Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 30: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

29/04/201710:01(Xem: 5234)
Bài 30: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

TOÀN KHÔNG

(Tiếp theo)

 

KINH VĂN 7:

NHƯ LAI TẠNG VÀ CHÂN NHƯ

 

4). MƯỜI TÁM GIỚI VÔ SINH

- Lại nữa A Nan! Sao nói Mười Tám Giới vốn là Như Lai Tạng, cũng là diệu Tánh Chân Như?

1 - NHÃN CĂN, SẮC TRẦN, NHÃN

    THỨC GIỚI VỐN VÔ SINH

- A Nan! Như ông đã rõ, nhãn căn và sắc trần làm duyên với nhau, sanh ra nhãn thức. Vậy thức này là từ nhãn căn ra, lấy nhãn căn làm giới; hay từ sắc trần ra, lấy sắc trần làm giới?
- A Nan, nếu từ nhãn căn ra mà chẳng có Sắc Không thì chẳng thể phân biệt, dẫu cho có cái thức của ông cũng chẳng dùng được. Sự thấy của ông chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, chẳng thể nêu ra, vậy từ đâu để lập giới?
- Nếu từ sắc trần ra, hư không chẳng phải sắc trần thì thức ông phải diệt, sao được biết tánh hư không? Nếu lúc sắc trần biến đổi, thức ông cũng biết sắc trần biến đổi, mà thức ông chẳng biến, vậy giới từ đâu mà an lập? Theo sự biến đổi là biến đổi, giới tướng vốn chẳng có; chẳng biến đổi thì thường còn, thức đã từ sắc trần ra, lẽ ra chẳng biết được chỗ hư không?
- Nếu do căn trần cộng sanh cái giới ở giữa, khi căn trần hợp lại thì chẳng thể lập giới, tức là lìa trung; khi lìa căn thì phải hợp trần, lìa trần thì phải hợp căn, vậy thể tánh lẫn lộn, làm sao thành giới?
- Nên biết, nhãn căn và sắc trần làm duyên với nhau, sanh nhãn thức giới, ba chỗ đều không tức nhãn căn, sắc trần và nhãn thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

 

GIẢI NGHĨA

     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà rằng: “Như ông đã rõ, nhãn căn và sắc trần làm duyên với nhau, sanh ra nhãn thức. Vậy thức này là từ nhãn căn ra, lấy nhãn căn làm giới; hay từ sắc trần ra, lấy sắc trần làm giới?”
Ngài hỏi: Thức thấy (Nhãn thức) do mắt (nhãn căn) sinh hay do hình tướng (sắc trần) sinh?

 

     Ngài giảng: “Nếu từ nhãn căn ra mà chẳng có Sắc Không thì chẳng thể phân biệt, dẫu cho có cái thức của ông cũng chẳng dùng được. Sự thấy của ông chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, chẳng thể nêu ra, vậy từ đâu để lập giới?” Nghĩa là thức thấy (nhãn thức) không phải do mắt (nhãn căn) sinh ra vì có mắt mà không có hình tướng hư không (sắc không) thì thức thấy chẳng thể thấy để phân biệt.

Ngài giảng tiếp: “- Nếu từ sắc trần ra, hư không chẳng phải sắc trần thì thức ông phải diệt, sao được biết tánh hư không? Nếu lúc sắc trần biến đổi, thức ông cũng biết sắc trần biến đổi, mà thức ông chẳng biến, vậy giới từ đâu mà an lập? Theo sự biến đổi là biến đổi, giới tướng vốn chẳng có; chẳng biến đổi thì thường còn, thức đã từ sắc trần ra, lẽ ra chẳng biết được chỗ hư không?” Nghĩa là thức thấy (nhãn thức) không phải do hình tướng (sắc trần) sinh ra, vì nếu thức thấy do hình tướng sinh ra thì chẳng thể nhận biết được hư không.

Lại nữa: “- Nếu do căn trần cộng sanh cái giới ở giữa, khi căn trần hợp lại thì chẳng thể lập giới, tức là lìa trung; khi lìa căn thì phải hợp trần, lìa trần thì phải hợp căn, vậy thể tánh lẫn lộn, làm sao thành giới?”     Nghĩa là thức thấy (nhãn thức) cũng không phải do mắt (nhãn căn) hợp chung với hình tướng (sắc trần) sinh ra cái giới hạn ở giữa hai bên gọi là thức thấy, vì thể tính lẫn lộn không thể thành giới hạn được.

 

     Xem như vậy thì thức thấy (nhãn thức) chẳng phải từ mắt sinh, chẳng phải từ hình tướng sinh, cũng chẳng phải do mắt hợp chung với hình tướng sinh ra. Những thứ này làm duyên với nhau chẳng sinh ra cái giới hạn ở giữa để có thể gọi là thức thấy, mà nó chỉ là huyển ảo không thật; do đó Ngài nói: “- Nên biết, nhãn căn và sắc trần làm duyên với nhau, sanh nhãn thức giới, ba chỗ đều không, tức nhãn căn, sắc trần và nhãn thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên” là vậy.

 

     Tóm lại, dùng Mười Tám Giới (Thập Bát Giới) này để phá sáu thức, nên nói thức thấy (nhãn thức) này chẳng từ mắt (nhãn căn) ra để làm giới hạn, vì thức chủ trì phân biệt, nếu chẳng có hình tướng và hư không (Sắc, Không), thì chẳng thể phân biệt. Cũng chẳng từ hình tướng (Sắc trần) ra để làm giới hạn, vì hình tướng có biến diệt, thức chẳng biến đổi; nếu chỉ từ hình tướng ra thì chẳng thể phân biệt hư không (Không). Cũng chẳng từ mắt và hình tướng cộng sinh làm giới, vì mắt thì có biết, trần cảnh thì vô tri, tri và vô tri hai cái đối nghịch, làm sao mà hợp? Nếu hợp thì từ đâu mà lập giới hạn ở giữa? Giới chính giữa đã chẳng có, nên nói “lìa trung”. Nếu nói lìa căn trần mà sinh thức, thì lìa căn phải hợp với trần, lìa trần phải hợp với căn, vậy thức thuộc bên nào? Nên nói “thể tánh lẫn lộn, ba chỗ đều sai, giới hạn chẳng thể an lập” là vậy.

2 - NHĨ CĂN, THINH TRẦN, NHĨ

     THỨC GIỚI VỐN VÔ SINH

- A Nan! Như ông đã rõ, nhĩ căn, thanh trần làm duyên với nhau, sanh ra nhĩ thức. Vậy thức này từ nhĩ căn ra, lấy nhĩ căn làm giới; hay từ thanh trần ra, lấy thanh trần làm giới?
- A Nan! Nếu từ nhĩ căn ra, mà chẳng có hai tướng động tịnh thì chẳng thành cái biết của nhĩ căn, tức chẳng có biết, biết còn chẳng có, vậy cái thức là hình tướng gì?
- Nếu do lỗ tai nghe thì lúc chẳng có động tịnh, cái nghe chẳng thành, chỉ có hình tướng của lỗ tai, cũng như sắc trần tiếp xúc với thanh trần, cả hai đều chẳng có thức để phân biệt thì nhĩ thức giới từ đâu mà lập?
- Nếu từ thanh trần ra, nhĩ thức do thanh trần mà có, thì chẳng liên quan gì đến cái nghe, chẳng nghe thì cũng chẳng biết tướng thanh trần ở đâu. Lại, nếu nhĩ thức từ thanh trần ra dầu cho thanh trần do cái nghe mà có tướng, thì cái nghe phải nghe được nhĩ thức, nếu chẳng nghe được thì chẳng phải là giới, nếu nghe được thì thức cũng đồng như thanh trần, và thức đã là sở nghe thì ai biết nghe cái thức? Còn nếu chẳng biết thì đồng như cỏ cây. Chẳng lẽ thanh trần và cái nghe lẫn lộn, thành giới ở giữa? Giới chính giữa đã chẳng có, tướng trong và ngoài từ đâu mà lập?
- Nên biết, nhĩ căn, thanh trần làm duyên với nhau, sanh nhĩ thức giới, ba chỗ đều không, tức nhĩ căn, thanh trần và nhĩ thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

GIẢI NGHĨA

     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà rằng: “Như ông đã rõ, nhĩ căn, thanh trần làm duyên với nhau, sanh ra nhĩ thức. Vậy thức này từ nhĩ căn ra, lấy nhĩ căn làm giới; hay từ thanh trần ra, lấy thanh trần làm giới?” Ngài hỏi: Thức nghe (Nhĩ thức) do lỗ tai (nhĩ căn) hay do tiếng (thanh trần) sinh ra?

 

     Đức Phật giảng: “- Nếu từ nhĩ căn ra, mà chẳng có hai tướng động tịnh thì chẳng thành cái biết của nhĩ căn, tức chẳng có biết, biết còn chẳng có, vậy cái thức là hình tướng gì? - Nếu do lỗ tai nghe thì lúc chẳng có động tịnh, cái nghe chẳng thành, chỉ có hình tướng của lỗ tai, cũng như sắc trần tiếp xúc với thanh trần, cả hai đều chẳng có thức để phân biệt thì nhĩ thức giới từ đâu mà lập?” Nghĩa là thức nghe (nhĩ thức) không phải do lỗ tai nghe (nhĩ căn) mà biết, vì nếu không có tiếng động thì không thể có cái biết của lỗ tai.

 

     Ngài giảng tiếp: “- Nếu từ thanh trần ra, nhĩ thức do thanh trần mà có, thì chẳng liên quan gì đến cái nghe, chẳng nghe thì cũng chẳng biết tướng thanh trần ở đâu. Lại, nếu nhĩ thức từ thanh trần ra dầu cho thanh trần do cái nghe mà có tướng, thì cái nghe phải nghe được nhĩ thức, nếu chẳng nghe được thì chẳng phải là giới, nếu nghe được thì thức cũng đồng như thanh trần, và thức đã là sở nghe thì ai biết nghe cái thức? Còn nếu chẳng biết thì đồng như cỏ cây. Chẳng lẽ thanh trần và cái nghe lẫn lộn, thành giới ở giữa? Giới chính giữa đã chẳng có, tướng trong và ngoài từ đâu mà lập?Nghĩa là thức nghe (nhĩ thức) không phải do tiếng động (thanh trần) mà có.

 

     Xem như vậy, thì thức nghe (nhĩ thức) chẳng phải do lỗ tai (nhĩ căn) ra, cũng chẳng phải do tiếng động (thanh trần) mà có. Hai thứ này làm duyên với nhau sinh ra nhĩ thức chỉ là huyển ảo không thật, do đó Ngài nói: “- Nên biết, nhĩ căn, thanh trần làm duyên với nhau, sanh nhĩ thức giới, ba chỗ đều không, tức nhĩ căn, thanh trần và nhĩ thức giới, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên” là vậy.

 

3 - TỴ CĂN, HƯƠNG TRẦN, TỴ

     THỨC GIỚI VỐN VÔ SINH

(Còn tiếp)


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com