Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Hoàng tử nhân đức

04/02/201108:40(Xem: 1201)
3. Hoàng tử nhân đức

CUỘC ĐỜICỦA ĐỨC PHẬT
THESTORY OF BUDDHA
NguyênTác: JOHNATHAN LANDAW - Người Dịch: HT. THÍCH TRÍ CHƠN

3.HOÀNG TỬ NHÂN ĐỨC

Tronglúc thái tử đang còn quá bé thì thân mẫu của thái tử,hoàng hậu Ma Da từ trần.

Khônglậu trước ngày hoàng hậu qua đời, bà ta nói với cô emgái: “Sắp đến ngày chị không còn có thể chăm sóc choem bé mới sinh của chị nữa. Dì thân mến, sau khi chị mất,xin dì nuôi nấng thái tử Tất Ðạt Ða giúp chị”. Em củahoàng hậu hứa sẽ làm điều đó. Bà rất yêu thương vànuôi dạy thái tử giống như con riêng của mình.

Tháitử lớn lên và trở nên một đứa bé thông minh, dễ thươngvà nhân từ. Phụ hoàng đã mời các danh sư tài giỏi nhấttrong nước để dạy cho thái tử, và thái tử nhanh chóng chứngtỏ là rất mực thống minh. Sau vài ngày đầu tiên dạy dỗ,các giáo sư đều báo cáo với nhà vua:

“Tâubệ hạ, thái tử không cần đến chúng tôi nữa. Chỉ sauvài bài học, thái tử đã biết hết mọi điều chúng tôimuốn dạy. Thực vậy, thái tử đã dạy lại chúng tôi nhữngđiều mà chính chúng tôi chưa bao giờ biết từ trứơc!”

Nghenói thế niềm hảnh diện nơi đức vua về thái tử lại càngtăng trưỡng thêm lên. Hoàng thượng suy nghĩ: “Với tánhthông minh của con ta thái tử lớn lên, chắc sẽ trở thànhmột vị vua tài đức và hùng mạnh”, và điều này làm chonhà vua rất sung sướng.

Nhưngthái tử còn có những điểm đặc biệt hơn cả sự thôngminh. Bản tính của thái tử là rất tốt, hiền lành và cólòng từ bi. Những bạn cùng lứa với thái tử đã thích chơicác trò chơi vật lộn sôi nổi của trẻ con hay giả làm línhvà đánh lẫn nhau. Nhưng thái tử Tất Ðạt Ða đã dùng hếtthì giờ cho cuộc sống thầm lặng của mình. Thái tử thươngyêu những con vật nhỏ sống trong vườn ở hoàng cung và kếtbạn thân thiết vơi chúng. Loài vật biết thái tử không baogiờ sát hại chúng cho nên chúng cũng không cảm thấy sợhãi thái tử. Ngay cả thú dữ thường hay bỏ chạy khi thấyngười lại gần, nhưng chúng đến chào mừng khi thấy tháitử bứơc vào công viên. Chúng tiến lại gần không chút sợsệt và nhận lấy từ bàn tay thái tử các thức ăn mà tháitử luôn mang theo cho chúng.

Ngàynọ, đang ngồi trong hoa viên, thái tử trông thấy một đànthiên nga bay trên trời. Thình lình một mũi tên bắn lên khôngtrung và một con bị trúng. Nó rớt từ trên không xuống nơichân của thái tử với mũi tên đang còn dính nơi cánh củachim.

Tháitử Tất Ðạt Ða nhẹ nhàng ôm con chim bị thương lên vànói nhỏ với nó: “Ồ, Thiên nga tội nghiệp con của ta. Conđừng sợ. Ta sẽ chăm sóc cho con nhé. Này, hãy để ta rútmũi tên ra.” Rồi, thái tử dùng bàn tay dịu dàng vuốt veđể chim hết sợ. Và tay kia thái tử từ từ lấy mũi tênác nghiệt ra. Thái tử dùng thuốc đặc biệt thoa vào cánhcủa chim, và luôn luôn nói với giọng nhỏ nhẹ, trìu mếnđể nó không còn sợ hãi. Sau cùng thái tử lấy chiếc áolụa của mình bao quanh giữ cho thân chim được ấm.

Giâylát sau, một thiếu niên trẻ khác chạy vào trong vườn. Ðólà Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) (6), anh em bà con với thái tử.Thiếu niên này tay mang cung tên và vui vẻ la lớn: “Này TấtÐạt Ða, Tất Ðạt Ða, có tin mừng! Em bắn trúng con thiênnga! Anh thấy tài chưa, chỉ một phát đầu em bắn trúng đíchliền! Nó rơi xuống gần đâu đây. Anh giúp em tìm nó đi.”

Rồèề Bà Ðạt Ða thấy mũi tên của mình đang còn dính máurớt nằm trên mặt đất gần chân của thái tử. Nhìn cạnhđó, Ðề Bà trông thấy thái tử đang ôm chặt vật gì trongtay, và nhận ra đó là con thiên nga mà anh ta đang tìm kiếm.Ðề Bà la lên: “Ê, anh giữ con thiên nga của em. Anh đưanó cho em. Em bắn trúng thiên nga nó là của em.” Ðề Bà chụpgiật lấy con chim, nhưng thái tử giữ chặt không cho ngườiem giận dữ sờ chạm đến nó.

Tháitử nói với giọng cương quyết: “Anh tìm thấy con chim bịthương rỉ máu rơi nằm ở đây, và anh nhất định khôngtrao chim cho bất cứ ai, khi nó chưa lành vết thương.”

ÐềBà lại to tiếng: “Nhưng chim là của em. Vì rõ thực là doem đã bắn rơi nó, và anh đã lấy cắp chim của em. Vậy anhhãy trả chim cho em hoặc em sẽ bắt lại nó.”

Haihoàng tử đứng cãi cọ như vậy trong giây lát, Ðề Bà mỗilúc càng nổi giận, nhưng Tất Ðạt Ða từ chối nhất địnhkhông trao chim cho Ðề Bà. Cuối cùng thái tử nói: “Khi haingười có việc tranh cãi như thế này, chúng ta nên giải quyếtvấn đề tại pháp đình. Trước một số các quần thầnsáng suốt, mỗi bên sẽ trình bày sự việc xảy ra như thếnào. Rồi quý vị hiểu biết đó sẽ phán quyết ai đúng aisai. Tôi nghĩ chúng ta nên làm như vậy.”

ÐềBà không thích ý kiến này lắm, nhưng đây là phương cáchduy nhất để Ðề Bà bắt lại con thiên nga cho nên anh ta chấpthuận. Cả hai vào hoàng cung, đến trước phụ vương và cáctriều thần. Mọi người tại pháp đình đều nhìn nhau cườikhi họ nghe trình bày điều mà hai hoàng tử muốn. Các quầnthần suy nghĩ bảo rằng: “Cả hai chúng muốn dùng thì giờcủa chúng ta cho việc phân xử chỉ vì một con chim.” Nhưngđức vua nói: “Tất Ðạt Ða và Ðề Bà Ðạt Ða đều làthai tử của hoàng tộc, và trẫm vui mừng thấy cả hai mangviệc tranh chấp của chúng đến cho chúng ta giải quyết. Trẫmnghĩ đó là đều rất quan trọng vì sau khi trở thành cácnhà cầm quyền tương lai, chúng sẽ cần đến sự phán quyếtcủa pháp đình này. Hãy bắt đầu phiên tòa đi”.

Rồilần lượt mỗi hoàng tử lên trình bày về sự việc đãxảy ra. Các triều thần cố gắng phân xử để xem ai phảithì người đó có quyền giữ con thiên nga. Có vị bảo rằng“Ðề Bà bắn rơi con chim cho nên nó thuộc của Ðề Bà”.Người khác lý luận: “Tất Ðạt Ða tìm thấy con thiên nga,do đó nó thuộc của người”. Các quần thần đã bàn thảovà tranh luận khá lâu về nội vụ.

Cuốicùng, giữa pháp đình xuất hiện một ông lão già mà khôngai nhớ là đã gặp ông ta từ trước bao giờ. Nhưng vì trôngthấy ông rất đức độ, các quần thần đã trình bày choông rõ đầu đuôi câu chuyện về con thiên nga của hai hoàngtử. Sau khi nghe xong, ông lão tuyên bố: “Mọi người nam nữai cũng quý trọng sự sống của mình hơn bất cứ vật thểgì khác trên thế gian cho nên, tôi nghĩ con thiên nga thuộcvề người đã hết lòng cứu mạng sống cho chim, chứ khôngthuộc về kẻ đã cố tâm hủy diệt sự sống của nó. Hãytrao thiên nga cho Tất Ðạt Ða”.

Mọingười đồng ý rằng điều mà ông lão hiền đức nói làđúng sự thật, cho nên các triều thần phán quyết để chothái tử Tất Ðạt Ða giữ con thiên nga. Sau đó, đức vuacố tìm gặp để ban thưởng cho ông già về ý kiến sángsuốt của ông, nhưng không thấy ông đâu cả. Nhà vua liềnsuy nghĩ: “Thực là điều hết sức kỳ lạ, ta chẳng rõtừ đâu ông ta đến và từ chốn nào ông đã ra đi”. Màkhông ai biết cả. Ðây là một trong những sự việc bí ẩnđã xảy ra liên quan đến thái tử, cho nên nhiều người tưởngnghĩ rằng thái tử đúng hẳn là một đứa trẻ rất siêuphàm.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2011(Xem: 3258)
Trong Kinh Pháp Cú, Phật nói rằng: “Có 4 cái hạnh phúc chân thật, đó là hạnh phúc thay chư Phật giáng sinh”, bởi vì nơi nào mà có chư Phật giáng sinh thì nơi đó sẽ mang lại nguồn lợi ích, an lạc, hạnh phúc cho chư thiên và loài người. Tại sao chúng ta gọi là ngày giáng sinh hoặc đản sinh? Đản có nghĩa là vui vẻ, hân hoan, lợi ích cho nên ngày đức Phật sinh ra đời là ngày làm cho người hân hoan, vui vẻ. Đó là nguyên nhân mà mỗi mùa Phật Đản những người con Phật chào mừng ngày đức Từ Phụ ra đời với tinh thần thương yêu, hòa ái. Cờ Phật Giáo có 5 màu, và khi xưa người ta làm cờ với quan điểm là 5 màu thể hiện cho 5 châu nhưng về sau địa cầu có tất cả 6 đại châu mà Phật Giáo đều đến và làm cho tất cả xứ sở an ổn, hòa bình.
21/03/2011(Xem: 8027)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ. Những gì ngài để lại cho cho chúng ta qua giáo pháp được truyền dạy khắp năm châu là vô giá...
19/02/2011(Xem: 17653)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
07/02/2011(Xem: 4311)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phú và thiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
04/02/2011(Xem: 1996)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
17/01/2011(Xem: 13980)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình an và hạnh phúc.
05/01/2011(Xem: 1672)
“Nếu bạn muốn thấy người cao quý nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin. Chính là Phật đó. Siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người.” Đức Phật là một con người có nhân cách đặc biệt siêu phàm, có một không hai trong lịch sử của nhân loại. Một nhà văn hào Âu châu nhận định rằng: “Không có nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng mà chúng ta có thể tìm thấy một vị giáo chủ chói sáng như thế ! Trong hàng loạt các vì sao, ngài là vì tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất. Một số các khoa học gia, triết gia, các nhà văn hóa đã tuyên bố về ngài “Con người vĩ đại nhất chưa từng có.” Ánh hào quang của vị Thầy vĩ đại nầy soi sáng cái thế giới đau khổ và tối tăm, giống như ngọn hải đăng hướng dẫn và soi sáng nhân loại.” (Phật Giáo dưới Mắt các Nhà Trí Thức)
02/01/2011(Xem: 1460)
Sau khi rời khỏi hoàng cung trong đêm tối cùng với người đánh xe Channa (Xa Nặc) và ngựa Kanthaka (Kiền Trắc), Thái Tử Siddahattha -- giờ đây là Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) -- đi suốt đến sáng, và vượt qua sông Anomà (Neranjara). Trên bãi cát dài theo bờ sông, Ngài tự cạo râu tóc, trao xiêm y cho Channa đem về, rồi khoác lên mình tấm y vàng, nguyện sống đời tu sĩ và sẵn sàng chấp nhận mọi thiếu thốn vật chất. Ngài không ở nơi nào thường trực. Một cây cao bóng mát, hoặc một hang đá hoang vu nào cũng có thể che mưa đỡ nắng cho Ngài. Chân không giày dép, đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và trong sương gió lạnh lùng.
21/10/2010(Xem: 4157)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộ là vô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
28/08/2010(Xem: 1740)
Rất hiếm các bản luận văn đề cập đến Đức Phật như là một nhà giáo dục lý tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến. Viết về đức Phật, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng giáo chủ, đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại; hoặc đề cập đến Ngài như là mộ nhà tư tưởng, một nhà tư tưởng cách mạng... Nhưng có rất hiếm các bản luận văn đề cập đến Ngài như là một nhà giáo dục lý tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567