TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010
11. Kinh KEVADDHA
(Kevaddha-sutta – Kinh Kiên Cố)
Như vậy, tôi nghe :
1. Một thời, đức Thế Tôn an trụ
Pa-Va-Ri-Kam-Pá (1), vườn hoa
Tại địa phương Na-Lan-Đà (2)
Lúc ấy có Kê-Vách-Tha (3) vị này
Là Cư sĩ đẹp trai tuổi trẻ
Đến tịnh địa, đảnh lễ Thế Tôn
Sau khi ngồi xuống một bên
Chàng Kê-Vách-Thá này liền thưa ngay :
– “ Bạch Thế Tôn ! Chốn này phồn thịnh
Na-Lan-Đà uy tín là nơi
Dân chúng đông đúc, thảnh thơi
Tín kính Tam Bảo, vâng lời Thế Tôn.
Lành thay ! Nếu Thế Tôn chỉ định
Một Tỷ Kheo hiển chính thần thông
Hiện thượng-nhân-pháp ngoài trong
Nhờ đó, dân chúng hết lòng kính tin
Vào Phật Pháp uy linh cao cả
Đệ tử Phật biến hóa thần thông ”.
Nghe nói vậy, đức Thế Tôn
Nhìn chàng tuổi trẻ, ôn tồn nói ngay :
– “ Kê-Vách-Thá ! Như Lai không dạy
Các Tỷ Kheo hiển đại thần thông
Như người áo trắng ước mong
_______________________________
(1) & (2) : Vườn Pavàrikampa tại Nalanda .
(3) : Cư sĩ trẻ tuổi Kevaddha .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 392
Thượng-nhân-pháp ấy ta không dạy làm ”.
2. Lần thứ hai, Thiện nam lại thỉnh
Nhưng Thế Tôn kiên định khước từ
Về thượng-nhân-pháp huyễn hư
Những sự biến hóa do từ thần thông.
3. Lần thứ ba, với lòng mong đợi
Cư sĩ lại thưa với điều trên :
– “ Bạch Thế Tôn ! Xin tùy duyên
Con cũng không muốn nhiễu phiền Thế Tôn
Nhưng xứ con, Na-Lan-Đà ấy
Nơi uy tín và lại phồn vinh
Nhiều người bền vững đức tin
Cung kính đức Phật, Pháp minh, Tăng-già
Luôn cư xử thuận hòa, chân thật
Là thắng địa vùng đất dân đông
Nếu Thế Tôn chỉ định xong
Tỷ Kheo thi triển thần-thông nhiệm mầu
Thượng-nhân-pháp thâm sâu cao thượng
Nhiều người tin, quy ngưỡng Phật môn ”.
Đức Phật trả lời nhu ôn :
– “ Này Kê-Vách-Thá ! Ẩn tồn bên trong
Có ba pháp thần-thông hiển lộ
Ta tự mình chứng ngộ viên thông
Đó là : Biến hóa thần thông
Cùng với Giáo hóa thần thông thâm trầm
Và Tha tâm thần thông tiêu biểu.
.
4. – “ Kê-Vách-Thá ! Phải hiểu thế nào ?
‘Biến hóa thần thông’ là sao ?
Như Tỷ Kheo nọ chứng vào thần thông
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 393
Nên có thể ngoài trong thi triển
Những thần thông hóa hiện khi cần.
5. Một người có lòng tín thành
Nói với người chẳng lòng thành kính tin :
– “ Bạn thân mến ! Quả tình vi diệu !
Thật hy hữu ! Tiêu biểu vô ngần
Sa-môn có sức oai thần
Có đại oai đức hiển thân khi cần.
Tỷ-kheo ấy chánh chân huyền biến
Dùng thần thông thi triển nhiều lần :
Một thân hiện ra nhiều thân
Nhiều thân thu lại một thân dễ dàng
Hiện, biến hình, đi ngang qua vách
Xuyên qua núi như cách hư không
Độn thổ, trồi lên đất giồng
Đi được trên nước cũng không chìm nào
Ngồi kiết già trên cao vòi vọi
Bay trên không như loại chim bằng
Với tay chạm mặt trời, trăng
Có đại oai lực, oai thần uy linh
Hoặc có thể tự mình bay tới
Cõi Phạm Thiên vời vợi, thiện lành ”.
Nghe nói, người không tín thành
Bảo rằng : “ Điều ấy chẳng danh giá gì
Chú thuật Ganh-Tha-Ri (1) huyền biến
Nhờ chú thuật hiển hiện điều mong
Như những biến hóa thần thông
Mà Sa-môn nọ hoài công thực hành ”.
– Kê-Vách-Thá ! Nếu sanh sự thể
_______________________________
(1) : Chú thuật ngoại đạo Gandhàri .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 394
Chuyện những kẻ chú thuật trau dồi
Người kia có thể trả lời
Với người tín kính những lời thế không ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Hoàn toàn có thể.
– “ Kê-Vách-Thá ! Vì thế Như Lai
Thấy sự nguy hiểm việc này
Nên Ta nhàm chán, ghê thay trong lòng
Thấy hổ thẹn thần thông biến hóa
Cùng đồng hạng chú thuật dùng vào.
6. ‘Tha tâm thần thông’ là sao ?
Này Kê-Vách-Thá ! Vị nào siêu nhiên
Như Tỷ Kheo thấy, liền nói đến
Tâm người khác hay các hữu tình
Nói lên tâm sở chúng sinh
Đọc được tư tưởng hữu tình suy tư :
‘Tâm của ngươi suy tư như thế !
Ý của ngươi nghĩ thế phải không ?’
7. Có người tín thành trong lòng
Nói với người nọ vốn không tín thành :
– “ Bạn thân mến ! Thiện lành vi diệu !
Thật hy hữu ! khó hiểu khó trông
Sa-môn có đại thần thông
Có đại oai đức, biết lòng chúng sinh
Nói lên tâm hữu tình các loại
Ý người khác biết nói ra ngay ”.
Người không tín thành ở đây
Bảo rằng : “ Điều ấy chẳng hay ho gì
Ma-Ni-Kô (1) huyền vi chú thuật
_______________________________
(1) : Chú thuật ngoại đạo Maniko .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 395
Luyện chú này đến mức mình mong
Thì có Tha tâm thần thông
Mà Sa-môn nọ hoài công thực hành ”.
– Kê-Vách-Thá ! Nếu sanh sự thể
Chuyện những kẻ chú thuật trau dồi
Người kia có thể trả lời
Với người tin kính những lời thế không ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Hoàn toàn có thể ”.
– “ Kê-Vách-Thá ! Vì thế Như Lai
Thấy sự nguy hiểm việc này
Nên Ta nhàm chán, ghê thay trong lòng
Với tha tâm thần thông, hổ thẹn
Vì cùng hạng chú thuật luyện dùng.
8. Thế còn một loại thần thông
Đó là ‘giáo hóa thần thông’ thế nào ?
Kê-Vách-Thá ! Nhắm vào thiên hạ
Có Tỷ Kheo giáo hóa thẳng ngay :
‘- Hãy suy tư như thế này
- Đừng nghĩ như vậy, điều này lầm sai
- Hãy tác ý thế này mới phải
- Đừng tác ý có hại thế kia
- Điều này trừ bỏ, xa lìa
- Chứng đạt, an trú điều kia mới cần’
Kê-Vách-Thá ! Với thần thông đó
Vị ấy có Giáo hóa thần thông.
9. Kê-Vách-Thá ! Hãy lắng lòng
Suy gẫm cặn kẽ đục trong tận tình :
Vì nghiệp lực, chúng sinh trôi nổi
Trong sáu đường ba cõi si mê
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 396
Tham sân, phiền não nặng nề
Vô minh, triền phược mọi bề phủ vây
Bỗng xuất hiện bậc Thầy quảng đại
Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, (1)
Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư (1)
Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh
Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc, (1)
Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng (1), Như Lai,
Do sự chứng ngộ tự Ngài
Rồi lại tuyên thuyết, hoằng khai Pháp mầu
Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện
Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy
Truyền dạy Phạm hạnh từ đây
Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.
Có gia trưởng trong miền thôn ấp
Hoặc một người giai cấp tiện dân
Duyên lành nghe pháp thậm thâm
Sinh lòng ngưỡng mộ, kiếm tầm chân như
Tự suy nghĩ : ‘Đời như cát bụi
Sống dẫy đầy trói buộc não phiền
Luân hồi sinh tử triền miên
Đời sống xuất thế lụy phiền tránh xa
Ta nay phải xuất gia viên mãn
Đời xuất gia phóng khoáng hư không
_______________________________
(1) : Mười danh hiệu người đời xưng tụng Đức Phật : Araham (Ứng Cúng), Sammàsambuddho (Chánh Biến Tri hay Chánh Đẳng Chánh Giác) , Vijjàcaranasampanno (Minh Hạnh Túc) , Sugato (Thiện Thệ), Lokavidù (Thế Gian Giải), Anuttaro (Vô Thượng Sĩ), Purisadammasàrathi (Điều Ngự Trượng Phu), Satthàdevamanus-sànam (Thiên Nhân Sư), Buddho (Phật hay Phật-Đà), Bhagavà (Thế Tôn) .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 397
Cuộc sống thế gian chất chồng
Phạm hạnh thanh tịnh thật không dễ gìn’.
Y trưởng dưỡng đức tin vững chắc
Cạo râu tóc, thân đắp ca-sa
Biệt gia quyến, bỏ cửa nhà
Ba y một bát, xuất gia tu hành.
Sống chế ngự, thực hành phạm hạnh
Giữ oai nghi, tự tánh sáng lòa
Giới bổn Pa-Tí-Mốc-Kha (1)
Thọ trì nghiêm mật, tránh xa điều tà
Thân, khẩu, ý từ hòa thanh tịnh
Giới cụ túc, thức tĩnh nhiếp tâm
Biết tri túc, giữ các căn
Là Sa-môn hạnh, pháp đăng soi đường.
Kê-Vách-Thá ! Sao tường thuần thục
Là Tỷ Kheo cụ túc giới điều ?
Phải thấy nguy hiểm mọi chiều
Lỗi lầm nhỏ nhặt triệt tiêu dần dần
Bỏ trượng kiếm, sát sanh tránh hẳn
Đại từ tâm, bình đẳng, nhẫn kham
Có tâm hổ thẹn là Tàm
Ghê sợ là Quý, không làm nghiệp sai
Hành phạm hạnh, bản lai thanh tịnh
Không trộm cướp, chẳng tính so đo
Quyết không lấy của không cho
Đó là giới hạnh, thước đo Giới điều.
Vị Tỷ Kheo mong điều giải thoát
Không tà hạnh. dâm ác thấp hèn
_______________________________
(1) : Patimokkhasanvarasìla : Biệt biệt giải thoát thu thúc giới
( Trong Tứ Thanh Tịnh Giới của Luật Tỷ Kheo ).
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 398
Không nói dối trá đua chen
Không nói hai lưỡi chê khen dối lòng
Không lường gạt cũng không ly gián
Sống hòa hợp giữa nạn rẽ chia
Sống đời chân thật sớm khuya
Tránh lời độc ác nọ kia lỗi lầm.
Là giới hạnh trong tầm Giới Luật
Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì.
Cả đến hạt giống, cỏ cây
Cũng đều thấm nhuận đức dày Sa-Môn
Chỉ ăn ngọ, sống tồn tri túc
Không múa hát, trang sức, kịch ca
Sống thanh đạm, tránh xa hoa
Không dùng hương liệu, dầu thoa thơm nồng
Lại cũng không giường nằm cao rộng
Cũng không nhận thịt sống, bạc vàng
Nô tỳ trai, gái – từ nan
Đàn bà, con gái – không màng lưu tâm
Cừu, dê, heo, gia cầm, voi, ngựa,
Ruộng, đất, vườn, nhà cửa không cần
Từ bỏ gian lận bằng cân
Từ bỏ môi giới, không phần gian tham
Không áp bức, không làm thương tổn
Không câu thúc, vây khổn, cừu thù
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
*
* Trong khi đó, hãy nhìn kẻ khác
Bà-la-môn hoặc các Sa-môn
Dù ăn tín thí cúng dường
Vẫn còn làm hại thường thường cỏ cây
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 399
Hạt từ rễ, hạt này từ đất
Từ chiết cây, hạt thật sinh ra
Tỷ Kheo chân chánh xuất gia
Không hề làm hại cỏ hoa, cây trồng.
*
* Các Sa-môn, số đông Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn còn cất chứa khôn lường
Món ăn, đồ uống, vải, giường, ngựa xe
Chứa hương liệu, hoa hòe – thụ hưởng
Cốt sao mình sung sướng, hanh thông.
Tỷ Kheo chân chánh thì không
Chẳng hề cất chứa, chất chồng nợ them.
Là giới hạnh trong tầm Giới Luật
Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì.
*
* Sa-môn ngoại đạo các vì
Bà-la-môn nọ trí tri không tường
Không hổ thẹn, dương dương đắc chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn còn sống rất phô trương
Múa hát, nhạc kịch, diễn tuồng thần tiên
Đấu bò đực, đấu chim cun cút
Đấu ngựa voi, vun vút đấu quyền
Diễn binh, dàn trận liên miên
Tụng chú, ngâm vịnh khắp miền trải qua.
Vị chân chánh xuất gia không thế
Sống thanh tịnh, giới thể toàn chu
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
* Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 400
Vẫn sống giải trí du dương
Những trò cờ bạc chủ trương ăn tiền
Cờ trên không, cờ trên mặt đất
Tám hình vuông hoặc đặt mười hình
Trò chơi quăng thẻ cho tinh
Chơi banh, đoán chữ đoán hình trên lưng
Đoán tư tưởng, trông chừng bắt chước
Theo điệu bộ sao được giống bằng
Súc sắc, kèn lá, chơi khăng
Những trò tiêu khiển họ hằng mê sa.
Vị Tỷ Kheo xuất gia chân chánh
Giải trí tà , xa tránh đường tu
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
*
* Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống phè phởn, cao lương
Giường cao, chăn ấm, trải giường bằng len
Mền lông thú, hai bên đính ngọc
Tấm khảm quý che bọc đỉnh giường
Nệm bằng da của sơn dương
Ghế dài có gối chân, thường bằng da.
Vị Tỷ Kheo xuất gia chân chánh
Không hưởng thụ lạc cảnh phù du
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
* Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống nếp sống vô lương
Thường dùng mỹ phẩm, xông hương, thoa dầu,
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 401
Đeo trang sức với đầu tóc giả
Gậy cầm tay với cả lọng, gươm
Phất trần, vải trắng viền cườm
Đấm bóp, tắm, đập, soi gương cả ngày
Kem thoa mặt với đầy son phấn
Những kẻ này mê mẩn bướm hoa.
Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia
Tránh xa trang sức, lượt là cũng không.
* Các Sa-môn, số đông Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn nói vô ích, tầm thường
Nói toàn những chuyện đế vương dông dài
Chuyện ăn trộm, gái trai, binh lính
Chuyện đại thần, bách tính, chiến tranh
Những chuyện làng xóm, thị thành
Đồ ăn, thức uống, xoay quanh vải, mùng.
Về quốc độ, anh hùng tiêu biểu
Hoặc chuyện về hương liệu, hoa hương
Hiện trạng thế giới, đại dương
Câu chuyện tạp thoại, sự thường hay không.
Chân Tỷ Kheo thì không như thế
Hạnh Sa-môn giới thể toàn chu
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
* Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống bàn luận tranh đương
Như nói :’Ngươi biết chuyện thường này không ?
Pháp và luật ngươi thông không chứ ?
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 402
Ta rất rành những thứ luật này .
Ngươi phạm tà kiến tội dày
Ta thật chánh kiến, lời đầy tương ưng
Điều nói sau ngươi từng nói trước
Điều nói trước lại được nói sau
Chủ kiến ngươi bị phủ đầu
Ngươi bị thuyết bại, hãy cầu giải vây’.
Những kẻ này luận bày tranh chấp
Quyết ăn thua cao thấp, gần xa.
Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia
Từ bỏ biện luận, tránh xa tranh tài.
*
* Các Sa-môn, lợi tài Phạm-chí (1)
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống rất đáng coi thường
Đứng làm môi giới đế vương, đại thần
Đưa tin tức, thân gần Phạm-Chí,
Sát-Đế-Lỵ, Gia chủ gần xa.
Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia
Không làm môi giới ngụy tà ô danh.
*
* Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống một cách bất lương
Lừa đảo, siểm nịnh, muôn đường đáng khinh
Nói gợi ý, bất minh cầu lợi
Hoặc dèm pha cho tới phân ly
Tư cách ấy chẳng ra gì.
Tỳ Kheo chân chánh nhu mì trực ngôn
Với giới hạnh bảo tồn nghiêm cẩn
_______________________________
(1) : Bàn-môn hay Phạm-chí tức là Bà-la-môn .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 403
Trong Giới Luật, tinh tấn thọ trì
Đời sống thanh tịnh ; trong khi
.
* Sa-môn, Phạm-chí vô nghì bất lương
Không hổ thẹn, dương dương đắc chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống tà hạnh tầm thường
Xem tướng, đoán mộng, phô trương biệt tài
Phun hạt cải, tế khoai, tế lửa,
Tế thục tô, tế lúa, tế dầu,
Tế máu cho đến khoa cầu
Cầu thần ban phước hoặc cầu quỷ ma
Khoa xem mộng lẫn khoa địa lý
Khoa thuốc độc cho chí khoa chim
Khoa đoán số mạng, cầu tìm
Chiêm tướng, triệu tướng, khoa ngừa bắn tên
Khoa bồ cạp hay tên khoa rắn
Khoa chim quạ, chuột cắn… những là…
Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia
Tránh xa ác hạnh ngụy tà ô danh.
*
* Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống tà mạng vô lường
Xem tướng hòn ngọc, kiếm gươm, áo quần
Tướng mũi tên, cây cung, võ khí
Tướng đàn bà cho chí đàn ông
Thiếu nam, thiếu nữ, nhi đồng
Đầy tớ trai gái, tướng trong gia cầm
Tướng voi, ngựa ; sưu tầm tướng thú
Tướng dê, cừu, chim cú, cắc kè
Tướng trâu, cun cút, gậy que
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 404
Bò đực, bò cái, lập lòe tướng ma.
Vị chân chánh xuất gia thì khác
Có giới hạnh an lạc uy nghi
Nằm trong Giới Luật thanh quy
Tỷ Kheo chân chánh thọ trì tịnh thanh.
*
* Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống tà mạng như thường
Đoán rằng : ‘Vua sẽ kiên cường tấn công
Vua ngoại bang thế cùng triệt thoái
Vua bản xứ rồi lại thu quân
Bên này thắng trận mấy lần
Bên kia đại bại, thất thần rút lui.
Những kẻ này không nguôi hiếu động
Cứ đoán mò, thực mộng chẳng sao !
Chân chánh Tỷ Kheo thanh cao
Tránh xa suy đoán hoạt đầu hám danh.
*
* Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống chẳng được thiện lương
Bằng những tà mạng, đủ phương thức tà
Lòng ham muốn xa hoa hưởng thụ
Nên tìm đủ mọi cách điêu ngoa
Tiên đoán sẽ có xảy ra
Nguyệt thực, nhật thực hoặc là sao băng
Đoán mặt trời, mặt trăng đi lệch
Hoặc đi đúng, không chệch bầu trời
Sẽ có lửa cháy các nơi
Sẽ có động đất, sấm trời : Thiên cơ
Các tinh tú sẽ mờ , sẽ sáng
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 405
Hay lặn, mọc ; có nạn nguy, an
Kết quả xảy trong không gian
Những kẻ hiếu sự lan man đoán mò.
Có giới hạnh, chẳng cho ác khởi
Vị Tỷ Kheo Luật Giới làm đầu
Không sống tà mạng lún sâu
* Như các Phạm-chí, hoạt đầu Sa-môn
Không hổ thẹn, lại còn đắc chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống tà mạng bất lương
Đoán mưa, đại hạn, bất tường xảy ra
Sẽ được mùa hay là mùa mất
Sẽ có bệnh hoặc gặp họa tai
Các nghề như đếm ngón tay
Kế toán, cộng số, làm theo thế tình,
Hoặc sắp đặt ngày lành tháng tốt
Để rước dâu, đón một rễ hiền
Hòa giải, chia rẽ, tiêu tiền
Đòi nợ, bùa chú người liền rủi ro
Dùng bùa chú làm cho cóng lưỡi
Để phá thai, cứng dưới quai hàm
Khiến cho bị điếc, bị câm
Hỏi gương soi, hỏi nữ nam phù đồng
Thờ đại địa cầu mong có phước
Thờ mặt trời để được quang huy
Phun ra lửa, thỏa sân si
Bùa chú, cầu nguyện Si-Ri thần tài.
*
Hoặc tà mạng dùng ngay tà thuật
Để được yên, khỏi chuốc nạn tai
Các điều đã hứa, làm sai
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 406
Để được dương thịnh, trong nhà chở che
Tìm đất tốt, phước về nhà mới
Lễ rửa miệng, ca ngợi hy sinh
Làm cho mửa, xổ trong mình
Bài tiết nhơ bẩn, sạch tinh cả người
Thoa dầu tai, soi ngươi nhỏ mắt
Làm thầy thuốc mổ cắt bệnh nhân
Chữa bệnh con nít xa gần
Các loại cây rễ, lượng phân dùng bừa.
Chân Tỷ Kheo ngăn ngừa ác hạnh
Y Giới Luật , thanh thản thọ trì.
– Kê-Vách-Thá ! Hãy tường tri
Vị Tỷ Kheo ấy uy nghi, vô cầu
Được hộ trì nhờ vào Giới Luật
Tâm kiên cương chẳng chút sợ gì
Như Sát-Đế-Lỵ (1) một vì
Làm lễ quán đảnh (2), trị vì giang san
Đã hàng phục lân bang thù địch
Không còn sợ đột kích biên phòng.
Tỷ Kheo chân chánh cũng không
Sợ hãi tội lỗi, vì lòng thẳng ngay
_______________________________
(1) : Theo Bà-La-Môn, xã hội chia ra 4 giai cấp bất di bất dịch : Bà-la-môn (giai cấp đứng đầu giữ phần nghi lễ, tế tự), Sát-Đế-Lỵ (giai cấp Vua chúa, quan quyền), giai cấp Phệ-Xá (Thương gia) , giai cấp cuối cùng bị áp chế, khinh rẻ nhất là Thủ-Đà-La hay Chiên-Đà-La .
(2) : Theo tập tục Ấn-Độ xưa , khi chính thức tuyên cáo địa vị kế thừa của Thái Tử để chuẩn bị lên ngôi Vua , hoàng tộc lấy nước 4 biền rưới lên đỉnh (đảnh) đầu Thái-tử., Do đó Thái-tử cũng được gọi là“Quán đỉnh vương tử ”. Điều đó có ý rằng sau này vị vương tử có thể thống trị toàn bộ lãnh thổ và nhân dân trong bốn biển . (Xem kinh Ambattha phần nói về vị Chuyển Luân Thánh Vương ).
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 407
Giới Luật ấy đủ đầy, cao quý
Hưởng lạc thọ, hoan hỷ nội tâm.
*
– Kê-Vách-Thá ! Hãy lắng tâm
Tỷ Kheo bảo hộ các căn thế nào ?
Mắt thấy sắc nhưng nào giữ tướng
Tướng chung, riêng chẳng nắm giữ gì
Mắt không chế ngự tại chi ?
Khiến bất thiện pháp ưu bi khởi vào
Nên tham ái dâng trào đủ thứ
Vị Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân
Hộ trì tích cực nhãn căn
Cũng như hộ trợ nhĩ căn cũng cần
Tai nghe tiếng hay thân cảm xúc
Mũi ngửi hương, nhận thức : Ý căn
Tỷ Kheo hộ trì các căn
Nên hưởng lạc thọ, nội tâm sáng ngời.
– Kê-Vách-Thá ! Thời thời tỉnh giác
Giữ chánh niệm, an lạc tự tâm
Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm
Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền
Khi tới, lui ; biết mình lui, tới
Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm
Hay khi co duỗi tay chân
Mặc y, đi bát hay cần uống ăn
Khi nhai, nuốt, nói năng : Tỉnh giác
Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : Biết mình
Như vậy Tỷ Kheo tâm minh
Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thanh cao.
– Kê-Vách-Thá ! Thế nào biết đủ ?
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 408
Hạnh Tri Túc luôn giữ chỉnh tề
Bằng lòng ba y để che
Bình bát khất thực dễ bề cúng dâng
Y và bát luôn gần bên cạnh
Cũng như chim, đôi cánh luôn mang
Đó là Tỷ Kheo giới toàn
Giữ hạnh Biết Đủ, không màng nhiều hơn.
*
Với Giới uẩn chánh chơn cao quý
Với các căn nhiếp kỹ, hộ trì
Chánh niệm tỉnh giác trí tri
Thêm hạnh tri túc, còn gì quý hơn.
Trang bị đủ những gì cao quý
Vị ấy lựa vị trí lặng yên
Như rừng tĩnh mịch, lâm viên
Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma,
*
Thời ngọ thực đã qua, rửa bát
Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng
An trú chánh niệm, lâng lâng
Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham
Bỏ sân hận, từ tâm thương xót
Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng
Từ bỏ hôn trầm, thụy miên
Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm
Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng
Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên
Gột rửa chúng, được an nhiên
Từ bỏ trạo cử thì liền tịnh thân
Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự
Gột rửa hết trạo cử, hôn trầm
Gột rửa tham ái, hận sân
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 409
Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.
– Kê-Vách-Thá ! Người nghèo mắc nợ
Liền chọn nghề, không sợ khó khăn
Nhờ sự nỗ lực, tinh cần
Nghề nghiệp phát đạt, tự thân nên giàu
Có tiền dư, nợ mau trả dứt
Nuôi vợ con, quả thực thanh nhàn
Người ấy nhờ vậy giàu sang
Sung sướng hoan hỷ, hoàn toàn an nhiên.
– Kê-Vách-Thá ! Bệnh duyên người nọ
Rất đau đớn, lại khó uống ăn
Thể lực suy yếu dần dần
Cơn bệnh trầm trọng hành thân đêm ngày
Bỗng nhân duyên, gặp thầy gặp thuốc
Dứt hẳn bệnh, ăn uống tiêu thông
Thể lực khôi phục như mong
Hoan hỷ, sung sướng, sống trong an lành.
– Kê-Vách-Thá ! Một anh bị nhốt
Trong ngục tù, ngục tốt khảo tra
Đau đớn, sợ hãi tối đa
Cầu mong thoát khỏi tai qua, nạn lùi
Bỗng duyên vui, gặp ngài Chánh án
Xét vô tội, xóa án thả mau
Tài sản không bị tổn hao
Thân vẫn khang kiện, ngục lao thoát rồi
Về lại nhà, bồi hồi nghĩ lại
Quá sung sướng, thanh thái hân hoan.
– Kê-Vách-Thá ! Một thời gian
Có người nô lệ của hàng chủ nhân
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 410
Không tự chủ, bản thân lệ thuộc
Mất tự do, ràng buộc khó khăn
Bỗng một hôm, vị chủ nhân
Tuyên bố trả tự do thân người này,
Quá hoan hỷ, lòng đầy sung sướng
Người nô lệ tận hưởng niềm vui.
– Kê-Vách-Thá ! Có một người
Giàu, nhiều tài sản, là người lái buôn
Qua sa mạc mênh mông nguy hiểm
Thiếu lương thực, khan hiếm nước dùng
Sợ hãi trong bước đường cùng
Bỗng gặp ốc đảo, nước trong rất nhiều
Mấy hôm sau, lại điều may khác
Khỏi sa mạc, gần đến đầu làng
Vô sự, sung sướng, vui an
Khỏi sự nguy hiểm lòng hằng ước mơ.
– Kê-Vách-Thá ! Chính nhờ quán niệm
Vị Tỷ Kheo tự nghiệm, tự tri
Năm Triền Cái chưa xả ly
Như là món nợ, Bệnh hay Ngục đường,
Như nô lệ, con đường sa mạc,
Nay trả dứt hết các nợ nần
Khỏi cơn bệnh dữ hành thân
Ra khỏi sa mạc, thoát tầng ngục lao
Năm Triền Cái chừng nào chưa diệt
Vị Tỷ Kheo mãi miết tinh cần.
.
Chừng nào khi quán tự thân
Với năm Triền Cái đã cần xả ly
Do xả ly, tức thì hoan hỷ
Do hoan hỷ, tâm được khinh an
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 411
Lạc thọ sinh do khinh an
Đạt được như thế, tâm an định liền
Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục
Chứng và trú vào mục Nhất Thiền
Trạng thái hỷ lạc tự tâm
Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên
Đệ Nhất Thiền, Tỷ Kheo thấm nhuận
Như tẩm ướt, sung mãn, tràn nhanh
Hỷ lạc do ly dục sanh
Với Tầm, với Tứ thấm quanh tức thời.
– Kê-Vách-Thá ! Như người hầu tắm
Thật lão luyện, lo sắm sửa mau
Rắc bột tắm vào trong thau
Rồi dùng bột ấy nhồi vào nước trong
Nhào trộn ướt, nhưng không chảy giọt
Cũng như vậy, với một Tỷ Kheo
Tẩm nhuận, sủng ướt, thấm theo
Toàn thân không có chỗ nào còn khô.
Cũng như thế, sanh do ly dục
Hỷ lạc cũng đẫm suốt tâm này.
Giáo hóa thần thông là đây
Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.
Kê-Vách-Thá ! Tiếp liền điều nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Diệt Tầm, diệt Tứ được yên
Thì chứng và trú vào thiền thứ Hai
Một trạng thái ra ngoài tầm, tứ
Do định sinh, nội tỉnh nhất tâm
Tỷ Kheo hỷ lạc thấm nhuần
Hỷ lạc thấm ướt khắp thân của mình.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 412
Do Định sinh, tràn đầy hỷ lạc
Không chỗ nào hỷ lạc chẳng nhuần.
– Kê-Vách-Thá ! Tại cội nguồn
Có một hồ nước, nước tuông dâng đầy
Cả nam, bắc, đông, tây các chỗ
Không có lỗ thoát nước chảy ra
Suối nước mát lạnh phun ra
Làm cho đẫm ướt, thấm qua dâng tràn
Thỉnh thoảng mưa, hồ càng tẩm ướt
Không chỗ nào không được tràn dâng
Tỷ Kheo hỷ lạc thấm nhuần
Do Định, tẩm ướt khắp thân của mình.
Kê-Vách-Thá ! Hành trình tiếp nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Ly hỷ trú xả, nhất tâm
Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền
Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ
Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên
Chứng và an trú Tam Thiền
Tỷ Kheo đẫm ướt, thấm nhuần tự thân
Sự lạc thọ, không cần có hỷ
Lạc thọ ấy thấm kỹ toàn thân
Không một chỗ nào trên thân
Mà lạc thọ đó không phần thấm vô.
– Kê-Vách-Thá ! Như hồ sen trắng
Cả sen hồng chen lẫn sen xanh
Những hoa sen ấy đều sanh
Từ trong hồ nước, lớn nhanh từng ngày
Nhưng chúng vẫn chưa ngoi khỏi nước
Từ gốc rễ đẫm ướt tới đầu.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 413
Tỷ Kheo với lạc thọ sâu
Không đi với hỷ, thấm mau tràn đầy.
Kê-Vách-Thá ! Lành thay, tiếp nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Xả lạc, xả khổ ; tâm yên
Diệt hỷ, ưu, cảm thọ – liền trước đây
Chứng và trú vào Thiền Đệ Tứ
Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào
Thanh tịnh, an lạc tiêu dao
Như Tỷ Kheo ấy thấm sâu, ướt đầm
Được thấm nhuần với tâm thuần tịnh
Và trong sáng, trong chính thân này.
Giáo hóa thần thông là đây
Sa-môn biểu hiện đêm ngày, lành thay !
– Kê-Vách-Thá ! Như vầy thí dụ :
Với tư duy hãy thử nghĩ suy :
Có một hòn ngọc lưu ly
Rất là quý giá, sánh bì bảo châu
Rất sáng đẹp, không màu, trong suốt
Có tám mặt, đã được khéo mài
Chẳng trầy trụa, rực rỡ thay !
Lấp lánh chói lọi đêm ngày sáng trưng
Các sợi giây xâu từng lần một
Sợi màu vàng, sợi trắng, đỏ, xanh
Một người đôi mắt tinh anh
Nhìn vào hòn ngọc, thấy rành bảo châu
Là báu vật chẳng đâu thấy có
Các sợi giây vàng, đỏ, trắng, xanh
Được xâu lần lượt khéo rành
Thấy được màu sắc long lanh ngọc này.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 414
* Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng ngay tâm tới
Chánh Trí với Chánh Kiến như vầy
Biết rằng : Thân của ta đây
Chính là Sắc pháp, thân này do sanh
Do bốn đại tác thành hoàn hảo
Cha mẹ nuôi, cơm cháo, vô thường
Biến hoại, đoạn tuyệt ; đáng thương
Phấn toái, hoại diệt. Nhưng nương thân này
Thức tánh ta bị giây trói buộc
Trong thân ấy, lệ thuộc như vầy.
Giáo hóa thần thông là đây
Sa-môn biểu hiện đêm ngày, lành thay !
– Kê-Vách-Thá ! Như vầy thí dụ :
Một trại chủ cầm một cây lau
Rút lau ra khỏi vỏ lau
Rồi nghĩ : Đây vỏ, đây lau ; khác rồi
Cây lau khác, vỏ thời khác đó
Nhưng cây lau từ vỏ rút ra.
Cũng như vỏ kiếm nạm ngà
Rút ra thanh kiếm sáng lòa, quý thay !
Thanh kiếm khác, vỏ này khác đó
Nhưng cây kiếm từ vỏ rút ra.
Hay như con rắn lột da
Đây là con rắn, đây là vỏ da
Vỏ da rắn không là con rắn
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 415
Nhưng rắn từ vỏ rắn lột ra.
Đây những thí dụ thấy qua
Cái này từ cái kia mà có đây.
* Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo Thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
Sự Hiện Hóa Thân mới khác vời
Do ý làm ra tức thời
Tạo một thân khác từ nơi thân này
Thân mới ấy cũng tày Sắc pháp
Do ý sinh, đủ các căn phần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, tay chân
Toàn thân không thiếu một căn chi nào.
– Kê-Vách-Thá ! Như vầy thí dụ :
Thợ gốm hay đệ tử người này
Là người thợ rất khéo tay
Đất sét nhồi nhuyển, người này làm ra
Đồ gia dụng tùy qua sở thích
Hay thợ ngà thực đích lành nghề
Khéo đẻo chạm với tay nghề
Đồ ngà tùy thích mọi bề làm ra
Hay như là thợ vàng rất khéo
Dùng vàng ròng tạo chế nữ trang
Các loại trang sức bằng vàng
Thật là tinh xảo, đẹp sang như vầy.
* Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 416
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
Các Thần Thông nhiều loại nhiệm mầu
Một thân hiện ra nhiều thân
Nhiều thân thu lại một thân dễ dàng
Hiện, biến hình, đi ngang qua vách
Xuyên qua núi như cách hư không
Độn thổ, trồi lên đất giồng
Đi được trên nước cũng không chìm nào
Ngồi kiết già trên cao vòi vọi
Bay trên không như loại chim bằng
Với tay chạm mặt trời, trăng
Có đại oai lực, oai thần uy linh
Hoặc có thể tự mình bay tới
Cõi Phạm Thiên vời vợi nơi này,
Giáo hóa thần thông là đây
Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.
* Vị Tỷ Kheo tâm tuyền thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
THIÊN NHĨ THÔNG, nghe tới muôn phần
Với Tai thanh tịnh siêu nhân
Vị ấy có thể nghe gần nghe xa
Hai loại tiếng : Người ta và loại
Tiếng chư Thiên các cõi nghe rày.
Giáo hóa thần thông là đây
Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 417
* Vị Tỷ Kheo tâm tuyền thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
THA TÂM THÔNG, dẫn tới biết ngay
Tâm của người khác hằng ngày
Tâm tham cũng biết, không tham biết liền
Tâm nổi sân, biết liền sân hận
Tâm không sân không hận cũng tường
Tâm Si hay không Si thường
Chuyên chú, tán loạn biết dường tự tâm
Đại hành tâm, biết là như vậy
Hoặc không phải là đại hành tâm
Tâm vô thượng, biết rõ ràng
Tâm chưa vô thượng lại càng biết thông
Tâm thiền định hay không thiền định
Tâm giải thoát hay dính buộc ràng
Vị ấy đều biết rõ ràng
Tâm của người khác ; cả hàng trí, ngu.
* Vị Tỷ Kheo ôn nhu, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
TÚC MẠNG THÔNG, nhớ tới nhiều đời
Quá khứ với một, hai đời,
Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua
Một ngàn đời hay là hơn nữa
Một trăm ngàn đời thuở lâu xa
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 418
Hoại kiếp, thành kiếp trải qua
Vị ấy nhớ lại như là mới đây.
Tại nơi ấy, tên này ta có
Thuộc giai cấp, giòng họ thế này
Uống, ăn, thọ khổ, lạc rày
Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao
Ta tái sinh, nhằm vào làng đó
Có tên tuổi, giòng họ thế nào…
Cứ thế, nhớ lại biết bao
Tiền kiếp, tái kiếp không sao đếm rồi.
Vị Tỷ Kheo nhờ nơi không vọng
Nhớ đến nhiều đời sống an bài.
Giáo hóa thần thông là đây
Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.
* Vị Tỷ Kheo tâm tuyền thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
THIÊN NHÃN THÔNG, dẫn tới tuệ minh
Xét về sinh tử chúng sinh
Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền
Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả
Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang
Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn
Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.
Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý
Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền
Người này thân hoại, tận duyên
Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 419
Các cõi dữ, như sinh địa ngục
Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.
* Còn bậc hiền giả, những ai
Làm những thiện hạnh ý và lời, thân
Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển
Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng
Sau khi thân hoại mạng chung
Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời
Do thiên nhãn, biết đời sống chết
Người hạ liệt hay kẻ giàu sang
Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn
Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may
Do hạnh nghiệp kẻ này hành động
Có kết quả chẳng giống nhau này.
Giáo hóa thần thông là đây
Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.
* Vị Tỷ Kheo tâm tuyền thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
LẬU TẬN THÔNG, dẫn tới biết rành
Lậu Tận Trí, biết ngọn ngành
Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào
Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ
Biết như thật lậu-hoặc loại này
Nguyên nhân lậu-hoặc là đây
Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường.
Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức
Tâm vị ấy rất mực sáng trong
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 420
Dục-lậu, hữu-lậu thoát xong
Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn
Liền hiểu rõ : Tự thân giải thoát
Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành
Việc cần làm, đã thực hành
Sau đời hiện tại, Vô Sanh hiển bày.
Kê-Vách-Thá ! Đủ đầy lợi lạc
Khi Tỷ Kheo hành các pháp này
Giáo hóa thần thông là đây
Sa-môn biểu hiện đêm ngày cần chuyên.
*
67. Kê-Vách-Thá ! Kể trên, ba pháp
Thần thông này chứng đạt đinh ninh
Như Lai chứng ngộ tự mình
Tuyên thuyết đến chúng hữu tình, nhân thiên.
Kê-Vách-Thá ! Căn nguyên thuở trước
Có Tỷ Kheo chứng được thần thông
Khởi lên nghi vấn trong lòng :
‘Tứ đại : Thủy, hỏa, địa, phong bốn hàng
Đi đâu khi hoàn toàn biến diệt ?’
Nên Tỷ Kheo nhập định, tư duy
Và trong định tâm chuyên vì
Con đường Thiên giới tức thì hiện ra.
68. Vị Tỷ Kheo đi qua Thiên giới
Tứ Thiên Vương – Khi tới đúng phương
Hỏi rằng : “ Thưa Tứ Thiên Vương
Cả bốn đại chủng, con đường đi đâu
Khi tứ đại này sau khi diệt ? ”.
Bốn Thiên vương được biết nguyên nhân
Điều vị Tỷ Kheo này cần
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 421
Bốn Thiên vương đã quan tâm trả lời :
– “ Này Tỷ Kheo ! Chúng tôi không biết.
Nhưng có thể được biết từ nơi
Tứ Đại Thiên Vương cõi trời
Các Ngài có thể trả lời thẳng ngay ”.
69. Kê-Vách-Thá ! Vị này đi lại
Và liền hỏi Tứ Đại Thiên Vương :
– “ Này các Hiền giả ! Có tường
Sau diệt, tứ đại có đường đi đâu ?
Nghe hỏi vậy, lắc đầu không biết
Bốn Đại vương chỉ tiếp cõi thiên :
– “ Này Tỷ Kheo ! Ở trên miền
Cõi trời Tam Thập Tam Thiên các vì
Với câu hỏi phạm vi như vậy
Chư Thiên ấy có thể trả lời ”.
70. Tỷ Kheo bay lên cõi trời
Băm ba (Đao Lợi) vì lời chỉ trên
Nhưng các vị chư Thiên tại đó
Nói rằng họ cũng chẳng biết chi.
– “ Này Tỷ Kheo ! Ông hãy đi
Đến gặp Thiên Chủ trị vì, đảm đương
Là Sắc-Ká – Thiên vương Đế Thích (1)
Ưu thế hơn, toàn bích hơn nhiều ”.
71. Nhắm hướng có tiếng tiêu thiều
Tỷ Kheo đến gặp, hỏi điều trên đây
– “ Kính thưa Ngài Thiên vương Đế Thích
Là chủ tịch cai quản Băm ba
_______________________________
(1) : Vua Trời Đế Thích ( Sakka ) cai quản cung trời Ba mươi ba
(Tam thập tam thiên ) hay còn gọi là cõi trời Đao Lợi .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 422
Cung trời Đao Lợi cũng là,
Chắc Ngài hiểu rõ ràng và suốt thông :
Bốn đại chủng : Địa, phong, thủy, hỏa
Sẽ đi đâu khi đã diệt rồi ? ”.
Nghe hỏi, Đế Thích trả lời :
– “ Tôi cũng không biết chúng rồi đi đâu.
Nhưng chư Thiên ở đầu trên nữa
Trời Dạ-Ma (1) tích chứa phước hơn
Ưu thế và thù thắng hơn
Có thể giải đáp vuông tròn điều trên ”.
72. Tỷ Kheo ấy bay lên thiên giới
Cõi Dạ-Ma hỏi với chư Thiên
Về điều thắc mắc kể trên
Dạ-Ma thiên chúng ấy liền nói ngay :
– “ Này Tỷ Kheo ! Điều này, quả thiệt
Chúng tôi đây không biết đâu là !
Nhưng Thiên Tử Su-Da-Ma (2)
Ngài có thể biết, nói ra rõ ràng ”.
73. Kê-Vách-Thá ! Vội sang thiên giới
Vị Tỷ Kheo đi tới Thiên vương
Su-Da-Ma, hỏi cho tường
Nhưng lại được chỉ đến phương khác vời :
74. –“ Tu-Si-Ta – cõi trời Đâu Suất (3)
Hy vọng đây thông suốt điều này ”.
Các vị chư Thiên ở đây
Cũng nói không biết, chỉ ngay một đường :
75. – “ Đến Thiên vương Sanh-Tu-Si-Tá (4)
_______________________________
(1) & (2) : Cõi trời Yàma (Dạ Ma) và Vua trời Dạ-Ma: Suyàma .
(3) & (4) :Cõi trời Đâu Suất ( Tusita ) và vị Vua trời Santusita .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 423
Ngài ưu thắng hơn cả chúng tôi ”.
Tỷ Kheo lại tìm đến nơi
Nhưng lại được chỉ cung trời cao hơn :
– “ Hóa Lạc Thiên nhiều hơn phước trí
Niêm-Ma-Na-Ra-Tí (1) chư thiên
Các Ngài sẽ giải thích liền ”.
76. Tỷ Kheo lại đến cõi Thiên Cung này
Hóa Lạc Thiên nơi đây Thiên chúng
Đồng nói là họ cũng bó tay
Điều đó thật là khó thay !
Họa may ông hãy đi ngay đến tìm
Vị Thiên Tử Su-Niêm-Mi-Tá (2)
Ngài ưu thắng hơn cả chúng tôi ”.
77. Tỷ Kheo lại đến tận nơi,
Su-Niêm-Mi-Tá trả lời là không
Lại khuyến khích bền lòng, chớ ngại
78. Trời Tha Hóa Tự Tại hãy qua
Va-Sa-Vách-Tí (3) nguy nga cung trời .
Nhưng đến nơi, họ không biết rõ
79. Nên giới thiệu vị họ nể vì :
Thiên Tử Va-Sa-Vách-Ti (4)
Tỷ Kheo đến hỏi tức thì Thiên vương
Ngài trả lời : “ Vô phương biết tới
Hãy đến với nơi giỏi hơn ta
Là Bram-Ma Ka-Di-Ka
_______________________________
(1) :Cõi trời Hóa Lạc Thiên ( Nimmànarati ) .
(2) : Vua trời Sunimmita của cõi trời Hóa Lạc Thiên .
(3) : Tha Hóa Tự Tại Thiên ( Paranimmitavasavatti ).
(4) : Vua trời Tha HóaTự Tại Thiên : Vasavatti .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 424
Các Phạm Thiên ấy rất là thắng ưu ”.
80. Kê-Vách-Thá ! Tỷ Khưu nhập định
Trong định tâm, đến chính Phạm cung
Phạm Thiên giới (1), cõi ung dung
Tỷ Kheo đi đến hỏi cùng chư Thiên
Nhưng chư Thiên đáp liền : “ Không biết
Sau khi đã biến diệt hoàn toàn
Cả bốn đại chủng cưu mang
Đất, nước, gió, lửa đi sang nơi nào.
Nhưng tại sao Tỷ Kheo không gặp
Đại Phạm Thiên là bậc Toàn Năng
Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn,
Thượng Đế, Sáng tạo, sinh tồn chúng sinh
Ngài ưu thế, thông minh, thù thắng
Cha muôn loài, chắc chắn biết rành
Hãy đến hỏi Ngài chân thành
Ngài sẽ giải thích ngọn ngành điều trên ”.
Kê-Vách-Thá ! Tỷ Kheo liền hỏi :
– “ Này Hiền giả ! Xin nói cho hay :
Vị Đại Phạm Thiên Vương này
Là đấng Thượng Đế, hiện Ngài ở đâu ?
– “ Này Tỷ Kheo ! Không sao biết trước
Chỉ khi nào triệu tướng hiện ra
Hào quang xuất hiện chói lòa
Đại Phạm Thiên ấy hiện ra tức thì ”.
81. Kê-Vách-Thá ! Duyên kỳ tương hội
_______________________________
(1) : Cõi trời Phạm Thiên Brahma Kayikà với vị Phạm Thiên
( Brahma ) được nhiều tôn giáo coi là đấng Thượng Đế
sáng tạo muôn loài vạn vật .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 425
Không bao lâu, sáng chói hào quang
Đại Phạm Thiên hiện rõ ràng
Chung quanh vị ấy hàng hàng chư Thiên.
Vị Tỷ Kheo hỏi liền không ngại :
– “ Thưa Hiền giả ! Bốn đại chủng là :
Đất, nước, gió, lửa điều hòa
Sau khi biến diệt, đi qua nơi nào ? ”.
Kê-Vách-Thá ! Không vào câu hỏi
Đại Phạm Thiên lại nói đỡ liền :
– “ Ta chính là Đại Phạm Thiên
Biến nhãn, Tối thắng, Thượng Tiên, Sinh tồn
Sáng Tạo chủ, Đại Tôn, Thượng Đế
Bậc Toàn Năng, Chủ Tể Phạm cung
Tổ Phụ của chúng sinh chung
Định mạng chúng đã sinh cùng sẽ theo ”.
82. Nghe như vậy, Tỷ Kheo bất mãn
Nói lại rằng : “ Tôi chẳng hỏi Ngài
Đại Phạm Thiên ấy là ai
Chỉ có câu hỏi đề tài chưa an :
‘Khi Tứ đại hoàn toàn biến diệt
Sẽ đi đâu, Ngài biết hay không ?’
Đại Phạm Thiên lại lòng vòng
Nói rằng :“ Ta đã tinh thông, thường hằng
Sáng Tạo chủ, Toàn năng, Thượng Đế
Hóa Sanh chủ, Chúa Tể Phạm cung
Biến nhãn, Tối thắng, Cha chung
Tổ Phụ muôn loại, Vô cùng Thượng tiên ”.
Lần thứ hai, Phạm Thiên cứ nói
Còn câu hỏi thì cứ tảng lờ.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 426
83. Kê-Vách-Thá ! Lúc bấy giờ
Tỷ Kheo vị ấy chẳng chờ dứt câu
Lại nói nữa : “ Tôi đâu có hỏi
Về Phạm Thiên, mà nói dông dài
Lần thứ ba, tôi hỏi Ngài :
Sau diệt, bốn đại chủng này đi đâu ? ”.
* Kê-Vách-Thá ! Không sao đừng được
Đại Phạm Thiên vội bước xuống tòa
Kéo vị Tỷ Kheo ra xa
Nói nhỏ : “ Ông đã hỏi ta điều mà
Đến chính ta cũng không biết cả
Nhưng tại Bram-Ma Ká-Di-Ka
Chư Thiên ngưỡng mộ nơi ta
Cho rằng không có gì ta không tường
Bậc Toàn năng muôn phương, Toàn trí
Thì phải thấy, biết kỹ mọi điều
Nên trước mặt họ trong triều
Nếu nói không biết, thật nhiều hổ ngươi.
– Này Tỷ Kheo ! Là người tu tập
Theo Thế Tôn, bậc Thập Lực này
Tại sao ông lại lên đây
Mà ông không hỏi nơi Ngài Thế Tôn ?
Biết bao nhiêu Pháp môn vi diệu
Bậc Đại Giác đã liễu ngộ rồi
Tuyên thuyết độ sinh mọi thời
Sao ông không hỏi, hỏi nơi xa vời ?
Hãy trở về, lựa lời thưa thỉnh
Sẽ được nghe từ chính Thế Tôn
Và hãy thọ trì, bảo tồn
Những gì mà đức Thế Tôn dạy rành ”.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 427
84. Kê-Vách-Thá ! Thật nhanh, dũng mãnh
Như lực sĩ duỗi cánh tay liền
Biến mất ở cõi Phạm Thiên
Tỷ Kheo xuất hiện, đứng liền một bên
Hướng Thế Tôn, ông liền đảnh lễ
Rồi ngồi xuống, ông kể những nơi
Mà ông đến các cõi trời
Hỏi về Tứ Đại, chẳng nơi nào tường.
Vị Tỷ Kheo còn đương thắc mắc
Lại xin Phật giải thích đuôi đầu
– ‘Bạch Thế Tôn ! Sẽ đi đâu
Đất, nước, gió, lửa ngay sau diệt rồi ?’.
85. Kê-Vách-Thá ! Nghe thời câu hỏi
Ta đã nói với vị Tỷ Kheo :
– “ Này Tỷ Kheo ! Vào thuở xưa
Hải thương các vị muốn mua bán gì
Khi vượt biển phải đi thuyền đại
Thường đem theo một loại chim trời
Có thể thấy bờ mọi nơi.
Khi thuyền ra đến ngoài khơi xa bờ
Các hải thương đợi chờ khi ấy
Thả con chim trông thấy bờ này
Con chim bay về hướng tây
Hướng đông,hướng bắc rồi quày hướng nam
Hướng trung gian, hướng trên bay tới
Nếu thấy bờ, nó vội bay vào
Nếu không trông thấy bờ nào
Nó liền bay lại thuyền, mau cấp kỳ.
Này Tỷ Kheo ! Ngươi vì thắc mắc
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 11 : KEVADDHA * MLH – 428
Đã tìm khắp đến các cõi trời
Nhưng không có câu trả lời
Nên ngươi trở lại cõi đời tìm Ta.
Này Tỷ Kheo ! Nói qua câu hỏi
Không nên hỏi :“ Tứ đại đi đâu
Sau khi biến diệt qua mau ”,
Câu hỏi phải nói như sau, thuận đồng :
“ – Chỗ nào mà địa, phong, thủy, hỏa
Dài, ngắn, thô, tế cả tịnh, dơ
Không có chân đứng bao giờ ?
– Chỗ nào danh, sắc hoàn toàn diệt tiêu ? ”.
Đây là điều trả lời câu ấy :
“Thức là không thể thấy, vô biên
Biến thông hết thảy xứ miền
Ở đây địa đại và liền hỏa, phong
Cả thủy đại đều không chân đứng
Tịnh, bất tịnh, dài, ngắn, tế, thô
Cũng không chân đứng dựa vô,
Danh và sắc cũng tiêu vô hoàn toàn,
Khi Thức diệt, mọi đàng hết hẳn
Mọi thứ đều diệt tận, luật chung ”.
*
Khi Thế Tôn, đấng Đại Hùng
Thuyết giảng như vậy, vô cùng uy nghiêm
Kê-Vách-Thá một niềm hoan hỷ
Tín thọ lời tôn quý, tịnh thanh
Đảnh lễ Thế Tôn chí thành
Tự nguyện tinh tấn thực hành Pháp môn ./-
* * *
( Chấm dứt Kinh 11 : KEVADDHA – Kinh Kiên Cố )
NĂM ĐIỀU QUÁN TƯỞNG :
Thế Tôn lời dạy tinh tường
Năm điều Quán Tưởng phải thường xét ra :
– Ta đây phải có sự Già
Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn !
– Ta đây Tật Bệnh phải mang
Thế nào tránh thoát, được an, mạnh lành !
– Ta đây sự Chết sẵn dành
Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ !
– Ta đây phải chịu Chia Ly
Nhân, vật quý mến tức thì biệt xa !
– Ta đi với Nghiệp của ta
Dù cho tốt xấu, tạo ra tự mình
Theo ta như bóng theo hình
Ta hưởng họa phúc phân minh, đúng thời.
* * *