Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 42: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (giải nghĩa)

19/07/201716:18(Xem: 5706)
Bài 42: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (giải nghĩa)

KINH

THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

TOÀN KHÔNG

(Tiếp theo)

 

9). NHƯ LAI TẠNG BẢN THỂ

     CHÂN NHƯ MẦU NHIỆM.

 

- Cái Diệu Tâm sáng tỏ này lìa Tức lìa Phi, cũng Tức cũng Phi Tức, tại sao chúng sanh tam giới của thế gian và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác của xuất thế gian muốn dùng cái tâm sở tri để suy lường Vô Thượng Bồ Đề của Như Lai; muốn dùng lời nói của thế gian để nhập Tri Kiến Phật, đâu có thể được!
- Ví như những cây đàn: cầm sắt, tỳ bà, dù có diệu âm, nếu chẳng có sự khéo léo của ngón tay, thì diệu âm chẳng thể phát ra. Cũng vậy, cái diệu tâm chân thật của ông và chúng sanh mỗi mỗi
sẵn đầy đủ. Nhưng nơi ta khi búng tay thì hải ấn phát ra ánh sáng, còn nơi các ông, vừa móng tâm thì trần lao đã khởi; ấy là do chẳng cầu vô thượng Bồ Đề, ham thích Thanh Văn, được ít cho là đủ.

GIẢI NGHĨA

(1)Tức: Tiêu diệt, thôi, nghỉ

(2) Phi: Điều lỗi, trái, không phải

(3) Hải ấn: Là ánh sáng lâu đài bỗng hiện trên mặt biển, ví dụ cho sức dụng vô biên của tự tánh tự hiện

      Mục 9 “Như Lai Tạng Bản Thể Chân Như” của Kinh Văn 8 “Các Đại Dung Nhau” này, Đức Phật giảng rằng: “- Cái Diệu Tâm sáng tỏ này lìa Tức lìa Phi, cũng Tức cũng Phi Tức, tại sao chúng sanh tam giới của thế gian và các hàng Thanh Văn, Duyên Giác của xuất thế gian muốn dùng cái tâm sở tri để suy lường Vô Thượng Bồ Đề của Như Lai; muốn dùng lời nói của thế gian để nhập Tri Kiến Phật, đâu có thể được!” Nghĩa là Diệu Tâm không dính mắc với sự tiêu diệt thôi nghỉ, cũng chẳng liên quan tới sự chấp trước phải trái đúng sai v.v...; nó là bản thể Chân Như của vạn pháp, mà Chân thì không gì phá hoại được, Như thì không thể thêm bớt. Diệu Tâm lià tất cả tướng thế gian, nhưng không phải là ở cảnh giới khác, không lià thế gian; Diệu Tâm là tất cả pháp, nhưng hầu hết mọi người đều không nhận biết rằng họ đang sinh hoạt trong Diệu Tâm. Diệu Tâm hiện hữu và biểu hiện trong vạn pháp, nhưng mọi người chỉ dùng cái biết về vạn pháp mà không hề biết đến bản thể Diệu Tâm mầu nhiệm.

     Đức Phật ví dụ: “- Ví như những cây đàn: cầm sắt, tỳ bà, dù có diệu âm, nếu chẳng có sự khéo léo của ngón tay, thì diệu âm chẳng thể phát ra. Cũng vậy, cái diệu tâm chân thật của ông và chúng sanh mỗi mỗi sẵn đầy đủ. Nhưng nơi ta khi búng tay thì hải ấn phát ra ánh sáng, còn nơi các ông, vừa móng tâm thì trần lao đã khởi; ấy là do chẳng cầu vô thượng Bồ Đề, ham thích Thanh Văn, được ít cho là đủ”. Nghĩa là con người ví như những cây đàn dù có diệu âm, nếu chẳng có sự khéo léo của bàn tay, thì diệu âm chẳng thể phát ra. Cũng vậy, cái tâm chân thật huyền diệu (diệu tâm) của chúng ta đã sẵn đầy đủ, nhưng khi Ngài búng tay thì ánh sáng lâu đài bỗng hiện trên mặt biển (hải ấn). Còn nơi chúng ta, vừa khởi tâm thì phiền não (trần lao) liền khởi, bởi vì chúng ta dùng cái biết so đo phân biệt suy lường, dùng cái thấy, cái nghe và lời nói thế gian thì chẳng thể nhập cái thấy biết như Phật (Tri kiến Phật) được vậy.

10). MÊ KHÔNG CÓ NGUYÊN

       NHÂN, HẾT MÊ LÀ BỒ ĐỀ

     Phú Lâu Na nói:
- Diệu tâm sáng tỏ của con và Như Lai đều viên mãn không hai. Nơi con, vì xưa kia mắc phải vọng tưởng từ vô thỉ, chịu luân hồi đã lâu, nay dù chứng được thánh quả, nhưng chưa đến chỗ rốt ráo. Nơi Thế Tôn thì tất cả vọng tưởng đều diệt, chỉ diệu tâm chơn thường hiện hành. Vậy xin hỏi Như Lai: Tất cả chúng sanh vì sao có vọng, tự che khuất diệu tâm, cam chịu chìm đắm?
     Phật bảo Phú Lâu Na:
- Ông dù trừ được lòng nghi, nhưng còn có mê hoặc chưa dứt sạch, nay ta đem những việc của thế gian hỏi ông. Ông há chẳng nghe trong thành Thất La Phiệt, có ông Diễn Nhã Đạt Đa, buỗi sáng lấy gương soi mặt, nhìn thấy mặt mày, bỗng ưa cái đầu trong gương, rồi tự trách đầu mình sao chẳng tự thấy mặt mũi, cho là yêu mị, khi không phát điên bỏ chạy. Ý ông thế nào? Người ấy vì sao khi không bỏ chạy?
     Phú Lâu Na đáp:
- Người ấy tâm điên, chứ chẳng do gì khác.
     Phật nói:
- Diệu tâm vốn tròn đầy sáng tỏ, đã gọi là vọng, làm sao có nhân? Nếu có cái nhân, sao còn gọi là vọng? Chỉ do các vọng tưởng xoay vần, tự làm nhân cho nhau, từ mê thêm mê, trải qua vô lượng kiếp, dù được Phật phát minh đại nghĩa, còn chẳng chịu quay về. Cái nhân mê như vậy, do mê tự có, biết cái mê vô nhân thì vọng chẳng chỗ dựa; sanh còn chẳng có, lấy gì để diệt?
- Người đắc đạo Bồ Đề, như người tỉnh giấc nói việc trong chiêm bao; tâm dù rõ ràng, làm sao lấy được những vật trong chiêm bao ra? Huống là vô nhân, vốn chẳng có gì! Như Diễn Nhã Đạt Đa, đâu có nhân duyên gì mà tự sợ đầu mình bỏ chạy. Nếu bỗng nhiên hết điên, cái đầu đâu phải từ ngoài mà được; dù chưa hết điên, đầu cũng chẳng mất. Phú Lâu Na, tánh vọng như thế, làm sao có nhân?
- Nếu ông chẳng duyên theo thế gian, nghiệp quả, chúng sanh, ba thứ phân biệt này xoay chuyển liên tục, ba duyên đã diệt thì ba nhân chẳng sanh, tánh điên của Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự dứt, dứt tức là Bồ Đề. Vậy diệu tâm sáng tỏ vốn khắp pháp giới, chẳng từ người khác mà được, chẳng nhờ nhọc nhằn tu chứng mà có.
- Ví như có người, nơi áo mình có hạt châu như ý mà chẳng tự biết, nghèo nàn rách rưới, ăn xin nơi phương xa. Người ấy dù nghèo, hạt châu chưa từng mất, bỗng được người trí chỉ ra hạt châu, liền thành giàu sang tùy theo ý muốn, mới ngộ bảo châu chẳng từ bên ngoài mà có.

GIẢI NGHĨA

     Mục 10 “Mê Vọng Không Có Nguyên Nhân, Hết Mê Là Bồ Đề” trong Kinh Văn 7 “Các Đại Dung Nhau” này, Tôn giả Phú Lâu Na thắc mắc rằng: “- Diệu tâm sáng tỏ của con và Như Lai đều viên mãn không hai. Nơi con, vì xưa kia mắc phải vọng tưởng từ vô thỉ, chịu luân hồi đã lâu, nay dù chứng được thánh quả, nhưng chưa đến chỗ rốt ráo. Nơi Thế Tôn thì tất cả vọng tưởng đều diệt, chỉ diệu tâm chân thường hiện hành. Vậy xin hỏi Như Lai: Tất cả chúng sanh vì sao có vọng, tự che khuất diệu tâm, cam chịu chìm đắm?” Nghĩa là Tôn giả Phú Lâu Na đã đắc A La Hán là đại diện cho hàng Thanh Văn đã chứng Thánh qủa thưa hỏi Phật về điều chưa hiểu là: “Tất cả chúng sanh vì sao có vọng, tự che khuất diệu tâm, cam chịu chìm đắm?

     Để trả lời, Đức Phật dẫn thí dụ để giảng rồi hỏi rằng: “- Ông dù trừ được lòng nghi, nhưng còn có mê hoặc chưa dứt sạch, nay ta đem những việc của thế gian hỏi ông. Ông há chẳng nghe trong thành Thất La Phiệt, có ông Diễn Nhã Đạt Đa, buỗi sáng lấy gương soi mặt, nhìn thấy mặt mày, bỗng ưa cái đầu trong gương, rồi tự trách đầu mình sao chẳng tự thấy mặt mũi, cho là yêu mị, khi không phát điên bỏ chạy. Ý ông thế nào? Người ấy vì sao khi không bỏ chạy?”

     Tôn giả Phú Lâu Na đáp: “Người ấy tâm điên chứ chẳng do gì khác”.

     Đức Phật giảng: “- Diệu tâm vốn tròn đầy sáng tỏ, đã gọi là vọng, làm sao có nhân? Nếu có cái nhân, sao còn gọi là vọng? Chỉ do các vọng tưởng xoay vần, tự làm nhân cho nhau, từ mê thêm mê, trải qua vô lượng kiếp, dù được Phật phát minh đại nghĩa, còn chẳng chịu quay về. Cái nhân mê như vậy, do mê tự có, biết cái mê vô nhân thì vọng chẳng chỗ dựa; sanh còn chẳng có, lấy gì để diệt?” Nghĩa là cái mê tự có, biết cái mê không nhân thì vọng chẳng có chỗ dựa, vọng chẳng chỗ dựa thì vọng chẳng sinh, vọng chẳng sinh nên chẳng cần diệt vọng.

     Ngài giảng tiếp: “- Người đắc đạo Bồ Đề, như người tỉnh giấc nói việc trong chiêm bao; tâm dù rõ ràng, làm sao lấy được những vật trong chiêm bao ra? Huống là vô nhân, vốn chẳng có gì! Như Diễn Nhã Đạt Đa, đâu có nhân duyên gì mà tự sợ đầu mình bỏ chạy. Nếu bỗng nhiên hết điên, cái đầu đâu phải từ ngoài mà được; dù chưa hết điên, đầu cũng chẳng mất. Phú Lâu Na, tánh vọng như thế, làm sao có nhân?” Nghĩa là người ngủ chiêm bao thấy mọi sự vật như thật, nhưng khi thức dậy thì chẳng có gì cả, người không ngủ cũng vậy chẳng thể chỉ sự việc của vọng tưởng, nói chi đến những vọng tưởng vô nhân.

     Đức Phật dạy: “- Nếu ông chẳng duyên theo thế gian, nghiệp quả, chúng sanh, ba thứ phân biệt này xoay chuyển liên tục, ba duyên đã diệt thì ba nhân chẳng sanh, tánh điên của Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự dứt, dứt tức là Bồ Đề. Vậy diệu tâm sáng tỏ vốn khắp pháp giới, chẳng từ người khác mà được, chẳng nhờ nhọc nhằn tu chứng mà có”. Nghĩa là nếu ai chẳng bị dính mắc vào ba thứ thế gian tương tục, nghiệp qủa tương tục và chúng sinh tương tục (như đã nêu ra trong Mục 4 ở trên), không làm cho bị luân chuyển, thì những cái gọi là điên đảo phải dứt. Chỉ cần làm như vậy được nhu nhuyễn thì tự giác ngộ (Bồ Đề hiển hiện), không cần nhờ ai, chẳng cần tụng kinh gõ mõ, cũng chẳng cần nhọc nhằn tu chứng.

     Ngài dạy tiếp: “- Ví như có người, nơi áo mình có hạt châu như ý mà chẳng tự biết, nghèo nàn rách rưới, ăn xin nơi phương xa. Người ấy dù nghèo, hạt châu chưa từng mất, bỗng được người trí chỉ ra hạt châu, liền thành giàu sang tùy theo ý muốn, mới ngộ bảo châu chẳng từ bên ngoài mà có”. Diệu Tâm là sinh khí của vạn pháp nhưng chúng ta xem thường nó, cũng như chúng ta đã từng coi rẻ không khí hơi thở của buồng phổi; nhưng chúng ta lại rất quý tiền bạc và của cải… như thế là chúng ta chỉ quí những cành lá rơi rụng cùng khắp mà xem thường quên mất cái gốc chân thật Diệu Tâm của chính mình.

     Diệu Tâm là Như Lai Tạng, là bản thể chân như của vạn pháp, Chân thì không gì phá hoại được, Như thì không thể xây dựng thêm gì được. Diệu Tâm lià tất cả tướng thế gian nhưng không phải ở cảnh giới khác, Diệu Tâm là tất cả pháp, nhưng ít ai nhận biết được sự đang sinh hoạt trong Diệu Tâm; vì Diệu Tâm hiện hữu trong vạn pháp, nhưng chúng ta chỉ biết có vạn pháp mà không hề nghĩ đến bản thể Diệu Tâm mầu nhiệm.

11). NGHI NHÂN DUYÊN VÀ TỰ NHIÊN

 (Còn tiếp)


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com