Bấygiờ năm trăm Tỳ-kheo ở nơi nhàn tịnh, tư duy pháp mầu.Vì sao vậy? Vì mục đích mà thiện gia nam tử, với lòng tinkiên cố, tu phạm hạnh vô thượng. Bấy giờ năm trăm Tỳ-kheokia thành A-la-hán, tự biết như thật rằng, sanh tử đã hết,việc cần làm đã xong, phạm hạnh đã lập, không còn táisinh nữa. Bấy giờ, năm trăm người thành A-la-hán.
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 3
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.
Bấygiờ, Thế Tôn thuyết pháp cho vô số chúng vây chung quanh.Lúc đó Đàm-ma-lưu-chi[147] một mình tư duy trong tĩnh thất,nhập thiền tam-muội, quán thấy tiền thân làm thân cá dàibảy trăm do tuần, ở trong biển lớn. Tức thì, ông rời tĩnhthất, trong khoảnh khắc như lực sĩ trong khoảng co duỗi cánhtay, đến biển lớn, đi kinh hành trên xác chết cũ. Khi ấy,Đàm-ma-lưu-chi nói kệ nầy:
Sanh tử vô số kiếp,
Lưu chuyển không thể tính.
[597b01] Mỗi mỗi cầu được an;
Liên lỉ chịu khổ não.
Dù thấy lại thân rồi,
Ý muốn tạo nhà cửa;
Tất cả chi tiết hoại,
Hình thể không nguyên vẹn.
Tâm đã lìa các hành,
Ái trước đã diệt tận,
Không thọ lại thân nầy;
Mãi vui trong niết-bàn.
Saukhi Tôn giả Đàm-ma-lưu-chi nói kệ nầy rồi, bèn biến mấtkhỏi chỗ đó, xuất hiện đến chỗ Thế Tôn tại tinh xáKỳ-hoàn, nước Xá-vệ.
ThếTôn thấy Đàm-ma-lưu-chi đến, liền bảo rằng:
“Lànhthay, Đàm-ma-lưu-chi, lâu lắm mới đến chốn nầy.”
Đàm-ma-lưu-chibạch Thế Tôn:
“Kínhvâng, bạch Thế Tôn, lâu lắm con mới đến chốn nầy.”
Bấygiờ các Thượng tọa và các Tỳ-kheo đều nghĩ thầm :
“Đàm-ma-lưu-chinầy thường ở bên cạnh Thế Tôn, nhưng nay Thế Tôn bảorằng: ‘Lành thay! Đàm-ma-lưu-chi, lâu lắm mới đến chốnnầy’?”
ThếTôn biết được những ý nghĩ trong tâm các Tỳ-kheo, muốndứt nghi ngờ của họ, nên bảo chư Tỳ-kheo:
“Chẳngphải vì Đàm-ma-lưu-chi lâu lắm đến chốn nầy mà Ta nóinghĩa này. Vì sao vậy? Vì vô số kiếp quá khứ xưa kia cóđức Đính Quang[148] Như Lai Chí chân, Đẳng chánh giác, Minhhạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Đièungự trượng phu*, Thiên Nhân sư, Phật Thê Tôn* xuất hiệnở đời, giáo hóa tại đại quốc Bát-ma[149] cùng với mườibốn ngàn tám trăm đại Tỳ-kheo. Bấy giờ chúng bốn bộkhông thể tính kể. Quốc vương, đại thần, quan lại, nhândân, đều đến cúng dường, cung cấp những phẩm vật nhuyếu.
“Bấygiờ có bà-la-môn tên Da-nhã-đạt[150] sống bên sườn Tuyếtsơn, xem sấm bí mật, thiên văn, địa lý, tất cả đều rấtthông thạo; sách sớ, văn tự, cũng đều hiểu biết, đọctụng một câu năm trăm từ; tướng của bậc đại nhân cũngđều biết rõ. Ông thờ các thần lửa, mặt trời, mặt trăng,tinh tú và dạy năm trăm đệ tử đêm ngày không mỏi. bà-la-mônDa-nhã-đạt có đệ tử tên là Vân Lôi,[151] tướng mạo xinhđẹp hiếm có trên đời; mắt[152] màu xanh biếc. Bà-la-mônVăn Lôi thông minh, thấy rộng, thông hiểu mọi thứ, thườngđược Da-nhã-đạt yêu mến không chút rời xa. Bấy giờ,những chú thuật mà bà-la-môn làm đều đem ra dạy đủ hết.Lúc ấy bà-la-môn Vân Lôi liền suy nghĩ như vầy: ‘Nay tađã đủ hết những gì nên học.’ Song lại nghĩ thầm: ‘Sáchvở [597c01] có ghi, những bà-la-môn có học, người hành phápthuật xong, phải báo ơn thầy. Nay những gì cần học ta đềubiết hết. Nay ta phải báo đáp ân thầy. Nhưng mình nghèothiếu, trống không, không có gì để cúng dường thầy. Tahãy đi khắp nơi trong nước tìm những thứ cần.’
“Rồibà-la-môn Vân-lôi liền đến chỗ thầy, bạch thầy rằng:‘Những phương pháp kỹ thuật mà bà-la-môn học, nay con đãbiết rồi. Nhưng trong sách lại ghi, những người học phápthuật rồi phải báo ơn thầy. Song con lại nghèo thiếu, khôngcó vàng bạc trân bảo có thể dùng cúng dường. Nay con muốnđi khắp nơi trong nước tìm kiếm tài vật dùng cúng dườngthầy.’
“Bà-la-mônDa-nhã-đạt liền nghĩ thầm: ‘Bà-la-môn Vân Lôi nầy đượcta yêu mến, không rời khỏi tâm, dù ta có chết còn khôngthể xa lìa, huống chi hôm nay muốn bỏ ta đi. Nay ta phải làmsao để giữ ở lại cho được?’
“Khiđó bà-la-môn Da-nhã-đạt liền bảo Vân-lôi: ‘Anh bà-la-môn,nay vẫn có điều bà-la-môn cần phải học mà anh còn chưabiết.’ Bà-la-môn Vân-lôi liền đến trước bạch thầy:‘Cúi mong được chỉ dạy, những gì chưa đọc tụng.’
“Khiđó bà-la-môn Da-nhã-đạt liền suy nghĩ làm ra bài tụng nămtrăm từ, bảo Vân Lôi: ‘Nay có sách nầy gọi là tụng nămtrăm lời, anh nên học thuộc.’
“VânLôi bạch: ‘Mong thầy truyền thọ, con muốn được đọctụng.’
“Tỳ-kheonên biết, bấy giờ Da-nhã-đạt liền truyền cho đệ tửbài tụng năm trăm lời nầy. Qua chưa được mấy ngày, tấtđều thông suốt.
“Bà-la-mônDa-nhã-đạt bảo năm trăm đệ tử: ‘Bà-la-môn Vân Lôi nầy,kỷ thuật đầy đủ, không việc gì không thông. Ta đặt tênngay là Siêu Thuật.’
“Bà-la-mônSiêu Thuật nầy rất là tài cao; thiên văn, địa lý khônggì không xuyên suốt; thư sớ, văn tự cũng đều biết rõ.Bà-la-môn Siêu Thuật qua mấy ngày sau, lại thưa với thầy:‘Pháp kỷ thuật mà bà-la-môn đã học, nay con biết hếtrồi. Song trong sách ghi lại, những người học pháp thuậtrồi phải báo ơn thầy. Nhưng con lại nghèo thiếu, không cóvàng bạc, trân bảo, có thể cúng dường thầy. Nay muốn đikhắp nơi trong nước tìm kiếm tài vật để cúng dường thầy.Cúi mong thầy cho phép’. Bà-la-môn Da-nhã-đạt bảo: ‘Anhbiết đúng thời.’
“Bà-la-mônSiêu Thuật đến trước lễ sát chân thầy rồi liền lui [598a01]đi.
“Bấygiờ, cách thị trấn của đại quốc Bát-ma không xa, có nhiềubà-la-môn tập hội lại một chỗ, đang thiết đại tế đànvà cũng để giảng luận. Lúc đó, có tám vạn bốn ngàn bà-la-môncùng tụ tập. Vị thượng tọa đệ nhất cũng đọc tụngthư sớ ngoại đạo, không gì không tinh tường. Hiểu biếtthiên văn địa lý, tinh tú biến quái tất đều biết rõ.Mỗi người khi sắp giải tán, họ liền lấy năm trăm lượngvàng, một cây gậy vàng, bình nước rửa bằng vàng và mộtngàn con bò dùng dâng lên vị thượng sư và thượng toạ đệnhất.[153]
“Bấygiờ bà-la-môn Siêu Thuật nghe cách nước lớn Bát-ma khôngxa có tám vạn bốn ngàn bà-la-môn đang tụ tập lại mộtchỗ. Họ có thi nghệ thuật. Người thắng được năm trămlượng vàng, một cây gậy vàng, một bình nước rửa bằngvàng và một ngàn con bò.
“Bà-la-mônSiêu Thuật nghĩ thầm: ‘Nay ta sao phải đi khất cầu từngnhà? Chẳng bằng đến đám đông kia cùng so tài nghệ.’
“Rồibà-la-môn Siêu Thuật liền đến chỗ đám đông. Bấy giờ,nhiều bà-la-môn từ xa trông thấy bà-la-môn Siêu Thuật, mọingười đều hô to: ‘Lành thay Từ chủ![154] Nay được lợilớn mới khiến Phạm thiên đích thân giáng hạ.’
“Khiấy tám vạn bốn ngàn bà-la-môn đều đứng dậy cùng nghinhđón, đồng loạt nói rằng: ‘Kính Đại Phạm Thần Thiênmới đến!’
“Bà-la-mônSiêu Thuật nghĩ thầm: ‘Các bà-la-môn nầy gọi ta là PhạmThiên, nhưng ta lại chẳng phải Phạm Thiên!’
“Rồibà-la-môn Siêu Thuật nói với các vị Bà-la-môn rằng: ‘Thôi,thôi, các Hiền giả, chớ gọi tôi là Phạm Thiên. Quí vịkhông nghe sao? Phía Bắc Tuyết sơn có thầy của chúng bà-la-môntên Da-nhã-đạt, thiên văn địa lý không gì không tinh thông.’
“Cácbà-la-môn nói: ‘Chúng tôi có nghe, nhưng chưa từng gặp.’
“Bà-la-mônSiêu Thuật nói: ‘Tôi chính là đệ tử của vị ấy, tênlà Siêu Thuật.’
“Rồibà-la-môn Siêu Thuật liền quay sang vị thượng tọa đệ nhấttrong chúng ấy báo rằng: ‘Nếu ngài biết kỹ thuật xin nóicho tôi nghe.’
“Bấygiờ, người đứng đầu trong chúng kia liền quay sang bà-la-mônSiêu Thuật tụng ba tạng kỷ thuật[155] không hề sai sót.Bà-la-môn Siêu Thuật nói với vị thượng tọa kia rằng: ‘Mộtcâu năm trăm lời, ông hãy nói đi!’
“Lúcđó, vị thượng tọa kia nói: ‘Tôi không hiểu nghĩa nầy.Cái gì là một câu năm trăm lời?’
“Bà-la-mônSiêu Thuật bảo: ‘Quí vị, hãy yên lặng nghe nói một câunăm trăm lời; nói về tướng [598b01] của bực đại Nhân.’
“Tỳ-kheo,nên biết, bấy giờ bà-la-môn Siêu Thuật liền tụng thuậtba tạng và, một câu năm trăm lời, về tướng của bực đạinhân. Khi ấy, tám vạn bốn ngàn bà-la-môn khen, ‘Chưa từngcó, thật là kỳ đặc, từ trước chúng ta chưa nghe một câunăm trăm lời về tướng của bực đại nhân. Nay tôn giảnên đứng đầu làm thượng toạ đệ nhứt.’
“Bấygiờ bà-la-môn Siêu Thuật thay chỗ thượng tọa kia rồi, liềnngồi vào chỗ cao nhứt. Lúc đó, thượng tọa của chúng kiatrong lòng rất tức giận, phát thệ nguyện như vầy: ‘Ngườinầy thay chỗ ngồi của ta, tự thế vào chỗ đó. Những phướcmà ta có được nhờ tụng kinh, trì giới, khổ hạnh, nay đềuđem hết để vào lời thề: Những nơi nào người nầy sanhra, những việc gì người này muốn làm, ta luôn luôn phá hỏngcông việc của nó.’
“Lúcđó người chủ cúng thí liền xuất năm trăm lạng vàng vàmột cây gậy vàng, một bình nước rửa bằng vàng, một ngàncon bò và một cô gái đẹp đem đưa cho thượng tọa đểchú nguyện.
“Bấygiờ thượng tọa bảo chủ nhân rằng: ‘Nay tôi nhận nămtrăm lạng vàng, gậy vàng và bình nước rửa bằng vàng nầyđem cúng dường thầy tôi. Còn cô gái và một ngàn con bònầy trả lại cho thí chủ. Vì sao vậy? Vì tôi không tậphành dục, cũng không chứa của.’
“Bà-la-mônSiêu Thuật sau khi nhận gậy và bồn tắm rửa bằng vàng rồiliền đi đến nước lớn Bát-ma. Vua nước đó tên là QuangMinh.[156] Lúc đó, nước này thỉnh Như Lai Định Quang và chúngTỳ-kheo cúng dường y phục ẩm thực. Bấy giờ, vua nướcnày thông báo trong thành: ‘Người dân nào có hương hoa, hếtthảy không được bán. Nếu có ai bán, sẽ bị phạt nặng.Ta tự xuất tiền ra mua không cần đem bán.’ Lại ra lệnhnhân dân rưới nước quét dọn làm cho sạch, không để cóđất cát dơ bẩn, treo tràng phan bảo cái lụa là, rưới hươngthơm trên đất, xướng ca kỹ nhạc không thể tính kể.
“Bà-la-mônkia thấy vậy, liền hỏi người đi đường rằng: ‘Nay làngày gì mà rưới nước quét dọn đường sá, dẹp bỏ bấttịnh, treo tràng phan bảo cái lụa là, không thể tính kể,chẳng lẽ thái tử của quốc chủ hay kết hôn chăng?’
“Ngườiđi đường kia đáp: ‘Bà-la-môn không biết sao? Hôm nay vuanước lớn Bát-ma thỉnh Định Quang Như Lai, Chí chơn, Đẳngchánh giác, cúng dường y phục đồ ăn thức uống, nên mớisửa sang đường xá bằng phẳng, treo tràng phan bảo cái lụalà.’Vả lại, trong bí điển của bà-la-môn cũng có lờinầy: ‘Như Lai xuất thế rất khó gặp được. Rất lâu mớixuất hiện; thật khó có thể gặp được. Cũng như hoa ưu-đàm-bátthật rất lâu mới xuất hiện. Đây cũng [598c01] như vậy,Như Lai xuất hiện ở đời thật không thể gặp được. Lạitrong sách bà-la-môn cũng nói: ‘Có hai người ra đời rấtkhó gặp được. Hai người ấy là ai? Như Lai và Chuyển luânThánh vương. Hai người nầy xuất hiện rất khó gặp được.’
“Bấygiờ người kia lại nghĩ rằng: ‘Ta sao phải cấp tốc báoân thầy? Nay ta hãy đem năm trăm lạng vàng nầy dâng lên đứcĐịnh Quang Như Lai.’ Ông lại nghĩ như vầy: ‘Trong sáchcó ghi, Như Lai không nhận vàng bạc trân bảo, ta có thể đemnăm trăm lạng vàng này, dùng mua hoa hương rải lên Như Lai.’Lúc đó, bà-la-môn liền vào trong thành tìm mua hương hoa. Bấygiờ, người đi lại trong thành bảo rằng: ‘Bà-la-môn khôngbiết sao? Quốc vương có ra lệnh, ai bán hương hoa sẽ bịphạt nặng.’
“Bà-la-mônSiêu Thuật kia liền nghĩ như vầy: ‘Ta đây phước mỏng,tìm hoa không được. Nên biết làm sao?’ Ông liền trở rakhỏi thành, đứng ở ngoài cổng. Khi ấy có nữ bà-la-môntên là Thiện Vị[157] cầm bình đi lấy nước, tay cầm nămcành hoa. Bà-la-môn thấy vậy, nói với người nữ kia: ‘Nàycô em, tôi đang cần hoa. Cô em bán cho tôi.’
“NữPhạm chí hỏi: ‘Tôi làm em ông hồi nào? Có biết chamẹ tôi không?’Khi ấy, Phạm chí Siêu Thuật lại nghĩrằng cô gái nầy tánh hạnh phóng khoáng, có ý đùa giỡn.Liền nói lại rằng: ‘Thưa cô, tôi sẽ trả giá phảichăng. Xin cô nhường lại tôi hoa nầy.’
“Nữbà-la-môn đáp: ‘Ông há không nghe Đại vương có nghiêm cấmkhông được bán hoa sao?’ Bà-la-môn nói: ‘Thưa cô, việcnầy không khó. Vua không làm gì cô đâu. Nay tôi cần gấpnăm cành hoa nầy. Tôi được hoa nầy, cô được giá cao.’
“Nữbà-la-môn hỏi: ‘Ông cần gấp hoa để làm gì?’
“Bà-la-mônđáp: ‘Hôm nay tôi thấy có đất lành, nên muốn trồng hoanầy.’
“Nữbà-la-môn nói: ‘Hoa nầy đã bị lìa khỏi gốc nó, chắcchắn không thể sống. Làm sao lại nói, tôi muốn trồng?’
“Bà-la-mônđáp: ‘Như hôm nay, tôi thấy ruộng tốt, trồng tro nguộicòn sống huống chi hoa nầy.’
“Nữbà-la-môn hỏi: ‘Ruộng tốt gì mà trồng tro nguội cũng sống?’
“Bà-la-mônđáp: ‘Thưa cô, có đức Phật Định Quang Như Lai, Chí chân,Đẳng chánh giác xuất hiện ở đời.’
“Nữbà-la-môn hỏi: ‘Phật Định Quang Như Lai là hạng ngườinào?’
“Bà-la-mônliền trả lời cô kia: ‘Định Quang Như Lai có đức như vậy,có [599a01] giới như vậy; làm nên các công đức.’
“Nữbà-la-môn nói: ‘Giả sử vị ấy có công đức; nhưng ôngmuốn cầu phước gì?’
“Bà-la-môntrả lời: ‘Mong tôi đời sau như đức Định Quang Như Lai,Chí chân, Đẳng chánh giác; công đức cấm giới cũng sẽnhư vậy.’
“Nữbà-la-môn nói: ‘Nếu ông hứa tôi đời đời làm vợ chồng,tôi sẽ cho ông hoa nầy.’
“Bà-la-mônnói: ‘Sự tu hành của tôi là ý không dính mắc dục.’
“Nữbà-la-môn nói: ‘Như thân tôi hiện tại, không mong làm vợông. Nhưng đời sau sẽ làm vợ ông.’
“Bà-la-mônSiêu Thuật nói: ‘Sở hành của Bồ tát làm không có yêutiếc. Nếu như cô làm vợ tôi, đó là phá hoại tâm tôi.’
“Nữbà-la-môn nói: ‘Tôi quyết không phá hoại tâm ý bố thícủa ông. Ngay dù ông đem thân tôi bố thí cho người khác,tôi quyết không phá hoại tâm bố thí.’
“Khiấy, ông liền đem năm trăm tiền vàng dùng mua năm cànhhoa, cùng với người nữ kia lập thề nguyện với nhau,rồi từ biệt đi.
“Bấygiờ, Định Quang Như Lai, Chí chân, Đẳng chánh giác, đếngiờ, khoác y cầm bát cùng với Tỳ-kheo Tăng vây quanh trướcsau đi vào nước lớn Ba-ma. Phạm chí Siêu Thuật từ xathấy đức Định Quang Như Lai dung mạo đoan chánh, ai thấycũng hoan hỷ; các căn tịch tịnh, bước đi tề chỉnh, cóba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, giống nhưnước lắng trong không có cợn nhơ, ánh sáng chiếu khắpkhông bị ngăn chận, cũng như núi báu xuất hiện trêncác núi. Thấy rồi, trong lòng ông rất hoan hỷ đối vớiNhư Lai. Ông cầm năm cành hoa nầy đến chỗ Định QuangNhư Lai. Đến nơi rồi, đứng qua một bên.
“Phạmchí Siêu Thuật bạch Phật Định Quang rằng: ‘Mong ThếTôn, hãy nhận lấy và thọ ký cho con. Nay nếu Thế Tônkhông thọ ký, con sẽ dứt mạng căn ngay tại đây, không mongsống nữa.’
“ThếTôn bảo rằng: ‘Phạm chí, không thể chỉ với năm cànhhoa nầy mà được thọ ký Vô thượng Đẳng chánh giác.’
“Phạmchí bạch: ‘Mong Thế Tôn thuyết cho con nghe sở hành củaBồ tát.’
“ĐứcPhật Định Quang bảo: ‘Sở hành của Bồ tát là không tiếclẩn.’
“Bấygiờ bà-la-môn liền nói kệ:
Không dám đem cha mẹ
Mà bố thí cho người.
Chư Phật, bậc cao cả,
Lại càng không dám thí.
Nhựt nguyệt xoay thế gian,
Hai thứ không thể thí.
Ngoài ra thí được hết,
Ý quyết, không gì khó.
“Bấygiờ đức Phật Định Quang dùng kệ này đáp bà-la-môn:
Sự thí mà ông nói
Cũng chẳng phải lời Phật.
Nên nhẫn khổ ức kiếp;
Thí đầu, thân, tai, mắt,
Vợ con, nước, của báu,
Xe, ngựa và tôi tớ;
Nếu ông kham chịu thí
Nay Ta thọ ký cho.
“Bấygiờ Ma-nạp lại nói kệ này:
Núi lớn hừng như lửa,
Ức kiếp chịu đội mang.
Không thể phá đạo tâm;
Chỉ mong giờ thọ ký.
“Bấygiờ, Định Quang Như Lai yên lặng không nói. Bà-la-môn kiatay cầm năm cành hoa, gối phải chấm đất, rải lên đứcĐịnh Quang Như Lai và nói như vầy: ‘Nguyện đem phước lànhnầy dành đời sau sẽ được như Định Quang Như Lai, Chíchân, Đẳng chánh giác không có khác.’ Rồi ông trải tócmình lên vũng bùn, thầm nguyện: ‘Nếu Như Lai truyền thọký cho tôi thì hãy dùng chân dẫm lên tóc tôi mà đi qua.’
“Tỳ-kheonên biết, bấy giờ, Định Quang Như Lai quán sát những suynghĩ trong tâm bà-la-môn, liền bảo bà-la-môn: ‘Tương laiông sẽ làm Phật Thích-ca Văn Như Lai, Chí chân, Đẳng chánhgiác.’
“Bấygiờ, bà-la-môn Siêu Thuật có người đồng học tên là Đàm-ma-lưu-chiđứng bên cạnh Như Lai, thấy Định Quang Như Lai truyền thọký cho bà-la-môn Siêu Thuật, lại dùng chân đạp lên tóc.Thấy vậy, liền nói như vầy: ‘Sa-môn đầu trọc này saodám dẫm chân lên tóc của bà-la-môn thanh tịnh này? Đây làhành vi của phi nhân.’
“Phậtbảo các Tỳ-kheo: ‘Bà-la-môn Da-nhã-đạt lúc đó, há làngười nào khác chăng? Chớ có nghĩ như vậy. Bởi vì Da-nhã-đạtlúc ấy nay chính là Bạch Tịnh Vương. Vị thượng tọa củatám vạn bốn ngàn bà-la-môn lúc đó, nay là Đề-bà-đạt-đâu.Bà-la-môn Siêu Thuật lúc đó, nay chính là Ta. Nữ bà-la-mônbán hoa lúc đó, nay chính là Cù-di.[158] Từ chủ lúc ấy, naychính là bà-la-môn Chấp Trượng.[159] Đàm-ma-lưu-chi lúc đómiệng tuôn lời thô tục, nay chính là Đàm-ma-lưu-chi hiệnnay. Song Đàm-ma-lưu-chi trong vô số kiếp lại thường làmsúc sanh. Thọ thân sau cùng là thân cá dài bảy trăm do-tuầntrong đại dương. Từ đó mạng chung sanh đến chốn nầy,theo hầu thiện tri thức, thường gần gũi thiện tri thức,tập các pháp lành, các căn thông lợi. Vì nhân duyên này,nên [599c01] Ta nói lâu rồi mới đến chốn nầy.”
Đàm-ma-lưu-chilại cũng tự trình bày:
“Thậtvậy, bạch Thế Tôn! Lâu rồi con mới đến nơi nầy.”
“Chonên các Tỳ-kheo thường phải tu tập thân, khẩu, ý nghiệp.Này các Tỳ-kheo, hãy học điều nầy như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 4
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đànước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“NayTa sẽ thuyết về sự có người như sư tử, có người nhưdê. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
CácTỳ-kheo đáp:
“Kínhvâng, Thế Tôn!”
CácTỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:
“Ngườikia vì sao như sư tử? Ở đây, này Tỳ-kheo, hoặc có ngườiđược cúng dường y phục, đồ ăn thức uống, giường chiếu,ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh. Người đó được rồi liềntự dùng, không khởi tâm nhiễm trước, cũng không có dụcý, không khởi các tưởng, hoàn toàn không có những niệmnày, tự biết pháp xuất yếu. Cho dù không được lợi dưỡng,không khởi loạn niệm, không tâm tăng giảm. Như sư tử chúaăn thịt thú nhỏ. Lúc đó, vua loài thú cũng không nghĩ: ‘Cáinày ngon, cái này không ngon;’ không khởi tâm đắm nhiễm,cũng không dục ý, không khởi các tưởng. Người nầy cũnglại như vậy. Nếu được cúng dường y phục, đồ ăn thứcuống, giường chiếu, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh. Ngườiđó được rồi liền tự dùng, không khởi ý tưởng đắmtrước, cho dù không được cũng không có các niệm tưởng.
“Lạicó người nhận người cúng dường y phục, đồ ăn thứcuống, gường chiếu, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh, đượcrồi liền tự dùng, lại khởi tâm nhiễm trước, sinh tâmái dục, không biết đạo xuất yếu. Giả sử không được,thì thường sinh niệm tưởng này. Nếu người đó đượccúng dường, đối với các Tỳ-kheo, mà tự cống cao, hủybáng người khác: ‘Những y phục, đồ ăn thức uống, giườngchiếu, tọa cụ, thuốc trị bệnh mà ta có, các Tỳ-kheo kheonày không thể có được vậy.’ Cũng như trong đàn dê lớn,có một con dê rời đàn, thấy đống phân lớn. Con dê nàyăn phân no rồi, quay lại trong đàn dê, liền tự cống cao:‘Ta có được ăn ngon, bầy dê nầy không thể ăn được.’Ở đây cũng như vậy, nếu có một người được lợi dưỡng,y phục, giường chiếu, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh, khởicác loạn tưởng, sanh tâm nhiễm trước liền đối với cácTỳ-kheo, mà tự cống cao: ‘Ta có được [600a01] cúng dường,các Tỳ-kheo này không được cúng dường.’
“Chonên, này các Tỳ-kheo, hãy học như sư tử chúa, chớ như condê. Các Tỳ-kheo, hãy học những điều nầy như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 5
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
“Nếucó chúng sanh biết báo đáp, người nầy đáng kính, ân nhỏcòn không quên huống chi ân lớn. Cho dù người đó cách chốnnày ngàn do tuần, trăm ngàn do tuần mà không là xa, cũng nhưgần Ta không khác. Vì sao vậy? Tỳ-kheo nên biết, vì ta thườngkhen ngợi người biết báo đáp.
“Cónhững chúng sanh không biết báo đáp, ân lớn còn quên huốngchi ân nhỏ. Kẻ đó chẳng gần Ta. Ta chẳng gần kẻ đó.Giả sử khoác tăng-già-lê hầu hạ bên Ta, kẻ nầy cũng nhưxa. Vì sao vậy? Ta không bao giờ nói về người không báo đáp.Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy nhớ báo đáp, chớ học khôngbáo đáp.
“CácTỳ-kheo, hãy học tập điều nầy như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 6
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
“Nếucó người lười biếng, gieo trồng hành vi bất thiện, cósự tổn hại trong các sự. Nếu có người siêng năng khônglười biếng, người nầy tối diệu, có tăng ích trong cácthiện pháp. Vì sao vậy? Bồ-tát Di-lặc trải qua ba mươi kiếp,mới thành Phật Chí chân, Đẳng chánh giác. Ta nhờ tâm dõngmãnh, sức tinh tấn, nên khiến Di-lặc ở sau. Hằng sa cácNhư Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác, [160] thời quá khứ, đềudo dõng mãnh mà được thành Phật. Do phương tiện nầy, nênbiết, lười biếng là khổ, tạo các hành ác, có tổn hạitrong các sự. Nếu có tâm dõng mãnh tinh tấn mạnh, có tăngích trong các công đức thiện. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãyniệm tinh tấn, chớ có lười biếng.
“CácTỳ-kheo, hãy học tập điều nầy như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 7
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. [600b01] Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
“Tỳ-kheoa-lan-nhã nên tu hành hai pháp. Hai pháp gì? Đó là chỉ và quán.
“NếuTỳ-kheo a-lan-nhã đắc tịch tĩnh, tịch diệt, tĩnh chỉ, thìthành tựu giới luật, không mất oai nghi, không phạm cấmhạnh, tạo các công đức.
“NếuTỳ-kheo a-lan-nhã lại được quán rồi, liền quán và biếtnhư thật rằng, đây là khổ; quán biết như thật rằng đâylà khổ tập, khổ diệt, khổ đạo xuất yếu. Người đóquán như vậy rồi, tâm được giải thoát khỏi dục lậu,tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, vô minh lậu, bèn đượctrí giải thoát, biết như thật rằng, sanh tử đã hết, phạmhạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sinh nữa.
“ChưNhư Lai Chí chơn, Chánh đẳng Chánh giác* thời quá khứ, nhờhai pháp này mà được thành tựu. Vì sao vậy? Như khi Bồ-tátngồi dưới bóng thọ vương, trước tiên tư duy pháp chỉvà quán nầy. Nếu Bồ-tát ma-ha-tát đã đắc chỉ rồi, bèncó thể hàng phục được các ma oán. Nếu Bồ tát đạt đượcquán rồi, ngay sau đó liền đạt được ba đạt trí,[161]thành Vô thượng Chí chân, Đẳng chánh giác. Cho nên, này cácTỳ-kheo, Tỳ-kheo a-lan-nhã nên tìm phương tiện hành hai phápnầy.
“CácTỳ-kheo, hãy học điều này như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 8
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
“Tỳ-kheoa-lan-nhã sống ở nơi nhàn tĩnh, không sống trong chúng, thìthường phải cung kính, phát tâm hoan hỷ. Nếu Tỳ-kheo a-lan-nhãsống ở nơi nhàn tĩnh, mà không có cung kính, không phát tâmhoan hỷ, thì dù ở trong chúng cũng bị người bàn tán rằng:‘Vị ấy không biết pháp của a-lan-nhã. Sao gọi là Tỳ-kheoa-lan-nhã mà không có tâm cung kính, không phát hoan hỷ?’
“Lạinữa Tỳ-kheo, Tỳ-kheo a-lan-nhã sống ở nơi nhàn tịnh, khôngở trong chúng, thì thường phải tinh tấn, chớ có lười biếng,phải hiểu rõ yếu chỉ các pháp. Nếu Tỳ-kheo a-lan-nhã nàoở nơi nhàn tịnh, mà có tâm lười biếng, tạo các hành ác,kẻ đó ở trong chúng bị người bàn tán, ‘Tỳ-kheo a-lan-nhãnầy lười biếng không có tinh tấn.’ Cho nên, này Tỳ-kheo,Tỳ-kheo a-lan-nhã ở nơi nhàn tịnh, không ở trong chúng, thườngphải quyết chí phát tâm hoan hỷ, chớ có lười biếng vàkhông có cung kính, niệm tưởng hành tinh tấn, ý khôngthay đổi, [600c01] sẽ thành tựu đầy đủ trong các thiệnpháp.
“CácTỳ-kheo, hãy học những điều này như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 9
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo:
“Cóhai hạng người, không thể khéo nói thuyết ngữ. Hai hạnggì? Thuyết về tín cho người không có tín, việc nầy thậtkhó. Thuyết về thí cho người tham lam keo kiết, đây cũngthật khó.
“Lạinữa, Tỳ-kheo, thuyết về tín cho người không có tín, họliền nổi sân nhuế, khởi tâm gây tổn hại. Cũng như chódữ thêm mũi lại bị thương, càng trở nên hung dữ. Các Tỳ-kheo,đây cũng như vậy, thuyết về tín cho người không có tín,họ liền nổi sân nhuế, khởi tâm gây tổn hại.
“LạiTỳ-kheo, thuyết về thí cho người tham lam keo kiết, họ liềnsanh sân nhuế, khởi tâm gây tổn hại. Cũng như ung nhọt chưamùi, lại bị dao cắt, đau không chịu nổi. Đây cũng nhưvậy, thuyết về thí cho người tham lam keo kiết, họ liềnsanh sân nhuế, khởi tâm gây tổn hại. Này Tỳ-kheo, đó gọilà có hai hạng người này khó thuyết pháp cho họ.
“Lạinữa Tỳ-kheo, có hai hạng người dễ thuyết pháp cho nghe.Sao gọi là hai? Thuyết tín cho người có tín; thuyết thí chongười không tham lam keo kiết. Này Tỳ-kheo, nếu thuyết tíncho người có tín, họ liền hoan hỷ, ý không hối tiếc. Nhưngười mắc bệnh, nói cho thuốc trừ bệnh liền được bìnhphục. Đây cũng như vậy. Thuyết tín cho người có tín, họliền hoan hỷ, tâm không thay đổi.
“Nếulại thuyết thí cho người không tham lam keo kiết, họ liềnhoan hỷ, tâm không có tiếc. Cũng như có trai, gái xinh đẹp,thích tắm rửa mặt mày, tay chân, rồi lại có người manghoa đẹp đến cho để tăng trưởng nhan sắc; lại đem y phục,trang sức tốt đẹp tặng những người đó. Họ được vậyrồi, lòng càng hoan hỷ. Đây cũng như vậy. Thuyết thí chongười không tham lam keo kiết, họ liền được hoan hỷ khôngcó tâm tiếc.
“NàyTỳ-kheo, đó gọi là có hai hạng người này dễ thuyết phápcho. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy học có tín, hãy học bốthí, chớ có xan tham.
“CácTỳ-kheo, hãy học tập điều này như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 10
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. [601a01] Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Cóhai pháp bố thí cho người phàm phu mà được công đức lớn,thành quả báo lớn, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi. Saogọi là hai pháp? Cúng dường cha mẹ. Đó là hai hạng ngườimà cúng dường đến thì được công đức lớn, thành quảbáo lớn.
“Lạinữa, cúng dường một vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, đượccông đức lớn, được quả báo lớn, được vị cam lộ,đến chỗ vô vi. Cho nên, các Tỳ-kheo, thường niệm hiếuthuận cúng dường cha mẹ.
“CácTỳ-kheo, hãy học tập điều nầy như vậy .”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 11[162]
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Cóhai người không thể báo ơn hết được, khuyến giáo làmđiều thiện. Hai người đó là ai? Đó là cha mẹ.
“Nàycác Tỳ-kheo, nếu có người vai trái vác cha, vai phải vácmẹ, trải qua ngàn vạn năm, lo áo quần, cơm nước, giườngnệm, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh, đại tiện, tiểu tiệnngay ở trên vai, vẫn chưa thể báo ơn hết được. Tỳ-kheonên biết, cha mẹ ân trọng, bồng bế, nuôi dưỡng, tùy lúcgiữ gìn không lỡ thời tiết, xem như mặ trời, mặt trăng.Do phương tiện nầy mà biết ân nầy khó báo đáp. Cho nên,này các Tỳ-kheo, phải cúng dường cha mẹ, thường phải hiếuthuận, không lỡ thời tiết.[163]
“CácTỳ-kheo, hãy học tập điều nầy như vậy.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 12
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ.
Bấygiờ Tôn giả Bàn-đặc[164] bảo người em là Châu-lợi Bàn-đặc[165]:
“Nếungươi không thể học thuộc giới, hãy trở về làm bạchy.”
Khiđó, Châu-lợi Bàn-đặc nghe những lời này, liền đi đếntinh xá Kỳ-hoàn, đứng ở ngoài cửa mà rơi lệ. Bấy giờ,Thế Tôn bằng thiên nhãn thanh tịnh, quán thấy Tỳ-kheo Châu-lợiBàn-đặc nầy đứng ở ngoài cửa, than khóc không xiết. ThếTôn từ trong tịnh thất đi ra giống như kinh hành, đến ngoàicửa tinh xá Kỳ-hoàn, bảo Châu-lợi Bàn-đặc:
“Tỳ-kheo,vì sao ở đây than khóc.”
Châu-lợiBàn-đặc đáp:
“BạchThế Tôn, con bị anh xua đuổi, nếu con không học thuộc giớiđược, thì trở về làm bạch [601b01] y, không nên sống ởđây. Cho nên, con than khóc.”
ThếTôn bảo:
“Tỳ-kheo,chớ ôm lòng lo sợ. Ta thành Vô thượng Đẳng chánh giác,không phải do Bàn-đặc anh của ngươi mà đắc đạo.”
Bấygiờ, đức Thế Tôn cầm tay dẫn Châu-lợi Bàn-đặc về tịnhthất, chỉ chỗ bảo ngồi. Thế Tôn lại dạy cầm chổi quét:
“Ngươiđọc thuộc chữ này, nó là chữ gì.”
KhiChâu-lợi Bàn-đặc học được chữ “quét” lại quên chữ“chổi”. Nếu học thuộc được chữ “chổi” lại quênchữ “quét”. Tôn giả Châu-lợi Bàn-đặc tụng hai chữ“chổi quét” này, qua mấy ngày. Song cái chổi quét này làđể trừ sạch bụi bẩn. Châu-lợi Bàn-đặc lại nghĩ nhưvầy: “Trừ là gì? Bẩn là gì? Bẩn là tro, đất, ngói, đá.Trừ là làm cho sạch.”
Lạinghĩ như vầy: “Thế Tôn vì sao đem việc nầy dạy cho ta.Nay ta phải tư duy nghĩa nầy.” Vì tư duy nghĩa nầy, lạinghĩ như vầy: “Nay trên thân ta cũng có bụi bẩn. Ta tựví dụ. Sao là trừ? Sao là bẩn?” Ông lại nghĩ thầm: “Dínhkết là bẩn. Trí huệ là trừ. Nay ta có thể dùng chổi tríhuệ quét dính kết nầy.”
RồiTôn giả Châu-lợi Bàn-đặc tư duy năm thủ uẩn là thành,là hoại. Cái gọi là sắc nầy, sắc tập, sắc diệt; cáigọi là thọ[166], tưởng, hành, thức này là thành, là bại.Sau khi tư duy năm thủ uẩn nầy, tâm được giải thoát khỏidục lậu, tâm được giải thoát hữu lậu, vô minh lậu. Đãđược giải thoát, liền được trí giải thoát, biết nhưthật rằng, sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làmđã xong, lại không còn tái sinh nữa, biết chúng như thật.Tôn giả Châu-lợi Bàn-đặc thành A-la-hán. Sau khi thành A-la-hán,Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ đức ThếTôn, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên, bạch ThếTôn:
“Naycon đã có trí, nay đã có huệ. Nay con đã hiểu được chổiquét.”
ThếTôn bảo:
“Tỳ-kheo,hiểu nó thế nào?”
Châu-lợiBàn-đặc đáp:
“Trừlà huệ. Bẩn là dính kết.”
ThếTôn nói:
“Lànhthay, Tỳ-kheo, như những lời ngươi nói, trừ là huệ. Bẩnlà dính kết”.
Bấygiờ Tôn giả Châu-lợi Bàn-đặc hướng về Thế Tôn mà nóikệ này:
Nay đã tụng thuộc đủ
Như lời Phật đã dạy.
Trí huệ hay trừ kết
Không do hạnh nào khác.
ĐứcThế Tôn bảo:
“Tỳ-kheo,như những lời ngươi nói, chỉ bằng trí huệ chứ không do[601c01] cái khác.”
CácTỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.
KINHSỐ 13
Tôinghe như vầy:
Mộtthời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Cóhai pháp nầy, không thể mong đợi, cũng không đủ mến yêu,bị người đời vứt bỏ. Hai pháp gì? Oán ghét gặp nhau,điều này không thể mong đợi, cũng không đủ để mến yêu,bị người đời vứt bỏ. Ân ái biệt ly, không thể mong đợicũng không đủ để yêu mến, bị người đời vứt bỏ. NàyTỳ-kheo, đó gọi là có hai pháp nầy bị người đời khôngưa, không đáng mong đợi.
“Tỳ-kheo,lại có hai pháp không bị người đời bỏ. Hai pháp gì? Oánghét xa lìa, được người đời ưa thích. Ân ái họp mộtchỗ, rất đáng yêu mến, được người đời ưa thích. NàyTỳ-kheo, đó gọi là có hai pháp nầy, được người đờiưa thích. Nay Ta nói oán ghét gặp nhau, ân ái xa lìa này; lạinói oán ghét xa lìa, ân ái gặp nhau là có nghĩa gì, có duyêngì?”
Tỳ-kheođáp:
“ThếTôn là chủ của các pháp. Cúi mong đức Thế Tôn vì chúngcon mà giảng. Các Tỳ-kheo nghe xong sẽ cùng phụng hành.”
ThếTôn bảo:
“Lắngnghe, suy nghĩ kỹ, Ta sẽ phân biệt nói rõ cho các ngươi. Nàycác Tỳ-kheo, hai pháp nầy do ái nổi lên, do ái sanh ra, do áimà thành, do ái trổi dậy, phải học trừ ái này, đừng đểsanh ra.
“CácTỳ-kheo, hãy học tập các điều nầy như vậy.”
Saukhi các Tỳ-kheo nghe Phật thuyết pháp, hoan hỷ phụng hành.[167]
[1]Tham chiếu Pāli, A. II. 9. 5 (R i. 83): bhavadiṭṭhi ca vibhavadiṭṭhica, hữu kiến và phi hữu kiến.
[2]Hán: thân tác chứng nhi tự du hý 身作證而自遊戲, tức là,tự thân chứng ngộ (chứng tri) và an trú (trong pháp đó).Ở trên kia, Hán dịch: nhi tự ngu lạc 而自娛樂; xem cht. 12kinh 1, phẩm 12. Pāli: kāyena sacchikaraṇīyā, cf. A. ii. 182.
[3]Hán: dục hữu kiến, sắc hữu kiến 欲有見.色有見.無色有見.
[4]Tham chiếu Pāli. A. II. 13. 1 (R i. 91).
[5]Tham chiếu Pāli, như trên.
[6]Pháp nghiệp 法業, tài nghiệp 財業. Pāli, ibid. : āmisayāgoca dhammayāgo, hiến tế tài vật, và hiến tế pháp.
[7]Tham chiếu Pāli, như trên.
[8]Pháp ân法恩, tài ân 財恩. Pāli: āmisacāgo ca dhammacāgo ca,thi ân (huệ thí) bằng tài vật và thi ân bằng pháp.
[9]Tham chiếu Pāli, A. ii. 10.1 (R i. 84).: yo ca anāgataṃ bhāraṃvahati, yo ca āgataṃ bhāraṃ na vahati, gánh nặng chưa đếnthì mang, gánh nặng đã đến lại không mang.
[10]Như Lai thần miếu 如來神廟. Skt. Caitya (Pāli: cetiya), thườngâm là chi-đề, chế-để, chế-đa. dịch là miếu hay linh miếu.Luật Tăng-kỳ 33 (tr. 498b20): “Có xá-lợi, gọi là tháp. Khôngcó xá-lợi, gọi là chi-đề 枝提.
[11]Như Lai tự 如來寺.
[12]Tham chiếu Pāli, A. II. 15. 10 (R i. 95): samatho và vipassanā.
[13]Tham chiếu, Thera 279.
[14]Tượng hoa viên 象華園. Khppng thấy tên Pāli tương đươngvề khu vườn này trong thành Vương xá.
[15]Ma Hành 魔行天子. Cf. There 179: Mārapakkha; Sớ giải: do phàmphu u tối, không từ duy chân chánh, phiên não ma tăng trưởng,do đó thiên ma thừa cơ xâm nhập.
[16]Tôn-đà-lợi 孫陀利. Skt. = Pāli: Sundarī. Truyền thuyết phươngBắc nói cô là người vợ hụt của Nan-đà. Truyền thuyếtPāli gọi cô này là Janapadakalyāṇī Nandā. Về sau cô cũngtheo Di mẫu Pajāpati xuất gia và cuối cùng thành A-la-hán. Cáctruyền thuyết cũng có thể lẫn lộn cô với Sudarī-Nandā,em gái của Trửong lão Nandā, con gái vua Sudodhana với bà Gotami.
[17]Bốn bộc lưu.
[18]Để bản: đệ tử 弟子. TNM: đệ nhất 弟一.
[19]Tham chiếu Pāli. Itiv. 44: dveme… nibbānadhātuyo. .. sa-upādisesāca nibbānadhātu, anupādisesā ca nibbānadhātu.
[20]Thánh A-na-hàm nhập niết-bàn tại một trong năm cõi trờiTịnh cư.
[21]Pāli, ibid., nói khác: A-la-hán lậu tận (arahaṃ hoti khīṇāsavo),nhưng các căn còn tồn tại (tiṭṭhanteva pañcidriyāni), vịấy còn có cảm thọ lạc và khổ (sukhadukkhaṃ paṭíaṃvedeti).
[22]Nguyên Hán: ý giải thoát 意解脫. Pāli: cetovimutti.
[23]Nguyên hán: trí tuệ giải thoát 智慧解脫. Pāli: paññāvimutti.
[24]Pāli, ibid., A-la-hán lậu tận, … tất cả cảm thọ khôngcòn hoan hỷ, trở thành nguội lạnh (sabbavedayitāni anabhinanditānisīti bhavissanti ).
[25]Hán: chấp trì cấm giới 執持禁戒, đoạn văn bị nhảy sót.Y theo văn mạch trên, sửa lại.
[26]Cf. A. II. 2 (R. i. 52): dvemāni balāni: paṭisaṃkhānabalañ ca bhāvanābalañca, có hai lực: tư trạch lực và tu tập lực.
[27]Bản sở sinh xứ 本所生處, tức Lực sĩ Sinh xứ, hay Sinhđịa (Pāli: Upavattana), quê hương của người Mạt-la (Malla),một bộ tộc, chủ nhân của Câu-thi-na (Pāli: Kusinārā), nơiPhật Niết-bàn. Sinh xứ (địa) hay Uapavattana cũng là tên gọicủa khu rừng Sala, nơi Phật nhập Niết-bàn.
[28]Câu-thi-na-kiệt 拘尸那竭國. Pāli: Kusinārā.
[29]Xà-bạt-tra 闍拔吒. Xem cht. 18 tiếp theo dưới.
[30]Phạm-ma-dụ 梵摩喻, xem Trung kinh 161: Phạm-ma 梵摩(Pāli: Brahmāyu),người ở Di-tát-la (Pāli: Mithila). Ông có đẹ tử làƯu-đa-la優多羅(Pāli: Uttara). Cf Pāli, M. ii. 133. Brahmāyu-sutta.
[31]Có lẽ đây là lối diễn giải thêm của dịch giả chứ khôngphải trực tiếp dịch từ nguyên bản Phạn.
[32]Nguyên trong bản: La-vân 羅雲.
[33]Tham chiếu Pāli, M. 62. Rāhulovāda (R i. 421).
[34]La-vân 羅雲. Pāli: Rāhula.
[35]Phân-vệ 分衛. Pāli: piṇḍapāta.
[36]An-ban 安般. Pāli: ānāpāṇa, hơi thở ra vào.
[37]Nguyên Hán: hộ tâm 護心.
[38]Tức tùng tâm xuất 息從心出, Hán dịch mơ hồ. Tất nhiênđây không có nghĩa từ trái tim. Tham chiếu Pāli: cittapaṭisaṃvedīassasissāmi, với cảm giác nhận biết tâm, tôi sẽ thở ra.
[39]An-đà viên 安陀園. Pāli: Andhavana. Cf. M. 147 Cūla-Rāhulovāda-sutta.
[40]Đay chỉ ly dục của sơ thiền, trừ ngũ dục của dục giới,không phải ly dục vô lậu của A-la-hán. Xem kinh 1 phẩm 12trên.
[41]Hữu giác hữu quán, về sơ thiền cho đến tứ thiền, địnhcú, và các cht, liên hệ, xem Phẩm 12, kinh 1, từ cht. 42 vàtiếp.
[42]Hán: niệm trì hỷ an 念持喜安. Trên kia, kinh 1 phẩm 12, Hándịch: hữu ỷ niệm lạc 有猗念樂.
[43]Hán: du 遊. Nơi khác dịch: tự ngu lạc ; hiểu là an trú. Pāli:vihārati.
[44]Trạng thái không tầm (giác) không tứ (quán) của thiền thứhai.
[45]Nên hiểu là nội đẳng tịnh. Xem cht. 42-50 kinh 1 phẩm 12 trên.
[46]Nên hiểu là tâm nhất cảnh tính. Xem cht.42-50 kinh 1 phẩm 12trên.
[47]Nên hiểu là định sinh hỷ lạc, tức trạng thái hỷ lạcphát sinh bởi định.
[48]Trên kia, ibid., Hán dịch: xả ư niệm, tu ư hộ 捨於念。修於護.Nên hiểu là “ly hỷ, trụ xả.” Vì thiền thứ ba đượcnói là “ly hỷ diệu lạc địa. Xem cht.42-50 kinh 1 phẩm 12trên.
[49]Hán: hộ niệm hỷ 護喜念. Nên hiểu là an trú lạc với niệmvà xả.
[50]Nên hiểu là xả và niệm thanh tịnh. Xem cht. 42-50 kinh 1 phẩm12 trên.
[51]Hán: tam-muội tâm 三昧。心; chỉ tâm định tĩnh do chứngtứ thiền; y tâm này mà chứng tam minh. Lưu ý ngắt chữ khôngđúng trong để bản. Pāli, định cú: so evaṃ samāhite citteparisuddhe…
[52]Bản Hán có thể nhầm do gán hình dung từ không đúng vớichủ từ. Nên hiểu, với tâm định tĩnh, thanh tịnh…, (và)nhu nhuyến. Pāli: so evaṃ samāhite citte parisuddhe…mudubhūte…
[53]Bản Hán, hết quyển 7.
[54]Tham chiếu Pāli, A. II. 6. 2 (R.i. 77)
[55]Tham chiếu A. II. 6.5.
[56]Tất-địa-bàn-trì 畢地槃持. Không rõ loại cây gì. Các hạtgiống đằng thường được kể trong Pāli: nimba, kosātaki,tittikālabu (A. i. tr. 32).
[57]Đảnh Sanh 頂生. Pāli: Mandhātā. Truyện kể tương tự, xemTrung, kinh 60: Tứ châu.
[58]Kiếp-ba-dục 劫波育. Pāli: kappāsika, được làm bằng bônggòn.
[59]Hán: bất khởi kỳ tưởng 不起其世間想. Nơi khác nói: bấthưng (khởi) thế gian tưởng. Pāli, định cú: na kiñciloke upādiyati, không còn chấp thủ bất cứ gì trên thế gian.
[60]Sanh Lậu 生漏; xem Phẩm 6 kinh 2.
[61]Xem Trung 36 (T2n125, tr. 584c12).
[62]Ni-câu-lưu viên 尼拘留園; vườn cây đa, ở ngoài thành Ca-tỳ-la-vệ(Pl. Kapilavatthu). Pāli: Nigrdhārāma.
[63]Thích-sí 釋翅, phiên âm: giữa những người họ Thích. Pāli:Sakkesu.
[64]Phổ nghĩa giảng đường. Pāli: Santhāgārasālā (Sandhāgāra),hội trường của họ Thích. cf. M. i. 91.
[65]Có lẽ đồng nhất với Lokāyatika của Pāli, cf. S. ii. 77ffạnsau, kinh 9 phẩm 44 phiên âm là Lo-ca-diên 盧迦延.
[66]Bản Hán có thể nhảy sót. Nên hiểu: Có con đường nào dẫnđến diệt tận ái không?
[67]Chánh hành 正行; tức chánh tư duy. Trên kia có nơi nói làchánh trị.
[68]Da-duy 耶維 trong Hán dịch, ta quen nói là trà-tỳ. (Pāli: jhāpeti)
[69]Đây chỉ Xá-lợi-phất.
[70]Bà-la-lưu-chi 婆羅留支, Skt. Vāraluci (?), Hán dịch: ChiếtChỉ 折指, Vô Chỉ 無指. Tên hiệu của A-xà-thế (Pāli: Ajātấttu),theo truyền thuyết phương Bắc. Pāli không thấy nói đếntên hiệu này.
[71]Bản Hán, hết quyển 8.
[72]Tương đương Pāli, A. II. 1.9 Hirottapa (R i. 51 ).
[73]Hán: diệu pháp 妙法. Pāli, ibid. : dhammā sukkā, hai pháp tinhtrắng.
[74]Hữu tàm hữu quý 有慚有愧. Pāli: hirī ca ottapañca.
[75]Pāli tương đương, M 3 Dhammadāyāda (R i. 12); Hán: Trung kinh88.
[76]Pháp thí 法施, thực thí 食施. Hán dịch không chỉnh. dāyāda:(người) thừa tự, thừa kế; Hán hiểu là dāya: cho, bố thí.Xem nội dung dưới đây sẽ rõ. Pāli, ibid.: dhammadāyādā me,bhikkhave, bhavatha, mā āmisadāyādā, này các Tỳ-kheo, hãy làkẻ thừa tự pháp của Ta, chứ đừng là kẻ thừa tự tàivật của Ta.
[77]Pāli: atthi me tumhesu anukampā, Ta hăng thương tưởng đến cácngươi.
[78]Tham chiếu Pāli, ibid., bị chỉ trích: Thày trò bị chỉ lànhững kẻ thừa tự tài vật (āmisadāyādā satthusāvakā viharanti).
[79]Hán: dục thí 欲施; được hiểu là bố thí vật dục tứcvật chất.
[80]Hán: di dư pháp 遺餘法; đây chỉ đồ ăn còn dư thừa. Pāli,ibid.: (piṇḍapāto) atirekadhammo, đồ ăn khất thực (thuộcloại, pháp) còn dư tàn.
[81]Câu này có thể là diễn dịch thêm của dịch giả Hán.
[82]Hai chữ đệ tử này nghi Hán chép dư. Xem cht. 12 tiếp theo.
[83]Tham chiếu Pāli: satthu pavivittassa viharato sāvakā vivekaṃ nānusikkhanti,“Tôn sư sống viễn ly, nhưng các đệ tử không học theohành viễn ly.” Có sự trùng lặp trong bản Hán: Thanh vănvà đệ tử, cả hai đều dịch tư một từ gốc: Skt. śrāvaka(Pāli: sāvaka).
[84]Tịch tĩnh xứ 寂靜之處. Pāli: viveka, viễn ly, đời sốngẩn dật.
[85]Pāli: họ sống sung túc (bahulikā), lười nhác (sāthlikā), dẫnđầu đọa lạc (okkame pubbaṅgamā), quăng bỏ hạnh viễn ly(paviveke nikkhittadhurā).
[86]Đệ tử, nghi dư. Xem văn mạch các đoạn trên.
[87]Pāli: lobho ca pāpako, tham là ác pháp.
[88]Đắc xử trung chi đạo 得處中之道. Pāli: atthi majjhimā paṭipadā.
[89]Pāli: cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhiññāya sambodhāyanibbānāya saṃvattati, nó tác thành nhãn, tác thành trí, dẫnđến tịch tĩnh, thắng trí, chánh giác, Niết-bàn.
[90]Pāli: mada, pamāda, kiêu xa và phóng dật.
[91]Tam-phật-(đà) 三佛. Tức Pāli: sambuddha, Phật chánh giác.
[92]Tụng, chỉ các thi tụng Vệ-đà. Xem Trương, kinh 23: Cứu-la-đàn-đầu.
[93]Định cú Pāli: anupubbikathā… nekkhmme ānisaṃsaṃ pakādeti,diễn nói pháp theo thuận thứ… sích lợi của sự xuất ly.Pāli: nekkhamma, bản Hán hiểu là xuất gia; đây chỉ sự xuấtly hay ly dục, theo thuậ tự pháp đợc nói. Xem Trung (Việt),kinh 38, cht. 3.
[94]Na-la-kỳ-lê 那羅祇梨. Pāli: Nālāgiri (Dhanapāla), cf. Vin.ii.194f.
[95]Cf. Dhp. 13, 14. Yathā agāraṃ ducchannaṃ, vuṭṭhī samativijjhati;evaṃ abhāvitaṃ cittaṃ, rāgo samativijjhati. Yathā agāraṃ suchannaṃ,vuṭṭhī na samativijjhati; evaṃ subhāvitaṃ cittaṃ, rāgo nasamativijjhati.
[96]Hương sơn 香山, tức Hương túy sơn (Pāli, Skt. Gandhamādana),xem Trường, kinh 18: Thế ký.
[97]Thích-sí-sấu 釋翅瘦, hay Thích-sí 釋翅; Pāli: Sakkesu: giữanhững người họ Thích. Xem kinh 10, phẩm 17.
[98]Đại Ái Đạo Cù-đàm-di 大愛道瞿曇彌. Pāli: MahāpajāpatīGotamī.
[99]Để bản: lễ 禮. TNM: thị 視.
[100]Lưu ý Hán dịch đảo cú. So ngữ cảnh tiếp theo để rõ.Cf. A ii. 3. 3 (R i. 60).
[101]Bản Hán, hết quyển 9.
[102]Tham chiếu Pāli, S. 6. 1.1. Brahma-āyācana (R. i. 136)
[103]Pāli, ibid.: tại Uruvela, bên bờ sông Nerañjara, dưới gốccây bồ-đề ajapālanigrodha.
[104]Tham chiếu Pāli, ibid.: adhigato kho myāyaṃ dhammo gambhīro duddasoduranubodho santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo.ālayarāmā kho panāyaṃ pajā ālayaratā ālayasammuditā. … duddasaṃidaṃ ṭhānaṃ yadidaṃ idappaccayatāpaṭiccasamuppādo, pháp màTa chứng đắc sâu xa, khó thấy, khó giác ngộ, tịch tĩnh,vi diệu, không thể suy lý, thâm áo, chỉ bậc trí mới cảmnghiệm được. Chúng sanh này vui thích chấp tàng, yêu thíchchấp tàng, hoan hỷ chấp tàng …khó thấy điều này, đólà lý y tánh duyên khởi.
[105]Tham chiếu Pāli, ibid.: santi sattā apparajakkhajātikā, assavanatādhammassa parihāyanti ,“Có những chúng sanh chỉ dính một ítbụi bẩn, nếu không được nghe pháp, chúng sẽ thối đọa.”
[106]Hán: Pháp chi di tử 法之遺子. Pāli, ibid.: bhavissanti dhammassaaññātāro, chúng sẽ là những người khai ngộ pháp.
[107]Tham chiếu Pāli, S. 56. 2. 1 (R v. 420)
[108]Pāli: Isipatana Migadāya.
[109]Hán: dục cập lạc. Pāli: kāmasukhallikānuyo, tham đắm khoáilạc dục vọng.
[110]Hán: hựu thử chư khổ chúng não bách đoan 此諸苦眾惱百端;không rõ nghĩa, hay nhầm. Tham chiếu Pāli, ibid.: dveme, antā… kāmesu kāma-sukhallikānuyogo … attakilamathānuyogo dukkho anariyoanatthasaṃhito, “Có hai cực đoan này…đắm đuối lạc dụctrong các dục vọng…và đắm đuói tự hành xác, đau khổ,phi Thánh, không liên hệ mục đích (giải thoát).
[111]Hán: chí yếu chi đạo 至要之道; đây hiểu là con đườnggiữa, trung đạo. Tham chiếu Pāli, ibid.: ubho ante anupagamma majjhimāpaṭipadā, “tránh xa hai cực đoan này, là con đường giữa.”
[112]Kệ tóm tắt này gồm 10, nhưng thiếu hệ thống. La-hầu-la(La-vân), trong phẩm 17. Ca-diếp, và tiếp theo, phẩm 18. Haikinh chót, phẩm 19.
[113]Tham chiếu Pāli, M. 37 Taṇhāsaṅkhaya (R i. 251). Hán, Tạp (Việt)kinh 504.
[114]Hán: đoạn ư ái dục tâm đắc giải thoát 斷於愛欲 心得解脫.Pāli, ibid.: taṇhāsaṅkhayavimutto, ái tận giải thoát (giảithoát do khát ái đã diệt tận).
[115]Câu-dực 拘翼. Pāli: Kosiya.
[116]Không pháp 空法. Có lẽ từ này do dịch giả diễn ý. Đoạnthuật lại sau này không có từ này. Pāli, ibid.: sabbe dhammānālaṃ abhinivesāyā’ti, hết thảy các pháp không đáng đểtham trước.
[117]Tham chiếu Pāli, ibid. : tāsu vedanāsu aniccānupassī … nissaggānupassīviharanto na kiñci loke upādiyati, quán vô thường nơi các thọấy, rồi vị ấy an trú quán xả ly, không chấp thủ cái gìở trên đời.
[118]Pāli: anupādiyaṃ na paritassati, không chấp thủ, nên không sợhãi. Có lẽ bản Hán đọc anuppādayaṃ (không khởi, sinh khởi)thay vì anupādiyaṃ (không chấp thủ).
[119]Tối thắng giảng đường 最勝講堂. Pāli: Vejayanta-pāsāda,cung điện Chiến thắng.
[120]Giai đầu 階頭. Bản Pāli: niyyūha, vọng tháp. Điện Chiếnthắng có 100 vọng tháp. Mỗi vọng tháp có 700 ngôi lầu (kūṭāgāra).
[121]Trừ ái dục kinh, tức Pāli: taṇhakkhaya-sutta, ái tận kinh(M. 37).
[122]Nghĩa là, không còn chấp thủ. Pāli, anupādāya. xem cht. 16,17 trên.
[123]Hán: bất khởi thế gian tưởng 不起世間想. Pāli: na kiñciloke upādiyati, không còn chấp thủ bất cứ gì trên thế gian.Xem cht. 16, 17 trên.
[124]Lưu ý văn các đoạn lặp lại trong Hán dịch không hoàn toànnhất trí.
[125]Tham chiếu, Pāli, A. II. 6. Puggalavaggo 6-8.
[126]Pāli, A. II. 6. 8 (R. i. 77): bhikkhu ca khīṇāsavo, sīho ca migarājā.
[127]Ưu-đạp-lam-phất 優蹋藍弗. Pāli: Uddaka-Rāmaputta.
[128]La-lặc-ca-lam 羅勒迦藍. Pāli: Āḷāra-Kālāma.
[129]Bất dụng xứ 不用處, hay Vô sở hữu xứ. Pāli: Ākiñcaññāyatana.
[130]Hữu tưởng vô tưởng xứ 有想無想處, hay Phi tưởng phiphi tưởng xứ. Pāli: Nevasaññā-nāsaññāyatana.
[131]Pāli, A II.4.7 (R i. 67).
[132]Ca-giá-diên. Pāli, ibid.: Mahākaccāna.
[133]Bà-na quốc 婆那國. Mahāccāna ở tại Madhura, trong rừng Gunda.
[134]Gian-trà 姦茶. Pāli: Kaṇḍarāyana.
[135]Thượng Sắc Bà-la-môn 上色婆羅門 = Gian-trà bà-la-môn; cùngmột người, dịch nghĩa của phiên âm trên. Nhưng nghĩa nàykhông phù hợp nghĩa với Pāli.
[136]Hán: lão địa, tráng địa 老地壯地. Pāli, ibid., vuddhabhīmica daharabhūmi ca. địa vị trưởng đại, và địa vị niênthiếu.
[137]Ám-bà-bà-lợi viên 闇婆婆利園. Pāli, Ambapālī-vana. Tham chiếu,D. 16 (R ii. 95ff). Hán, Trường kinh 2: Du hành.
[138]Ám-bà-bà-lợi nữ 闇婆婆利女. Pāli: Ambapālī gaṇikā.
[139]Hán: vũ bảo chi xa 羽寶之車. Pāli: bhaddāni bhaddāni yāni,những cỗ xe lộng lẫy. Có lẽ bản Hán đọc Skt. pattrāni(lông chim) thay vì bhadrāni (đẹp quý). Trường kinh 2, ibid.,dịch là nghiêm giá bảo xa 嚴駕寶車.
[140]Để bản: năm trăm ức. TNM: năm trăm.
[141]Các kinh đều nói họ là những quý tộc Licchavi (Li-xa).
[142]Để bản: tẩu đả xa ngưu 走打車牛 (ruổi xe và đánh conbò kéo xe). TNM: tẩu xa đả ngưu .
[143]Hán dịch có thể nhầm, vì vô lý. Pāli, ibid., và Trường2 đều nói: xe cô và xe các thiếu niên Tỳ-da-ly đụng nhaunên họ gây cô. (Pāli: cakkena cakkaṃ yugena yugaṃ paṭivaṭṭesi:xe đụng xe, ách đụng ách).
[144]Bản Hán, hết quyển 10.
[145]Ca-la-đà 迦羅陀, Ca-lan-đà trong các kinh trước.
[146]Bản gốc Đề-bà-đạt-đâu,
[147]Đàm-ma-lưu-chi 曇摩留支, đồng nhất với Dhammaruci, trongApādana (R. ii. 429).
[148]Để bản: Định Quang 定光. TNM: Đính Quang 錠光. Pāli: Dīpaṅkara.
[149]Bát-ma đại quốc 缽摩大國. Tứ phần 31 (T22n1428, tr. 782b1):Liên hoa 蓮花. Skt: Padma (Pāli: Paduma).
[150]Da-nhã-đạt 耶若達. Tứ phần, ibid. (tr.784a03 ): Tự Thí 祀施.Skt. Ỵajñadatta (Pāli: Yaññadatta).
[151]Vân Lôi 雲雷. Tứ phần, ibid. (tr.784a19): Di-khước 彌卻. Skt.Megha.
[152].Để bản: 髮 phát (tóc); TNM: 眼 nhãn (mắt).
[153]Có lẽ mỗi người khi giải tán nhận được những thứ ấy,chứ không phải mỗi người dâng cho thượng sư và thượngtọa như Hán dịch.
[154]Hán: từ chủ 祠主, chủ tổ chức tế đàn này.
[155]Ba tạng kỹ thuật, đây chỉ ba pho Vệ-đà.
[156]Quang minh 光明. Tứ phần, ibid., Thắng Oán vương 勝怨王.
[157]Thiện Vị 善味. Tứ phần, ibid., Tô-la-bà-đề 蘇羅婆提.
[158]Cù-di 瞿夷, (Pāli: Gotamī). Đây chỉ Da-du-đà-la (Pāli: Yasodhāra).
[159]Chấp Trượng Phạm chí 執杖梵志 (Pāli: Daṇḍapāṇī). Truyềnthuyết phương Bắc nói ông là bố của Yasodhāra. Truyền thuyếtPāli, ông người họ Thích ở Kapilavatthu, em của Bà Mayā.
[160]Phiên âm trong để bản: Ða-tát-a-kiệt, A-la-ha, Tam-da-tam-phật多薩阿竭.阿羅訶.三耶三佛.
[161]Tam đạt trí 三達智, tức ba minh.
[162]Tham chiếu Pāli, A II. 4. 2 (R i. 61).
[163]Pāli, thêm chi tiết: Nếu cha mẹ bất tín, khuyên cho có tín.Cha mẹ phá giới, khuyên trì giới, v.v. Chỉ như vậy mớicó thể báo ân.
[164]Bàn-đặc 槃特. Pāli: (Mahā)Panthaka; cf. A. I 14. 2 (R i. 24).
[165]Châu-lợi Bàn-đặc 朱利槃特. Pāli: Cūla-Panthaka; cf. A. ibid.; DhA. iv. 180f. Cf. Hán, Hữu bộ tì-nại-da 31 (Tiểu Lộ Biên,T23n1442, tr. 794c26); Thiện kiến luật 16 (T24n1462, tr. 782c14).
[166]Nguyên bản: Thống,
[167]Bản Hán, hết quyển 11.