Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 20. Kinh Thủ Lăng Nghiêm

16/02/201721:18(Xem: 4301)
Bài 20. Kinh Thủ Lăng Nghiêm

KINH

THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

TOÀN KHÔNG

(Tiếp theo)

 

3. PHÁ BỐN TƯỚNG HÒA HỢP

      A Nan hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Nếu bản kiến diệu minh phi nhân phi duyên, tại sao Thế Tôn thường nói với các Tỳ Kheo rằng: Tánh thấy gồm đủ bốn thứ nhân duyên, tức là nhân không, nhân sáng, nhân tâm, nhân mắt, vậy nghĩa này thế nào?

     Phật nói:
- Ta thuyết những tướng nhân duyên của thế gian chẳng phải đệ nhất nghĩa (1). A Nan, ta lại hỏi ông: thế gian nói "tôi thấy", vậy cho thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là chẳng thấy?

     A Nan đáp:
- Người thế gian nhờ ánh sáng nhật nguyệt và đèn, thấy tất cả tướng gọi là thấy, nếu không có ba thứ ánh sáng này thì chẳng thể thấy.

    Phật nói:
- A Nan, nếu lúc không sáng gọi là chẳng thấy, thì chẳng thể thấy tối, nếu thấy tối chỉ là không sáng thì sao gọi là chẳng thấy?
- A Nan, nếu lúc tối chẳng thấy sáng gọi là chẳng thấy; mà lúc sáng chẳng thấy tối cũng phải gọi là chẳng thấy, vậy thì hai tướng sáng tối đều gọi là chẳng thấy.
- Do hai tướng sáng tối tự đoạt mất nhau, chẳng phải tánh thấy của ông tạm thời không có. Vậy thì cả hai đều là thấy, sao nói chẳng thấy?
- A Nan nên biết, trong lúc thấy sáng, kiến tinh chẳng phải sáng; trong lúc thấy tối, kiến tinh chẳng phải tối; trong lúc thấy rỗng không kiến tinh chẳng phải rỗng không; trong lúc thấy ngăn bít, kiến tinh chẳng phải ngăn bít, bốn thứ nghĩa này vốn sai như vậy.
- Lại ông nên biết: Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến do ly kiến, kiến bất năng cập, tại sao lại nói nhân duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp? Hàng Thanh Văn (2) như các ông trí kém tâm hẹp, chẳng thông đạt thật tướng (3) trong sạch, nay ta dạy ông nên khéo suy tư, hãy siêng năng tinh tấn, thẳng vào diệu đạo Bồ Đề (4).

GIẢI NGHĨA (PHÁ BỐN TƯỚNG HÒA HỢP)

(1) Đệ nhất nghĩa:Chân đế, Thánh đế, Niết bàn, Chân như, Thực tướng, Pháp giới, là chân lí tuyệt đối cao nhất.

(2) Hàng Thanh Văn: Là hàng Tỳ Kheo (Tăng) tu theo Nam truyền.

(3) Thật tướng: Là hình ảnh diện mạo chân thật đúng như nó là.

(4) Diệu đạo Bồ Đề: Là con đường giải thoát tốt đẹp.

 

     Tôn giả A Nan Đà thưa hỏi: “Nếu bản kiến diệu minh phi nhân phi duyên, tại sao Thế Tôn thường nói với các Tỳ Kheo rằng: Tánh thấy gồm đủ bốn thứ nhân duyên, tức là nhân không, nhân sáng, nhân tâm, nhân mắt, vậy nghĩa này thế nào?”Đến đây, Tôn giả A Nan lại thắc mắc:Nếu gốc thấy (bản kiến) diệu minh chẳng phải nhân duyên (phi nhân phi duyên), tại sao Thế Tôn thường nói với các Tỳ Kheo về Tính thấy gồm bốn thứ nhân duyên là “khoảng trống không, ánh sáng, tâm thức và mắt” là thế nào?

     Đức Phật đáp: “- Ta thuyết những tướng nhân duyên của thế gian chẳng phải đệ nhất nghĩa. A Nan, ta lại hỏi ông: người thế gian nói "tôi thấy", vậy cho thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là chẳng thấy?” Ở đây Đức Phật cho biết khi Ngài thuyết những tướng nhân duyên là của thế gian, thuyết cho người thế gian mà thôi, chẳng phải thuyết về chân lí tuyệt đối cao nhất (đệ nhất nghĩa). Rồi Ngài lại hỏi về người thế gian nói "tôi thấy", vậy thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là chẳng thấy?

     Tôn giả đáp: “- Người thế gian nhờ ánh sáng nhật nguyệt và đèn, thấy tất cả tướng gọi là thấy, nếu không có ba thứ ánh sáng này thì chẳng thể thấy”. Nghĩa là người thế gian nhờ ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn để thấy tất cả vật gọi là thấy, nếu không có ba thứ ấy thì chẳng thể thấy.

     Đức Phật lại hỏi: “Nếu lúc không sáng gọi là chẳng thấy, thì chẳng thể thấy tối, nếu thấy tối chỉ là không sáng thì sao gọi là chẳng thấy?”Ở đâyNgài chỉ ra cách đặt tên sai của người thế gian về chữ “chẳng thấy, rồi Ngài giải thích cho rõ nghĩa của thấy và chẳng thấy: “- Do hai tướng sáng tối tự đoạt mất nhau, chẳng phải tánh thấy của ông tạm thời không có. Vậy thì cả hai đều là thấy, sao nói chẳng thấy?” Vì do hai tướng sáng tối đối đãi nhau (tự đoạt mất nhau) như đẹp xấu, yêu ghét v.v…, khi có tối thì không có sáng, khi có sáng thì không có tối, chẳng phải tánh thấy tạm thời không có; vậy thì cả hai sáng và tối đều là thấy, nên nói “chẳng thấy” là không đúng.

     Ngài lưu ý rằng: “Nên biết, trong lúc thấy sáng, kiến tinh chẳng phải sáng; trong lúc thấy tối, kiến tinh chẳng phải tối; trong lúc thấy rỗng không kiến tinh chẳng phải rỗng không; trong lúc thấy ngăn bít, kiến tinh chẳng phải ngăn bít, bốn thứ nghĩa này vốn sai như vậy”. Ngài giải nghĩa lúc thấy sáng, Tính thấy chẳng phải sáng, khi thấy tối Tính thấy chẳng phải tối, khi thấy thông hay bít, Tính thấy chẳng phải thông hay bít. Nghĩa là Tính thấy không chạy theo “sáng, tối, thông, bít”, Tính thấy chẳng thay đổi, chẳng sinh diệt theo trần cảnh. Vì vậy cho nên dính mắc chấp chặt vào những thứ đối đãi nhau như sáng tối, thông bít, đẹp xấu, yêu ghét, phải trái v.v… đều lànhận giặc làm con”, đều “làm lạc chân tâm” vậy.

     Đức Phật nói:

“Kiến kiến chi thời,

kiến phi thị kiến,

kiến do ly kiến,

kiến bất năng cập”.

 

Nghĩa là: Hai chữ Thấy Thấy (Kiến Kiến) tức là gốc thấy (bản kiến) tự hiện, chẳng có sức thấy và chỗ thấy (năng kiến, sở kiến), Phật đã giải thích kỹ càng trong quyển hai này; nếu có năng sở, đều là thấy bệnh đã thành từ vô thủy, có sức thấy sức biết (năng kiến năng giác) đều là bệnh. Gốc thấy gốc biết (bản kiến bản giác) chẳng ở trong bệnh mới gọi là thấy thấy (kiến kiến), tức là thấy (kiến) tánh; Tự tính (Chân như) chẳng phải chỗ thấy (sở kiến), do đó cũng chẳng có sức thấy (năng kiến) để thấy Chân như (kiến tự tánh). Vì vậy cho nên lúc thấy thấy (Kiến kiến chi thời), dù nói thấy nhưng chẳng phải là thấy (Kiến phi thị kiến), vì chẳng có sức thấy (năng kiến) và chỗ thấy (sở kiến), cho nên nói thấy do còn phải lìa thấy (kiến do ly kiến), vì sức thấy (năng kiến) chẳng thể thấy tới (Kiến bất năng cập).

     Ngài nói tiếp:“Tại sao lại nói nhân duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp? Hàng Thanh Văn như các ông trí kém tâm hẹp, chẳng thông đạt thật tướng trong sạch, nay ta dạy ông nên khéo suy tư, hãy siêng năng tinh tấn, thẳng vào diệu đạo Bồ Đề”. Xem như giải nghĩa ở trên thì nói Tính thấy là do nhân duyên, hay tự nhiên, hay hòa hợp hay trăm nghìn thứ lý lẽ cũng chỉ ở ngoài lề, chẳng dính dáng gì với Chân tâm cả. Do đó không chỉ hàng Thanh Văn Duyên Giác, mà tất cả những người học Phật phải siêng năng tinh tấn tu, chẳng còn chấp pháp tướng (thông đạt thật tướng), được tâm trong sạch, thì sẽ giác ngộ (vào diệu đạo Bồ Đề) vậy.

4. VỌNG KIẾN VỀ NGHIỆP.
(Còn tiếp)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567