Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Kinh KEVADDHA

17/05/202013:31(Xem: 1905)
11. Kinh KEVADDHA

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010


11. Kinh  KEVADDHA

(Kevaddha-sutta – Kinh Kiên Cố)

 

Như vậy, tôi nghe :

 

 1.      Một thời, đức Thế Tôn an trụ

          Pa-Va-Ri-Kam-Pá (1), vườn hoa

              Tại địa phương Na-Lan-Đà (2)

       Lúc ấy có Kê-Vách-Tha (3) vị này

          Là Cư sĩ đẹp trai tuổi trẻ

          Đến tịnh địa, đảnh lễ Thế Tôn

              Sau khi ngồi xuống một bên

       Chàng Kê-Vách-Thá này liền thưa ngay :

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Chốn này phồn thịnh 

          Na-Lan-Đà uy tín là nơi

              Dân chúng đông đúc, thảnh thơi

       Tín kính Tam Bảo, vâng lời Thế Tôn.

          Lành thay ! Nếu Thế Tôn chỉ định

          Một Tỷ Kheo hiển chính thần thông

              Hiện thượng-nhân-pháp ngoài trong

       Nhờ đó, dân chúng hết lòng kính tin

          Vào Phật Pháp uy linh cao cả

          Đệ tử Phật biến hóa thần thông ”.

 

              Nghe nói vậy, đức Thế Tôn

       Nhìn chàng tuổi trẻ, ôn tồn nói ngay :

 

    – “ Kê-Vách-Thá ! Như Lai không dạy

          Các Tỷ Kheo hiển đại thần thông

              Như người áo trắng ước mong

    _______________________________

  (1) & (2) : Vườn Pavàrikampa  tại  Nalanda .

  (3) :  Cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha .

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  392

 

       Thượng-nhân-pháp ấy ta không dạy làm ”.

 

 2.       Lần thứ hai, Thiện nam lại thỉnh

          Nhưng Thế Tôn kiên định khước từ

              Về thượng-nhân-pháp huyễn hư

       Những sự biến hóa do từ thần thông.

 

 3.       Lần thứ ba, với lòng mong đợi

          Cư sĩ lại thưa với điều trên :

 

           – “ Bạch Thế Tôn ! Xin tùy duyên

       Con cũng không muốn nhiễu phiền Thế Tôn

          Nhưng xứ con, Na-Lan-Đà ấy

          Nơi uy tín và lại phồn vinh

              Nhiều người bền vững đức tin

       Cung kính đức  Phật, Pháp minh, Tăng-già

          Luôn cư xử thuận hòa, chân thật

          Là thắng địa  vùng đất dân đông

              Nếu Thế Tôn chỉ định xong

       Tỷ Kheo thi triển thần-thông nhiệm mầu

          Thượng-nhân-pháp thâm sâu cao thượng

          Nhiều người tin, quy ngưỡng Phật môn ”.

 

              Đức Phật trả lời nhu ôn :

 

  – “ Này Kê-Vách-Thá ! Ẩn tồn bên trong

          Có ba pháp thần-thông hiển lộ

          Ta tự mình chứng ngộ viên thông

              Đó là : Biến hóa thần thông

       Cùng với Giáo hóa thần thông thâm trầm

          Và Tha tâm thần thông  tiêu biểu.

.      

 4. – “ Kê-Vách-Thá ! Phải hiểu thế nào ?

              ‘Biến hóa thần thông’ là sao ?

       Như Tỷ Kheo nọ chứng vào thần thông

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  393

 

          Nên có thể ngoài trong thi triển

          Những thần thông hóa hiện khi cần.

 

 5.           Một người có lòng tín thành

       Nói với người chẳng lòng thành kính tin :

     – “ Bạn thân mến ! Quả tình vi diệu !

          Thật hy hữu ! Tiêu biểu vô ngần

              Sa-môn có sức oai thần

       Có đại oai đức hiển thân khi cần.

          Tỷ-kheo ấy chánh chân huyền biến

          Dùng thần thông thi triển nhiều lần :  

              Một thân hiện ra nhiều thân

       Nhiều thân thu lại một thân dễ dàng

          Hiện, biến hình, đi ngang qua vách

          Xuyên qua núi như cách hư không

              Độn thổ, trồi lên đất giồng

       Đi được trên nước cũng không chìm nào

          Ngồi kiết già trên cao vòi vọi

          Bay trên không như loại chim bằng

              Với tay chạm mặt trời, trăng

       Có đại oai lực, oai thần uy linh

          Hoặc có thể tự mình bay tới

          Cõi Phạm Thiên vời vợi, thiện lành ”.

 

              Nghe nói, người không tín thành

       Bảo rằng : “ Điều ấy chẳng danh giá gì

          Chú thuật Ganh-Tha-Ri (1) huyền biến

          Nhờ chú thuật hiển hiện điều mong

              Như những biến hóa thần thông

       Mà Sa-môn nọ hoài công thực hành ”.

       – Kê-Vách-Thá ! Nếu sanh sự thể

    _______________________________

   (1) : Chú thuật ngoại đạo Gandhàri .

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  394

 

          Chuyện những kẻ chú thuật trau dồi 

              Người kia có thể trả lời

       Với người tín kính những lời thế không ? ”.

    – “ Bạch Thế Tôn ! Hoàn toàn có thể.

 

    – “ Kê-Vách-Thá ! Vì thế Như Lai

              Thấy sự nguy hiểm việc này

       Nên Ta nhàm chán, ghê thay trong lòng

          Thấy hổ thẹn thần thông biến hóa

          Cùng đồng hạng chú thuật dùng vào.

 

 6.          ‘Tha tâm thần thông’ là sao ?      

       Này Kê-Vách-Thá ! Vị nào siêu nhiên

          Như Tỷ Kheo thấy, liền nói đến

          Tâm người khác hay các hữu tình

              Nói lên tâm sở chúng sinh

       Đọc được tư tưởng hữu tình suy tư :

         ‘Tâm của ngươi suy tư như thế !

          Ý của ngươi nghĩ thế phải không ?’

 

 7.          Có người tín thành trong lòng

       Nói với người nọ vốn không tín thành :

    – “ Bạn thân mến ! Thiện lành vi diệu !

          Thật hy hữu ! khó hiểu khó trông

              Sa-môn có đại thần thông

       Có đại oai đức, biết lòng chúng sinh

          Nói lên tâm hữu tình các loại

          Ý người khác biết nói ra ngay ”.

 

              Người không tín thành ở đây

       Bảo rằng : “ Điều ấy chẳng hay ho gì

          Ma-Ni-Kô (1) huyền vi chú thuật

    _______________________________

    (1) : Chú thuật ngoại đạo  Maniko .

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  395

 

          Luyện chú này đến mức mình mong

              Thì có Tha tâm thần thông

       Mà Sa-môn nọ hoài công thực hành ”.

      –  Kê-Vách-Thá ! Nếu sanh sự thể

          Chuyện những kẻ chú thuật trau dồi

              Người kia có thể trả lời

       Với người tin kính những lời thế không ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Hoàn toàn có thể ”.

 

    – “ Kê-Vách-Thá ! Vì thế Như Lai

              Thấy sự nguy hiểm việc này

       Nên Ta nhàm chán, ghê thay trong lòng

          Với tha tâm thần thông, hổ thẹn

          Vì cùng hạng chú thuật luyện dùng.

 

 8.          Thế còn một loại thần thông

       Đó là ‘giáo hóa thần thông’ thế nào ?

          Kê-Vách-Thá ! Nhắm vào thiên hạ

          Có Tỷ Kheo giáo hóa thẳng ngay :

       ‘-  Hãy suy tư như thế này

        -  Đừng nghĩ như vậy, điều này lầm sai

        -  Hãy tác ý thế này mới phải

        -  Đừng tác ý có hại thế kia

        -  Điều này trừ bỏ, xa lìa

        -  Chứng đạt, an trú điều kia mới cần’

 

          Kê-Vách-Thá ! Với thần thông đó

          Vị ấy có Giáo hóa thần thông.

 

 9.          Kê-Vách-Thá !  Hãy lắng lòng

       Suy gẫm cặn kẽ đục trong tận tình :

 

          Vì nghiệp lực, chúng sinh trôi nổi

          Trong sáu đường ba cõi si mê

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  396

 

              Tham sân, phiền não nặng nề

       Vô minh, triền phược mọi bề phủ vây

          Bỗng xuất hiện bậc Thầy quảng đại

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,  (1)

              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư  (1)

       Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh

          Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,  (1)

          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng (1), Như Lai,

              Do sự chứng ngộ tự Ngài

       Rồi lại tuyên thuyết, hoằng khai Pháp mầu

          Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện

          Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy

              Truyền dạy Phạm hạnh từ đây

       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.

 

           Có gia trưởng trong miền thôn ấp

          Hoặc một người giai cấp tiện dân

              Duyên lành nghe pháp thậm thâm

       Sinh lòng ngưỡng mộ, kiếm tầm chân như

          Tự suy nghĩ : ‘Đời như cát bụi

          Sống dẫy đầy trói buộc não phiền

              Luân hồi sinh tử triền miên

       Đời sống xuất thế lụy phiền tránh xa

 

          Ta nay phải xuất gia viên mãn

          Đời xuất gia phóng khoáng hư không

    _______________________________

   (1) : Mười danh hiệu người đời xưng tụng Đức Phật : Araham (Ứng Cúng), Sammàsambuddho (Chánh Biến Tri hay Chánh Đẳng Chánh Giác) , Vijjàcaranasampanno (Minh Hạnh Túc) , Sugato (Thiện Thệ), Lokavidù (Thế Gian Giải), Anuttaro (Vô Thượng Sĩ), Purisadammasàrathi (Điều Ngự Trượng Phu), Satthàdevamanus-sànam (Thiên Nhân Sư), Buddho (Phật hay Phật-Đà), Bhagavà (Thế Tôn) .

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  397

 

              Cuộc sống thế gian chất chồng

       Phạm hạnh thanh tịnh thật không dễ gìn’.

          Y trưởng dưỡng đức tin vững chắc

          Cạo râu tóc, thân đắp ca-sa

              Biệt gia quyến, bỏ cửa nhà

       Ba y một bát, xuất gia tu hành.

 

           Sống chế ngự, thực hành phạm hạnh

          Giữ oai nghi, tự tánh sáng lòa

              Giới bổn Pa-Tí-Mốc-Kha  (1)

       Thọ trì nghiêm mật, tránh xa điều tà

          Thân, khẩu, ý  từ hòa thanh tịnh

          Giới cụ túc, thức tĩnh nhiếp tâm

              Biết tri túc, giữ các căn

       Là Sa-môn hạnh, pháp đăng soi đường.

 

           Kê-Vách-Thá ! Sao tường thuần thục

          Là Tỷ Kheo cụ túc giới điều ?

              Phải thấy nguy hiểm mọi chiều

       Lỗi lầm nhỏ nhặt triệt tiêu dần dần

          Bỏ trượng kiếm, sát sanh tránh hẳn      

          Đại từ tâm, bình đẳng, nhẫn kham

              Có tâm hổ thẹn là Tàm

       Ghê sợ là Quý, không làm nghiệp sai

          Hành phạm hạnh, bản lai thanh tịnh

          Không trộm cướp, chẳng tính so đo

              Quyết không lấy của không cho

       Đó là giới hạnh, thước đo Giới điều.

          Vị Tỷ Kheo mong điều giải thoát

          Không tà hạnh. dâm ác thấp hèn

    _______________________________

    (1) : Patimokkhasanvarasìla : Biệt biệt giải thoát thu thúc giới

           ( Trong Tứ Thanh Tịnh Giới của Luật Tỷ Kheo ). 

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  398

 

              Không nói dối trá đua chen

       Không nói hai lưỡi chê khen dối lòng

          Không lường gạt cũng không ly gián

          Sống hòa hợp giữa nạn rẽ chia

              Sống đời chân thật sớm khuya

       Tránh lời độc ác nọ kia lỗi lầm.

          Là giới hạnh trong tầm Giới Luật

          Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì.

 

              Cả đến hạt giống, cỏ cây

       Cũng đều thấm nhuận đức dày Sa-Môn

          Chỉ ăn ngọ, sống tồn tri túc

          Không múa hát, trang sức, kịch ca

              Sống thanh đạm, tránh xa hoa

       Không dùng hương liệu, dầu thoa thơm nồng

 

          Lại cũng không giường nằm cao rộng    

          Cũng không nhận thịt sống, bạc vàng

              Nô tỳ trai, gái – từ nan

         Đàn bà, con gái – không màng lưu tâm

          Cừu, dê, heo, gia cầm, voi, ngựa,

          Ruộng, đất, vườn, nhà cửa không cần

              Từ bỏ gian lận bằng cân

       Từ bỏ môi giới, không phần gian tham

          Không áp bức, không làm thương tổn

          Không câu thúc, vây khổn, cừu thù

              Đó là giới hạnh đặc thù

       Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.           

*

        *  Trong khi đó, hãy nhìn kẻ khác

          Bà-la-môn hoặc các Sa-môn

              Dù ăn tín thí cúng dường

       Vẫn còn làm hại thường thường cỏ cây

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  399

 

          Hạt từ rễ, hạt này từ đất

          Từ chiết cây, hạt thật sinh ra

              Tỷ Kheo chân chánh xuất gia

       Không hề làm hại cỏ hoa, cây trồng.

*

         * Các Sa-môn, số đông Phạm-chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn còn cất chứa khôn lường

       Món ăn, đồ uống, vải, giường, ngựa xe

          Chứa hương liệu, hoa hòe – thụ hưởng

          Cốt sao mình sung sướng, hanh thông.     

              Tỷ Kheo chân chánh thì không

       Chẳng hề cất chứa, chất chồng nợ them.

          Là giới hạnh trong tầm Giới Luật

          Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì.

*

          *  Sa-môn ngoại đạo các vì

       Bà-la-môn nọ trí tri không tường

            Không hổ thẹn, dương dương đắc chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn còn sống rất phô trương

       Múa hát, nhạc kịch, diễn tuồng thần tiên

          Đấu bò đực, đấu chim cun cút

          Đấu ngựa voi, vun vút đấu quyền

              Diễn binh, dàn trận liên miên

       Tụng chú, ngâm vịnh khắp miền trải qua.

          Vị chân chánh xuất gia không thế

          Sống thanh tịnh, giới thể toàn chu

              Đó là giới hạnh đặc thù

       Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.           

 

         *  Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  400

 

              Vẫn sống giải trí du dương                   

       Những trò cờ bạc chủ trương ăn tiền        

          Cờ trên không, cờ trên mặt đất

          Tám hình vuông hoặc đặt mười hình

              Trò chơi quăng thẻ cho tinh

       Chơi banh, đoán chữ đoán hình trên lưng

          Đoán tư tưởng, trông chừng bắt chước

          Theo điệu bộ sao được giống bằng

              Súc sắc, kèn lá, chơi khăng

       Những trò tiêu khiển họ hằng mê sa.

          Vị Tỷ Kheo xuất gia chân chánh  

          Giải trí tà , xa tránh đường tu

              Đó là giới hạnh đặc thù

       Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.           

*

         * Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường 

              Vẫn sống phè phởn, cao lương

       Giường cao, chăn ấm, trải giường bằng len

          Mền lông thú, hai bên đính ngọc

          Tấm khảm quý che bọc đỉnh giường

              Nệm bằng da của sơn dương

       Ghế dài có gối chân, thường bằng da.

          Vị Tỷ Kheo xuất gia chân chánh

          Không hưởng thụ lạc cảnh phù du

              Đó là giới hạnh đặc thù

       Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.           

 

        * Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống nếp sống vô lương                       

       Thường dùng mỹ phẩm, xông hương, thoa dầu,  

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  401

 

          Đeo trang sức với đầu tóc giả              

          Gậy cầm tay với cả lọng, gươm

              Phất trần, vải trắng viền cườm

       Đấm bóp, tắm, đập, soi gương cả ngày

          Kem thoa mặt với đầy son phấn

          Những kẻ này mê mẩn bướm hoa.

              Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia     

       Tránh xa trang sức, lượt là cũng không.

 

         * Các Sa-môn, số đông Phạm-chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường     

              Vẫn nói vô ích, tầm thường

       Nói toàn những chuyện đế vương dông dài

          Chuyện ăn trộm, gái trai, binh lính

          Chuyện đại thần, bách tính, chiến tranh

              Những chuyện làng xóm, thị thành

       Đồ ăn, thức uống, xoay quanh vải, mùng.

 

          Về quốc độ, anh hùng tiêu biểu

          Hoặc chuyện về hương liệu, hoa hương

              Hiện trạng thế giới, đại dương

       Câu chuyện tạp thoại, sự thường hay không.

          Chân Tỷ Kheo thì không như thế

          Hạnh Sa-môn giới thể toàn chu

              Đó là giới hạnh đặc thù

       Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.

 

       * Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí  

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống bàn luận tranh đương

     Như nói :’Ngươi biết chuyện thường này không ?

          Pháp và luật ngươi thông không chứ ?

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  402

 

          Ta rất rành những thứ luật này .

              Ngươi phạm tà kiến tội dày

       Ta thật chánh kiến, lời  đầy tương ưng

          Điều nói sau ngươi từng nói trước

          Điều nói trước lại được nói sau

              Chủ kiến ngươi bị phủ đầu

       Ngươi bị thuyết bại, hãy cầu giải vây’.

          Những kẻ này luận bày tranh chấp

          Quyết ăn thua cao thấp, gần xa.

 

              Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia                   

       Từ bỏ biện luận, tránh xa tranh tài.

*

        * Các Sa-môn, lợi tài Phạm-chí (1)

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống rất đáng coi thường

       Đứng làm môi giới đế vương, đại thần

          Đưa tin tức, thân gần Phạm-Chí,

          Sát-Đế-Lỵ, Gia chủ gần xa.

 

              Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia                         

       Không làm môi giới ngụy tà ô danh.

*

         * Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống một cách bất lương

       Lừa đảo, siểm nịnh, muôn đường đáng khinh

          Nói gợi ý, bất minh cầu lợi

          Hoặc dèm pha cho tới phân ly

              Tư cách ấy chẳng ra gì.

       Tỳ Kheo chân chánh nhu mì trực ngôn

          Với giới hạnh bảo tồn nghiêm cẩn

    _______________________________

    (1) : Bàn-môn  hay  Phạm-chí  tức là Bà-la-môn .

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  403

 

         Trong Giới Luật, tinh tấn thọ trì

              Đời sống thanh tịnh ; trong khi

.

     * Sa-môn, Phạm-chí vô nghì bất lương

          Không hổ thẹn, dương dương đắc chí        

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống tà hạnh tầm thường

       Xem tướng, đoán mộng, phô trương biệt tài

          Phun hạt cải, tế khoai, tế lửa,

          Tế thục tô, tế lúa, tế dầu,

              Tế máu cho đến khoa cầu

       Cầu thần ban phước hoặc cầu quỷ ma

          Khoa xem mộng lẫn khoa địa lý

          Khoa thuốc độc cho chí khoa chim

              Khoa đoán số mạng, cầu tìm

      Chiêm tướng, triệu tướng, khoa ngừa bắn tên

          Khoa bồ cạp hay tên khoa rắn

          Khoa chim quạ, chuột cắn… những là…

 

              Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia                         

       Tránh xa ác hạnh ngụy tà ô danh.

*

        * Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống tà mạng vô lường

       Xem tướng hòn ngọc, kiếm gươm, áo quần

          Tướng mũi tên, cây cung, võ khí

          Tướng đàn bà cho chí đàn ông

              Thiếu nam, thiếu nữ, nhi đồng

       Đầy tớ trai gái, tướng trong gia cầm

          Tướng voi, ngựa ; sưu tầm tướng thú

          Tướng dê, cừu, chim cú, cắc kè

              Tướng trâu, cun cút, gậy que

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  404

 

       Bò đực, bò cái, lập lòe tướng ma.

 

          Vị chân chánh xuất gia thì khác

          Có giới hạnh an lạc uy nghi

              Nằm trong Giới Luật thanh quy

       Tỷ Kheo chân chánh thọ trì tịnh thanh.

*

        * Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí  

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống tà mạng như thường

       Đoán rằng : ‘Vua sẽ kiên cường tấn công

          Vua ngoại bang thế cùng triệt thoái

          Vua bản xứ rồi lại thu quân

              Bên này thắng trận mấy lần

       Bên kia đại bại, thất thần rút lui.

          Những kẻ này không nguôi hiếu động

          Cứ đoán mò, thực mộng chẳng sao !

              Chân chánh Tỷ Kheo thanh cao

       Tránh xa suy đoán hoạt đầu hám danh.

*

        * Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống chẳng được thiện lương

       Bằng những tà mạng, đủ phương thức tà

          Lòng ham muốn xa hoa hưởng thụ

          Nên tìm đủ mọi cách điêu ngoa

              Tiên đoán sẽ có xảy ra

       Nguyệt thực, nhật thực hoặc là sao băng

          Đoán mặt trời, mặt trăng đi lệch

          Hoặc đi đúng, không chệch bầu trời

              Sẽ có lửa cháy các nơi

       Sẽ có động đất, sấm trời : Thiên cơ

          Các tinh tú sẽ mờ , sẽ sáng

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  405

 

          Hay lặn, mọc ; có nạn nguy, an

              Kết quả xảy trong không gian

       Những kẻ hiếu sự lan man đoán mò.

          Có giới hạnh, chẳng cho ác khởi

          Vị Tỷ Kheo Luật Giới làm đầu

              Không sống tà mạng lún sâu

 

    *  Như các Phạm-chí, hoạt đầu Sa-môn

          Không hổ thẹn, lại còn đắc chí        

          Dù đã ăn tín thí cúng dường

              Vẫn sống tà mạng bất lương

       Đoán mưa, đại hạn, bất tường xảy ra

          Sẽ được mùa hay là mùa mất

          Sẽ có bệnh hoặc gặp họa tai

              Các nghề như đếm ngón tay

       Kế toán, cộng số, làm theo thế tình,

    

           Hoặc sắp đặt ngày lành tháng tốt

          Để rước dâu, đón một rễ hiền

              Hòa giải, chia rẽ, tiêu tiền

       Đòi nợ, bùa chú người liền rủi ro

          Dùng bùa chú làm cho cóng lưỡi

          Để phá thai, cứng dưới quai hàm

              Khiến cho bị điếc, bị câm

       Hỏi gương soi, hỏi nữ nam phù đồng

          Thờ đại địa cầu mong có phước

          Thờ mặt trời để được quang huy

              Phun ra lửa, thỏa sân si

       Bùa chú, cầu nguyện Si-Ri thần tài.

*

           Hoặc tà mạng dùng ngay tà thuật

          Để được yên, khỏi chuốc nạn tai

              Các điều đã hứa, làm sai

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  406

 

       Để được dương thịnh, trong nhà chở che

          Tìm đất tốt, phước về nhà mới

          Lễ rửa miệng, ca ngợi hy sinh

              Làm cho mửa, xổ trong mình

       Bài tiết nhơ bẩn, sạch tinh cả người

          Thoa dầu tai, soi ngươi nhỏ mắt

          Làm thầy thuốc mổ cắt bệnh nhân

              Chữa bệnh con nít xa gần

       Các loại cây rễ, lượng phân dùng bừa.

          Chân Tỷ Kheo ngăn ngừa ác hạnh

          Y Giới Luật , thanh thản thọ trì.

 

             –  Kê-Vách-Thá ! Hãy tường tri

       Vị Tỷ Kheo ấy uy nghi, vô cầu

          Được hộ trì nhờ vào Giới Luật

          Tâm kiên cương chẳng chút sợ gì

              Như Sát-Đế-Lỵ (1) một vì

       Làm lễ quán đảnh (2), trị vì giang san

          Đã hàng phục lân bang thù địch

          Không còn sợ đột kích biên phòng.

              Tỷ Kheo chân chánh cũng không

       Sợ hãi tội lỗi, vì lòng thẳng ngay

    _______________________________

   (1) : Theo Bà-La-Môn, xã hội chia ra 4 giai cấp bất di bất dịch : Bà-la-môn (giai cấp đứng đầu giữ phần nghi lễ, tế tự), Sát-Đế-Lỵ (giai cấp Vua chúa, quan quyền), giai cấp Phệ-Xá (Thương gia) , giai cấp cuối cùng bị áp chế, khinh rẻ nhất là Thủ-Đà-La hay Chiên-Đà-La . 

  (2) : Theo tập tục Ấn-Độ xưa , khi chính thức tuyên cáo địa vị kế thừa của Thái Tử để chuẩn bị lên ngôi Vua , hoàng tộc lấy nước 4 biền rưới lên đỉnh (đảnh) đầu Thái-tử., Do đó Thái-tử cũng được gọi là“Quán đỉnh vương tử ”. Điều đó có ý rằng sau này vị vương tử có thể thống trị toàn bộ lãnh thổ và nhân dân trong bốn biển  . (Xem kinh Ambattha phần nói về vị Chuyển Luân Thánh Vương ).

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  407

 

          Giới Luật ấy đủ đầy, cao quý

          Hưởng lạc thọ, hoan hỷ nội tâm.

*

            –  Kê-Vách-Thá ! Hãy lắng tâm

       Tỷ Kheo bảo hộ các căn thế nào ?

 

          Mắt thấy sắc nhưng nào giữ tướng

          Tướng chung, riêng chẳng nắm giữ gì

              Mắt không chế ngự tại chi ?

       Khiến bất thiện pháp ưu bi khởi vào

          Nên tham ái dâng trào đủ thứ

          Vị Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân

              Hộ trì tích cực nhãn căn

       Cũng như hộ trợ nhĩ căn cũng cần

          Tai nghe tiếng hay thân cảm xúc

          Mũi ngửi hương, nhận thức : Ý căn

              Tỷ Kheo hộ trì các căn

       Nên hưởng lạc thọ, nội tâm sáng ngời.

     

       –  Kê-Vách-Thá ! Thời thời tỉnh giác

          Giữ chánh niệm, an lạc tự tâm

              Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm

       Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền

          Khi tới, lui ; biết mình lui, tới

          Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm

              Hay khi co duỗi tay chân

       Mặc y, đi bát hay cần uống ăn

          Khi nhai, nuốt, nói năng : Tỉnh giác

          Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : Biết mình

              Như vậy Tỷ Kheo tâm minh

       Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thanh cao.

 

       –  Kê-Vách-Thá ! Thế nào biết đủ ?

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  408

 

          Hạnh Tri Túc luôn giữ chỉnh tề

              Bằng lòng ba  y để che

       Bình bát khất thực dễ bề cúng dâng

          Y và bát  luôn gần bên cạnh

          Cũng như chim, đôi cánh luôn mang

              Đó là Tỷ Kheo giới toàn

       Giữ hạnh Biết Đủ, không màng nhiều hơn.

*

          Với Giới uẩn chánh chơn cao quý

          Với các căn nhiếp kỹ, hộ trì

              Chánh niệm tỉnh giác trí tri

       Thêm hạnh tri túc, còn gì quý hơn.

          Trang bị đủ những gì cao quý

          Vị ấy lựa vị trí lặng yên

              Như rừng tĩnh mịch, lâm viên

       Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma,

*

           Thời ngọ thực đã qua, rửa bát

          Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng

              An trú chánh niệm, lâng lâng

       Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham

          Bỏ sân hận, từ tâm thương xót

          Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng

              Từ bỏ hôn trầm, thụy miên

       Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm

          Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng

          Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên

              Gột rửa chúng, được an nhiên

       Từ bỏ  trạo cử thì liền tịnh thân

          Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự

          Gột rửa hết  trạo cử, hôn trầm

              Gột rửa tham ái, hận sân

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  409

 

       Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.

 

       –  Kê-Vách-Thá ! Người nghèo mắc nợ           

          Liền chọn nghề, không sợ khó khăn     

              Nhờ sự nỗ lực, tinh cần

       Nghề nghiệp phát đạt, tự thân nên giàu

          Có tiền dư, nợ mau trả dứt

          Nuôi vợ con, quả thực thanh nhàn

              Người ấy nhờ vậy giàu sang

       Sung sướng hoan hỷ, hoàn toàn an nhiên.

 

       –  Kê-Vách-Thá ! Bệnh duyên người nọ

          Rất đau đớn, lại khó uống ăn

              Thể lực suy yếu dần dần

       Cơn bệnh trầm trọng hành thân đêm ngày

          Bỗng nhân duyên, gặp thầy gặp thuốc

          Dứt hẳn bệnh, ăn uống tiêu thông

              Thể lực khôi phục như mong

       Hoan hỷ, sung sướng, sống trong an lành. 

 

       –  Kê-Vách-Thá ! Một anh bị nhốt

          Trong ngục tù, ngục tốt khảo tra

              Đau đớn, sợ hãi tối đa

       Cầu mong thoát khỏi tai qua, nạn lùi

          Bỗng duyên vui, gặp ngài Chánh án

          Xét vô tội, xóa án thả mau

              Tài sản không bị tổn hao

       Thân vẫn khang kiện, ngục lao thoát rồi

          Về lại nhà, bồi hồi nghĩ lại

          Quá sung sướng, thanh thái hân hoan.

 

            –  Kê-Vách-Thá ! Một thời gian

       Có người nô lệ của hàng chủ nhân

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  410

 

          Không tự chủ, bản thân lệ thuộc

          Mất tự do, ràng buộc khó khăn

              Bỗng một hôm, vị chủ nhân

       Tuyên bố trả tự do thân người này,

          Quá hoan hỷ, lòng đầy sung sướng

          Người nô lệ tận hưởng niềm vui.

 

           –  Kê-Vách-Thá ! Có một người

       Giàu, nhiều tài sản, là người lái buôn

          Qua sa mạc mênh mông nguy hiểm

          Thiếu lương thực, khan hiếm nước dùng

              Sợ hãi trong bước đường cùng

       Bỗng gặp ốc đảo, nước trong rất nhiều

          Mấy hôm sau, lại điều may khác

          Khỏi sa mạc, gần đến đầu làng

              Vô sự, sung sướng, vui an

       Khỏi sự nguy hiểm lòng hằng ước mơ.

 

      –  Kê-Vách-Thá ! Chính nhờ quán niệm

          Vị Tỷ Kheo tự nghiệm, tự tri

              Năm Triền Cái  chưa xả ly

       Như là món nợ, Bệnh  hay Ngục đường,

          Như nô lệ, con đường sa mạc,

          Nay trả dứt hết các nợ nần

              Khỏi cơn bệnh dữ hành thân

       Ra khỏi sa mạc, thoát tầng ngục lao

          Năm  Triền Cái chừng nào chưa diệt

          Vị Tỷ Kheo mãi miết tinh cần.

.

              Chừng nào khi quán tự thân

       Với năm Triền Cái đã cần xả ly

          Do xả ly, tức thì hoan hỷ

          Do hoan hỷ, tâm được khinh an

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  411

 

              Lạc thọ sinh do khinh an

       Đạt được như thế, tâm an định liền

          Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục

          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền

              Trạng thái hỷ lạc tự tâm

       Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên

          Đệ Nhất Thiền, Tỷ Kheo thấm nhuận

          Như tẩm ướt, sung mãn, tràn nhanh

              Hỷ lạc do ly dục sanh

       Với Tầm, với Tứ thấm quanh tức thời.

 

       –  Kê-Vách-Thá ! Như người hầu tắm

          Thật lão luyện, lo sắm sửa mau

              Rắc bột tắm vào trong thau

       Rồi dùng bột ấy nhồi vào nước trong

          Nhào trộn ướt, nhưng không chảy giọt

 

          Cũng như vậy, với một Tỷ Kheo

              Tẩm nhuận, sủng ướt, thấm theo

       Toàn thân không có chỗ nào còn khô.

          Cũng như thế, sanh do ly dục

          Hỷ lạc cũng đẫm suốt tâm này.

              Giáo hóa thần thông là đây

       Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.

 

          Kê-Vách-Thá ! Tiếp liền điều nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

              Diệt Tầm, diệt Tứ được yên

       Thì chứng và trú vào thiền thứ Hai

          Một trạng thái ra ngoài tầm, tứ

          Do định sinh, nội tỉnh nhất tâm

              Tỷ Kheo hỷ lạc thấm nhuần

       Hỷ lạc thấm ướt khắp thân của mình.

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  412

 

          Do Định sinh, tràn đầy hỷ lạc

          Không chỗ nào hỷ lạc chẳng nhuần.

 

          –  Kê-Vách-Thá ! Tại cội nguồn

       Có một hồ nước, nước tuông dâng đầy

          Cả nam, bắc, đông, tây các chỗ

          Không có lỗ thoát nước chảy ra

              Suối nước mát lạnh phun ra

       Làm cho đẫm ướt, thấm qua dâng tràn

          Thỉnh thoảng mưa, hồ càng tẩm ướt

          Không chỗ nào không được tràn dâng

              Tỷ Kheo hỷ lạc thấm nhuần

       Do Định, tẩm ướt khắp thân của mình.  

 

          Kê-Vách-Thá ! Hành trình tiếp nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

              Ly hỷ trú xả, nhất tâm

       Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên

              Chứng và an trú Tam Thiền

       Tỷ Kheo đẫm ướt, thấm nhuần tự thân

          Sự lạc thọ, không cần có hỷ

          Lạc thọ ấy thấm kỹ toàn thân

              Không một chỗ nào trên thân

       Mà lạc thọ đó không phần thấm vô.

 

      –  Kê-Vách-Thá ! Như hồ sen trắng

          Cả sen hồng chen lẫn sen xanh

              Những hoa sen ấy đều sanh

       Từ trong hồ nước, lớn nhanh từng ngày

          Nhưng chúng vẫn chưa ngoi khỏi nước

          Từ gốc rễ đẫm ướt tới đầu.

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  413

 

              Tỷ Kheo với lạc thọ sâu

       Không đi với hỷ, thấm mau tràn đầy. 

 

          Kê-Vách-Thá ! Lành thay, tiếp nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

              Xả lạc, xả khổ ; tâm yên

       Diệt hỷ, ưu, cảm thọ – liền trước đây

          Chứng và trú vào Thiền Đệ Tứ

          Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào

              Thanh tịnh, an lạc tiêu dao

       Như Tỷ Kheo ấy thấm sâu, ướt đầm

          Được thấm nhuần với tâm thuần tịnh

          Và trong sáng, trong chính thân này.     

              Giáo hóa thần thông là đây

       Sa-môn biểu hiện đêm ngày, lành thay !

 

      –  Kê-Vách-Thá ! Như vầy thí dụ :

          Với tư duy hãy thử nghĩ suy :

              Có một hòn ngọc lưu ly

       Rất là quý giá, sánh bì bảo châu

          Rất sáng đẹp, không màu, trong suốt

          Có tám mặt, đã được khéo mài

              Chẳng trầy trụa, rực rỡ thay !

       Lấp lánh chói lọi đêm ngày sáng trưng

          Các sợi giây xâu từng lần một

          Sợi màu vàng, sợi trắng, đỏ, xanh

 

              Một người đôi mắt tinh anh

       Nhìn vào hòn ngọc, thấy rành bảo châu

          Là báu vật chẳng đâu thấy có

          Các sợi giây vàng, đỏ, trắng, xanh

              Được xâu lần lượt khéo rành

       Thấy được màu sắc long lanh ngọc này.

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  414

 

        * Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh          

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc  theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng ngay tâm tới

          Chánh Trí với Chánh Kiến như vầy

              Biết rằng : Thân của ta đây

       Chính là Sắc pháp, thân này do sanh

          Do bốn đại tác thành hoàn hảo

          Cha mẹ nuôi, cơm cháo, vô thường

              Biến hoại, đoạn tuyệt ; đáng thương

       Phấn toái, hoại diệt. Nhưng nương thân này

          Thức tánh ta bị giây trói buộc

          Trong thân ấy, lệ thuộc như vầy.

 

              Giáo hóa thần thông là đây

       Sa-môn biểu hiện đêm ngày, lành thay !

 

      –  Kê-Vách-Thá ! Như vầy thí dụ :

          Một trại chủ cầm một cây lau

              Rút lau ra khỏi vỏ lau

       Rồi nghĩ : Đây vỏ, đây lau ; khác rồi

          Cây lau khác, vỏ thời khác đó

          Nhưng cây lau từ vỏ rút ra.

 

              Cũng như vỏ kiếm nạm ngà

       Rút ra thanh kiếm sáng lòa, quý thay !

          Thanh kiếm khác, vỏ này khác đó

          Nhưng cây kiếm từ vỏ rút ra.

 

              Hay như con rắn lột da

       Đây là con rắn, đây là vỏ da

          Vỏ da rắn không là con rắn

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  415

 

          Nhưng rắn từ vỏ rắn lột ra.

              Đây những thí dụ thấy qua

       Cái này từ cái kia mà có đây.

 

       * Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh    

          Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo Thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

 

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          Sự Hiện Hóa Thân mới khác vời

              Do ý làm ra tức thời

       Tạo một thân khác từ nơi thân này

          Thân mới ấy cũng tày Sắc pháp

          Do ý sinh, đủ các căn phần

              Mắt, tai, mũi, lưỡi, tay chân

       Toàn thân không thiếu một căn chi nào.

 

      –  Kê-Vách-Thá ! Như vầy thí dụ :

          Thợ gốm hay đệ tử người này

              Là người thợ rất khéo tay

       Đất sét nhồi nhuyển, người này làm ra

          Đồ gia dụng tùy qua sở thích

 

          Hay thợ ngà thực đích lành nghề

              Khéo đẻo chạm với tay nghề

       Đồ ngà tùy thích mọi bề làm ra

 

          Hay như là thợ vàng rất khéo

          Dùng vàng ròng tạo chế nữ trang

              Các loại trang sức bằng vàng

       Thật là tinh xảo, đẹp sang như vầy.

 

       * Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  416

 

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          Các Thần Thông nhiều loại nhiệm mầu

              Một thân hiện ra nhiều thân

       Nhiều thân thu lại một thân dễ dàng

          Hiện, biến hình, đi ngang qua vách

          Xuyên qua núi như cách hư không

              Độn thổ, trồi lên đất giồng

       Đi được trên nước cũng không chìm nào

          Ngồi kiết già trên cao vòi vọi

          Bay trên không như loại chim bằng

              Với tay chạm mặt trời, trăng

       Có đại oai lực, oai thần uy linh

          Hoặc có thể tự mình bay tới

          Cõi Phạm Thiên vời vợi nơi này,

 

              Giáo hóa thần thông là đây

       Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.

 

       * Vị Tỷ Kheo tâm tuyền thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền

               Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          THIÊN NHĨ THÔNG, nghe tới muôn phần

              Với Tai thanh tịnh siêu nhân

       Vị ấy có thể nghe gần nghe xa

          Hai loại tiếng : Người ta và loại

          Tiếng chư Thiên các cõi nghe rày.       

 

              Giáo hóa thần thông là đây

       Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  417

 

       * Vị Tỷ Kheo tâm tuyền thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          THA TÂM THÔNG, dẫn tới biết ngay

              Tâm của người khác hằng ngày

       Tâm tham cũng biết, không tham biết liền

          Tâm nổi sân, biết liền sân hận

          Tâm không sân không hận cũng tường

              Tâm Si hay không Si thường

       Chuyên chú, tán loạn biết dường tự tâm

          Đại hành tâm, biết là như vậy

          Hoặc không phải là đại hành tâm

              Tâm vô thượng, biết rõ ràng

       Tâm chưa vô thượng lại càng biết thông

          Tâm thiền định hay không thiền định

          Tâm giải thoát hay dính buộc ràng

              Vị ấy đều biết rõ ràng

       Tâm của người khác ; cả hàng trí, ngu.  

 

       * Vị Tỷ Kheo ôn nhu, thuần tịnh   

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

 

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          TÚC MẠNG THÔNG, nhớ tới nhiều đời

              Quá khứ với một, hai đời,

       Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua

          Một ngàn đời hay là hơn nữa

          Một trăm ngàn đời thuở lâu xa

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  418

 

              Hoại kiếp, thành kiếp trải qua

       Vị ấy nhớ lại như là mới đây.

          Tại nơi ấy, tên này ta có

          Thuộc giai cấp, giòng họ thế này

              Uống, ăn, thọ khổ, lạc  rày

       Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao

          Ta tái sinh, nhằm vào làng đó

          Có tên tuổi, giòng họ thế nào…

              Cứ thế, nhớ lại biết bao

       Tiền kiếp, tái kiếp  không sao đếm rồi.

          Vị Tỷ Kheo nhờ nơi không vọng

          Nhớ đến nhiều đời sống an bài.

              Giáo hóa thần thông là đây       

       Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.

 

       * Vị Tỷ Kheo tâm tuyền thuần tịnh       

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          THIÊN NHÃN THÔNG, dẫn tới tuệ minh

              Xét về sinh tử chúng sinh

       Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền

          Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả

          Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang

              Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.

 

          Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý

          Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền

              Người này thân hoại, tận duyên      

       Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  419

 

          Các cõi dữ, như sinh địa ngục

          Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.

 

          *  Còn bậc hiền giả, những ai

       Làm những thiện hạnh  ý và lời, thân

          Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển

          Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng

              Sau khi thân hoại mạng chung 

       Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời

          Do thiên nhãn, biết đời sống chết

          Người hạ liệt hay kẻ giàu sang

              Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may

          Do hạnh nghiệp kẻ này hành động

          Có kết quả chẳng giống nhau này.

 

              Giáo hóa thần thông là đây

       Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.

       * Vị Tỷ Kheo tâm tuyền thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

            LẬU TẬN THÔNG, dẫn tới biết rành

              Lậu Tận Trí, biết ngọn ngành

       Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào

          Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ

          Biết như thật lậu-hoặc loại này

              Nguyên nhân lậu-hoặc là đây

       Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường.

       

          Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức

          Tâm vị ấy rất mực sáng trong

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  420

 

              Dục-lậu, hữu-lậu thoát xong

       Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn

          Liền hiểu rõ : Tự thân giải thoát

          Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành

              Việc cần làm, đã thực hành

       Sau đời hiện tại, Vô Sanh hiển bày.

 

          Kê-Vách-Thá ! Đủ đầy lợi lạc

          Khi Tỷ Kheo hành các pháp này

 

              Giáo hóa thần thông là đây

       Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.

*

67.       Kê-Vách-Thá ! Kể trên, ba pháp

          Thần thông này chứng đạt đinh ninh

              Như Lai chứng ngộ tự mình

       Tuyên thuyết đến chúng hữu tình, nhân thiên.

 

          Kê-Vách-Thá ! Căn nguyên thuở trước

          Có Tỷ Kheo chứng được thần thông

              Khởi lên nghi vấn trong lòng :

     ‘Tứ đại : Thủy, hỏa, địa, phong  bốn hàng

          Đi đâu khi hoàn toàn biến diệt ?’

          Nên Tỷ Kheo nhập định, tư duy

              Và trong định tâm chuyên vì

       Con đường Thiên giới tức thì hiện ra.

68.      Vị Tỷ Kheo đi qua Thiên giới

          Tứ Thiên Vương – Khi tới đúng phương

              Hỏi rằng : “ Thưa Tứ Thiên Vương

       Cả bốn đại chủng, con đường đi đâu

          Khi tứ đại này sau khi diệt ? ”.

 

          Bốn Thiên vương được biết nguyên nhân

              Điều vị Tỷ Kheo này cần

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  421

 

       Bốn Thiên vương đã quan tâm trả lời :

    – “ Này Tỷ Kheo ! Chúng tôi không biết.

          Nhưng có thể được biết từ nơi

              Tứ Đại Thiên Vương  cõi trời

       Các Ngài có thể trả lời thẳng ngay ”.

 

69.      Kê-Vách-Thá ! Vị này đi lại

          Và liền hỏi Tứ Đại Thiên Vương :

          – “ Này các Hiền giả ! Có tường

       Sau diệt, tứ đại có đường đi đâu ?

      

          Nghe hỏi vậy, lắc đầu không biết

          Bốn Đại vương chỉ tiếp cõi thiên :

 

          – “ Này Tỷ Kheo ! Ở trên miền

       Cõi trời Tam Thập Tam Thiên các vì

          Với câu hỏi phạm vi như vậy

          Chư Thiên ấy có thể trả lời ”.

 

70.          Tỷ Kheo bay lên cõi trời

       Băm ba (Đao Lợi) vì lời chỉ trên

          Nhưng các vị chư Thiên tại đó

          Nói rằng họ cũng chẳng biết chi.

          – “ Này Tỷ Kheo ! Ông hãy đi

       Đến gặp Thiên Chủ trị vì, đảm đương

          Là Sắc-Ká  – Thiên vương Đế Thích (1)

          Ưu thế hơn, toàn bích hơn nhiều ”.

 

71.          Nhắm hướng có tiếng tiêu thiều

       Tỷ Kheo đến gặp, hỏi điều trên đây

    – “ Kính thưa Ngài Thiên vương Đế Thích

          Là chủ tịch cai quản Băm ba

    _______________________________

  (1) : Vua Trời Đế Thích ( Sakka ) cai quản cung trời Ba mươi ba

         (Tam thập tam thiên ) hay còn gọi là cõi trời Đao Lợi .

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  422

 

              Cung trời Đao Lợi cũng là,

       Chắc Ngài hiểu rõ ràng và suốt thông :

          Bốn đại chủng : Địa, phong, thủy, hỏa

          Sẽ đi đâu khi đã diệt rồi ? ”.

              Nghe hỏi, Đế Thích trả lời :

 – “ Tôi cũng không biết chúng rồi đi đâu.

          Nhưng chư Thiên ở đầu trên nữa

          Trời Dạ-Ma (1) tích chứa phước hơn

              Ưu thế và thù thắng hơn

       Có thể giải đáp vuông tròn điều trên ”.

    

72.      Tỷ Kheo ấy bay lên thiên giới

          Cõi Dạ-Ma hỏi với chư Thiên

              Về điều thắc mắc kể trên

       Dạ-Ma thiên chúng ấy liền nói ngay :

 

    – “ Này Tỷ Kheo ! Điều này, quả thiệt

          Chúng tôi đây không biết đâu là !

              Nhưng Thiên Tử  Su-Da-Ma  (2)

       Ngài có thể biết, nói ra rõ ràng ”.

 

73.      Kê-Vách-Thá ! Vội sang thiên giới

          Vị Tỷ Kheo đi tới Thiên vương

              Su-Da-Ma, hỏi cho tường

       Nhưng lại được chỉ đến phương khác vời :

 

74. –“ Tu-Si-Ta – cõi trời Đâu Suất  (3)

          Hy vọng đây thông suốt điều này ”.

 

              Các vị chư Thiên ở đây

       Cũng nói không biết, chỉ ngay một đường :                                                                                                                                                             

75. – “ Đến Thiên vương  Sanh-Tu-Si-Tá (4)

    _______________________________

   (1) & (2) : Cõi trời Yàma (Dạ Ma) và Vua trời Dạ-Ma: Suyàma .       

  (3) & (4) :Cõi trời Đâu Suất ( Tusita ) và vị Vua trời Santusita .

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  423

 

          Ngài ưu thắng hơn cả chúng tôi ”.

              Tỷ Kheo lại tìm đến nơi

       Nhưng lại được chỉ cung trời cao hơn :

    – “ Hóa Lạc Thiên nhiều hơn phước trí

          Niêm-Ma-Na-Ra-Tí (1) chư thiên

              Các Ngài sẽ giải thích liền ”.

 

76.   Tỷ Kheo lại đến cõi Thiên Cung này

          Hóa Lạc Thiên nơi đây Thiên chúng

          Đồng nói là họ cũng bó tay

              Điều đó thật là khó thay !

       Họa may ông hãy đi ngay đến tìm

          Vị Thiên Tử Su-Niêm-Mi-Tá (2)

          Ngài ưu thắng hơn cả chúng tôi ”.

 

77.          Tỷ Kheo lại đến tận nơi,

       Su-Niêm-Mi-Tá  trả lời là không

          Lại khuyến khích bền lòng, chớ ngại

 

 78.     Trời Tha Hóa Tự Tại  hãy qua

              Nơi  Pa-Rá-Niêm-Mi-Ta-

       Va-Sa-Vách-Tí (3) nguy nga cung trời .

          Nhưng đến nơi, họ không biết rõ

79.      Nên giới thiệu vị họ nể vì :

              Thiên Tử Va-Sa-Vách-Ti (4)

       Tỷ Kheo đến hỏi tức thì Thiên vương

          Ngài trả lời : “ Vô phương biết tới

          Hãy đến với nơi giỏi hơn ta

              Là  Bram-Ma Ka-Di-Ka 

    _______________________________

  (1) :Cõi trời Hóa Lạc Thiên ( Nimmànarati ) .

  (2) : Vua trời Sunimmita của cõi trời Hóa Lạc Thiên .

  (3) : Tha Hóa Tự Tại Thiên ( Paranimmitavasavatti ).

  (4) : Vua trời Tha HóaTự Tại Thiên : Vasavatti .

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  424

 

       Các Phạm Thiên ấy rất là thắng ưu ”.

 

80.      Kê-Vách-Thá ! Tỷ Khưu nhập định

          Trong định tâm, đến chính Phạm cung

              Phạm Thiên giới (1), cõi ung dung

       Tỷ Kheo đi đến hỏi cùng chư Thiên

 

          Nhưng chư Thiên đáp liền : “ Không biết

          Sau khi đã biến diệt hoàn toàn

              Cả bốn đại chủng cưu mang

       Đất, nước, gió, lửa  đi sang nơi nào.

          Nhưng tại sao Tỷ Kheo không gặp

          Đại Phạm Thiên  là bậc Toàn Năng

              Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn,

       Thượng Đế, Sáng tạo, sinh tồn chúng sinh

          Ngài ưu thế, thông minh, thù thắng  

          Cha muôn loài, chắc chắn biết rành

              Hãy đến hỏi Ngài chân thành

       Ngài sẽ giải thích ngọn ngành điều trên ”.

          Kê-Vách-Thá ! Tỷ Kheo liền hỏi :

 

    – “ Này Hiền giả ! Xin nói cho hay :

              Vị Đại Phạm Thiên Vương này

       Là đấng Thượng Đế, hiện Ngài ở đâu ?

 

     – “ Này Tỷ Kheo ! Không sao biết trước

          Chỉ khi nào triệu tướng hiện ra

              Hào quang xuất hiện chói lòa

       Đại Phạm Thiên ấy hiện ra tức thì ”.

 

81.      Kê-Vách-Thá ! Duyên kỳ tương hội

    _______________________________

  (1) : Cõi trời Phạm Thiên  Brahma Kayikà với vị Phạm Thiên 

       ( Brahma ) được  nhiều  tôn  giáo  coi là đấng Thượng Đế

       sáng tạo muôn loài vạn vật .  

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  425

 

          Không bao lâu, sáng chói hào quang

              Đại Phạm Thiên hiện rõ ràng

       Chung quanh vị ấy hàng hàng chư Thiên.

          Vị Tỷ Kheo hỏi liền không ngại :

    – “ Thưa Hiền giả ! Bốn đại chủng là :

              Đất, nước, gió, lửa  điều hòa

       Sau khi biến diệt, đi qua nơi nào ? ”.

 

          Kê-Vách-Thá ! Không vào câu hỏi

          Đại Phạm Thiên lại nói đỡ liền :

 

           – “ Ta chính là Đại Phạm Thiên

       Biến nhãn, Tối thắng, Thượng Tiên, Sinh tồn

          Sáng Tạo chủ, Đại Tôn, Thượng Đế

          Bậc Toàn Năng, Chủ Tể Phạm cung

              Tổ Phụ của chúng sinh chung

       Định mạng chúng đã sinh cùng sẽ theo ”.

 

82.      Nghe như vậy, Tỷ Kheo bất mãn

          Nói lại rằng : “ Tôi chẳng hỏi Ngài

              Đại Phạm Thiên ấy là ai

       Chỉ có câu hỏi đề tài chưa an :

         ‘Khi Tứ đại hoàn toàn biến diệt

          Sẽ đi đâu, Ngài biết hay không ?’

 

              Đại Phạm Thiên lại lòng vòng

       Nói rằng :“ Ta đã tinh thông, thường hằng

          Sáng Tạo chủ, Toàn năng, Thượng Đế

          Hóa Sanh chủ, Chúa Tể Phạm cung

              Biến nhãn, Tối thắng, Cha chung

       Tổ Phụ muôn loại, Vô cùng Thượng tiên ”.

 

          Lần thứ hai, Phạm Thiên cứ nói

          Còn câu hỏi thì cứ tảng lờ.

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  426

 

83.          Kê-Vách-Thá ! Lúc bấy giờ

       Tỷ Kheo vị ấy chẳng chờ dứt câu

          Lại nói nữa : “ Tôi đâu có hỏi

          Về Phạm Thiên, mà nói dông dài

              Lần thứ ba, tôi hỏi Ngài :

       Sau diệt, bốn đại chủng này đi đâu ? ”.

 

       * Kê-Vách-Thá ! Không sao đừng được

          Đại Phạm Thiên vội bước xuống tòa

              Kéo vị Tỷ Kheo ra xa

       Nói nhỏ : “ Ông đã hỏi ta điều mà

          Đến chính ta cũng không biết cả

          Nhưng tại Bram-Ma Ká-Di-Ka

              Chư Thiên ngưỡng mộ nơi ta

       Cho rằng không có gì ta không tường

          Bậc Toàn năng muôn phương, Toàn trí

          Thì phải thấy, biết kỹ mọi điều

              Nên trước mặt họ trong triều

       Nếu nói không biết, thật nhiều hổ ngươi.

 

       – Này Tỷ Kheo ! Là người tu tập

          Theo Thế Tôn, bậc Thập Lực này

              Tại sao ông lại lên đây

       Mà ông không hỏi nơi Ngài Thế Tôn ?

          Biết bao nhiêu Pháp môn vi diệu

          Bậc Đại Giác đã liễu ngộ rồi

              Tuyên thuyết độ sinh mọi thời

       Sao ông không hỏi, hỏi nơi xa vời ?

          Hãy trở về, lựa lời thưa thỉnh

          Sẽ được nghe từ chính Thế Tôn

              Và hãy thọ trì, bảo tồn

       Những gì mà đức Thế Tôn dạy rành ”.

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  427

 

84.      Kê-Vách-Thá ! Thật nhanh, dũng mãnh

          Như lực sĩ duỗi cánh tay liền

              Biến mất ở cõi Phạm Thiên

       Tỷ Kheo xuất hiện, đứng liền một bên

          Hướng Thế Tôn, ông liền đảnh lễ

          Rồi ngồi xuống, ông kể những nơi

              Mà ông đến các cõi trời

       Hỏi về Tứ Đại, chẳng nơi nào tường.

 

          Vị Tỷ Kheo còn đương thắc mắc

          Lại xin Phật giải thích đuôi đầu

           – ‘Bạch Thế Tôn ! Sẽ đi đâu

       Đất, nước, gió, lửa ngay sau diệt rồi ?’.

 

85.      Kê-Vách-Thá ! Nghe thời câu hỏi

          Ta đã nói với vị Tỷ Kheo :

 

           – “ Này Tỷ Kheo ! Vào thuở xưa

       Hải thương các vị muốn mua bán gì

          Khi vượt biển phải đi thuyền đại

          Thường đem theo một loại chim trời

              Có thể thấy bờ mọi nơi.

       Khi thuyền ra đến ngoài khơi xa bờ

 

          Các hải thương đợi chờ khi ấy

          Thả con chim trông thấy bờ này

              Con chim bay về hướng tây

       Hướng đông,hướng bắc rồi quày hướng nam

          Hướng trung gian, hướng trên bay tới

          Nếu thấy bờ, nó vội bay vào

              Nếu không trông thấy bờ nào

       Nó liền bay lại thuyền, mau cấp kỳ.

 

          Này Tỷ Kheo ! Ngươi vì thắc mắc

Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 :  KEVADDHA    *  MLH  –  428

 

          Đã tìm khắp đến các cõi trời

              Nhưng không có câu trả lời

       Nên ngươi trở lại cõi đời tìm Ta.

          Này Tỷ Kheo ! Nói qua câu hỏi

          Không nên hỏi :“ Tứ đại đi đâu

              Sau khi biến diệt qua mau ”,

       Câu hỏi phải nói như sau, thuận đồng :

    “ – Chỗ nào mà địa, phong, thủy, hỏa

          Dài, ngắn, thô, tế  cả  tịnh, dơ

              Không có chân đứng bao giờ ?

   –  Chỗ nào danh, sắc hoàn toàn diệt tiêu ? ”. 

 

          Đây là điều trả lời câu ấy :

        “Thức là không thể thấy, vô biên

              Biến thông hết thảy xứ miền

       Ở đây địa đại và liền hỏa, phong

          Cả thủy đại đều không chân đứng

          Tịnh, bất tịnh, dài, ngắn, tế, thô

              Cũng không chân đứng dựa vô,

       Danh và sắc cũng tiêu vô hoàn toàn,

          Khi Thức diệt, mọi đàng hết hẳn

          Mọi thứ đều diệt tận, luật chung ”.

*

              Khi Thế Tôn, đấng Đại Hùng

       Thuyết giảng như vậy, vô cùng uy nghiêm

          Kê-Vách-Thá một niềm hoan hỷ

          Tín thọ lời tôn quý, tịnh thanh

              Đảnh lễ Thế Tôn chí thành

       Tự nguyện tinh tấn thực hành Pháp môn ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

* * *  

(  Chấm dứt  Kinh 11 : KEVADDHA  –  Kinh Kiên Cố  )

 

NĂM ĐIỀU QUÁN TƯỞNG :

 

         Thế Tôn lời dạy tinh tường

    Năm điều Quán Tưởng phải thường xét ra :

     –  Ta đây phải có sự Già

    Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn !

     –  Ta đây Tật Bệnh phải mang

    Thế nào tránh thoát, được an, mạnh lành !

     –  Ta đây sự Chết sẵn dành

    Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ !

     –  Ta đây phải chịu Chia Ly

    Nhân, vật quý mến tức thì biệt xa !

     –  Ta đi với Nghiệp của ta 

    Dù cho tốt xấu, tạo ra tự mình

        Theo ta như bóng theo hình

    Ta hưởng họa phúc phân minh, đúng thời.  

   

* * *

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567