Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 36: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

10/06/201708:30(Xem: 4099)
Bài 36: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

TOÀN KHÔNG

(Tiếp theo)

 

6 - TÁNH KIẾN ĐẠI VỐN VÔ SINH

- A Nan! Bổn kiến, Bổn giác vốn chẳng có năng tri sở tri, vì Sắc và Không mới có lập năng sở. Như ngươi hôm nay ở vườn Kỳ Đà, ngày sáng đêm tối, nếu nửa đêm có trăng thì sáng, không trăng thì tối, do kiến tinh phân biệt nên có sáng và tối. Vậy kiến này với tướng sáng, tối và hư không, là một thể hay chẳng phải một thể? Hoặc đồng, chẳng đồng? Hoặc khác, chẳng khác?
- A Nan! Nếu cái kiến này cùng với sáng, tối, hư không vốn là một thể, thì sáng và tối hai tướng nghịch nhau, khi sáng chẳng tối, khi tối chẳng sáng. Nếu cùng với tối đồng một thể thì khi sáng, cái kiến biến mất, hễ cùng với sáng đồng một thể, thì khi tối, cái kiến ấy phải diệt, đã diệt thì lấy gì để thấy sáng thấy tối? Nếu sáng tối khác nhau, kiến chẳng sanh diệt thì đâu có thể nói là một thể được?
- Nếu cái kiến này cùng với sáng tối chẳng phải một thể, thì ông lìa sáng, tối và hư không, phân tách cái kiến tinh xem là hình tướng gì? Lìa sáng, tối và hư không thì kiến tinh đồng như lông rùa sừng thỏ. Sáng, tối, hư không ba thứ đều khác biệt, vậy từ đâu mà lập kiến tinh? Sáng, tối nghịch nhau, làm sao nói đồng được? Lìa ba thứ vốn chẳng có, làm sao nói khác được? Hư không và kiến tinh vốn chẳng có ranh giới, làm sao nói chẳng đồng? Thấy sáng thấy tối, sở kiến thay đổi, làm sao nói chẳng khác?
- Ông cần phải xem xét vi tế kỹ càng, xét tới cứu cánh triệt để. Sáng do mặt trời, tối do đêm không trăng, thông thuộc về hư không, nghẽn thuộc về đại địa, kiến tinh có giác, hư không vô tri, chẳng hòa chẳng hợp, vậy kiến tinh từ đâu mà ra? Chẳng lẽ khi không tự ra?
- Nên biết Kiến, Văn, Giác, Tri, thể tánh viên mãn cùng khắp mọi nơi, vốn chẳng lay động, với hư không vô biên chẳng động, và địa, thủy, hỏa, phong, lay động, cùng gọi là Lục Đại, thể tánh viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt.
- A Nan! Ông đánh mất tự tánh, chẳng ngộ kiến, văn, giác, tri của ông vốn là Như Lai Tạng. Ông hãy xem cái kiến, văn, giác, tri này là sanh hay diệt, là đồng hay dị, là chẳng sanh diệt hay chẳng đồng dị? Ông còn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh kiến giác minh, giác tinh minh kiến, vốn tự nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy mà biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Như một "kiến tinh" thấy cùng pháp giới, cho đến tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý biết, sự diệu dụng rõ ràng viên mãn, cùng khắp mười phương pháp giới, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh biến hiện. Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật.

GIẢI NGHĨA

     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà rằng: “Bản kiến, Bản giác vốn chẳng có năng tri sở tri, vì Sắc và Không mới có lập năng sở. Như ngươi hôm nay ở vườn Kỳ Đà, ngày sáng đêm tối, nếu nửa đêm có trăng thì sáng, không trăng thì tối, do kiến tinh phân biệt nên có sáng và tối. Vậy kiến này với tướng sáng, tối và hư không, là một thể hay chẳng phải một thể? Hoặc đồng, chẳng đồng? Hoặc khác, chẳng khác?” Nghĩa là Gốc thấy (Bản kiến), Gốc biết (Bản giác) vốn chẳng có sức biết và chỗ biết (năng tri, sở tri), vì do Vật chất (Sắc) và Không mới có lập ra sức biết và chỗ biết (năng sở). Như ngày sáng đêm tối, đêm nếu có trăng thì sáng, không trăng thì tối, do cái thấy (kiến tinh) phân biệt nên có sáng và tối. Vậy thấy (kiến) này với tướng “sáng, tối và hư không”, là một thể hay chẳng phải một thể, là giống hoặc là khác?

     Đức Phật giảng và nêu câu hỏi: “Nếu cái kiến này cùng với sáng, tối, hư không vốn là một thể, thì sáng và tối hai tướng nghịch nhau, khi sáng chẳng tối, khi tối chẳng sáng. Nếu cùng với tối đồng một thể thì khi sáng, cái kiến biến mất, hễ cùng với sáng đồng một thể, thì khi tối, cái kiến ấy phải diệt, đã diệt thì lấy gì để thấy sáng thấy tối? Nếu sáng tối khác nhau, kiến chẳng sanh diệt thì đâu có thể nói là một thể được?” Nghĩa là cái thấy (kiến tinh) không là một thể với sáng, tối và hư không.

     Đức Phật giảng tiếp: “- Nếu cái kiến này cùng với sáng tối chẳng phải một thể, thì ông lìa sáng, tối và hư không, phân tách cái kiến tinh xem là hình tướng gì? Lìa sáng, tối và hư không thì kiến tinh đồng như lông rùa sừng thỏ. Sáng, tối, hư không ba thứ đều khác biệt, vậy từ đâu mà lập kiến tinh? Sáng, tối nghịch nhau, làm sao nói đồng được? Lìa ba thứ vốn chẳng có, làm sao nói khác được? Hư không và kiến tinh vốn chẳng có ranh giới, làm sao nói chẳng đồng? Thấy sáng thấy tối, sở kiến thay đổi, làm sao nói chẳng khác? Nghĩa là nếu lìa “sáng, tối và hư không” thì cái thấy (kiến tinh) đồng như lông rùa sừng thỏ, tức là không thể có cái thấy. Do đó sáng, tối, hư không và cái thấy vốn chẳng có ranh giới, nên chẳng thể nói chúng chẳng phải một thể. 

     Ngài lưu ý: “- Ông cần phải xem xét vi tế kỹ càng, xét tới cứu cánh triệt để. Sáng do mặt trời, tối do đêm không trăng, thông thuộc về hư không, nghẽn thuộc về đại địa, kiến tinh có giác, hư không vô tri, chẳng hòa chẳng hợp, vậy kiến tinh từ đâu mà ra? Chẳng lẽ khi không tự ra? Nghĩa là xem xét kỹ càng thì thấy: Sáng do mặt trời, tối do đêm không trăng, thông thuộc về hư không, nghẽn thuộc về đại địa, cái thấy (kiến tinh) có biết (giác), hư không chẳng biết (vô tri), chẳng hòa chẳng hợp, vậy cái thấy từ đâu mà ra?

     Đức Phật dạy: “- Nên biết Kiến, Văn, Giác, Tri, thể tánh viên mãn cùng khắp mọi nơi, vốn chẳng lay động, với hư không vô biên chẳng động, và địa, thủy, hỏa, phong, lay động, cùng gọi là Lục Đại, thể tánh viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn chẳng sanh diệt”. Nghĩa là: Thấy, Nghe, Tỉnh, Biết (Kiến, Văn, Giác, Tri), thể tính viên mãn cùng khắp mọi nơi, vốn chẳng lay động, cái thấy với hư không vô biên chẳng động, và đất, nước, lửa, gió (địa, thủy, hỏa, phong) di động, được gọi là Sáu Đại, thể tính viên dung, đều là Tự tính (Như Lai Tạng), vốn chẳng sinh diệt.

     Ngài dạy tiếp: “Ông đánh mất tự tánh, chẳng ngộ kiến, văn, giác, tri của ông vốn là Như Lai Tạng. Ông hãy xem cái kiến, văn, giác, tri này là sanh hay diệt, là đồng hay dị, là chẳng sanh diệt hay chẳng đồng dị? Ông còn chẳng biết, trong Như Lai Tạng, tánh kiến giác minh, giác tinh minh kiến, vốn tự nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sanh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy mà biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Như một "kiến tinh" thấy cùng pháp giới, cho đến tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý biết, sự diệu dụng rõ ràng viên mãn, cùng khắp mười phương pháp giới, đâu có xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sanh biến hiện”.

     Nghĩa là vì đánh mất tự tính, chẳng hiểu (ngộ) thấy, nghe, tỉnh, biết (kiến, văn, giác, tri) vốn là Tự tính (Như Lai Tạng); cái thấy, nghe, tỉnh, biết này không sinh chẳng diệt, không giống chẳng khác. Do trong tự tính: Cái thấy gốc biết là sáng suốt (tánh kiến giác minh), tức là gốc thấy (bản kiến) là tự tính vốn biết vốn sáng suốt. Tính thể của gốc biết vốn trong sáng vốn thấy rõ ràng (giác tinh minh kiến), vốn tự nhiên thanh tịnh, cùng khắp không gian (pháp giới). Tùy theo mức độ hiểu biết của tâm chúng sinh tạo thành nghiệp, và nương theo nghiệp ấy mà biến hiện các cảnh giới hiện hữu. Như một "cái thấy” (kiến tinh) thấy cùng pháp giới, cho đến tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý biết, sự diệu dụng rõ ràng viên mãn, cùng khắp mười phương pháp giới, không có phân biệt xứ sở, chỉ theo nghiệp thức của chúng sinh biến hiện.

     Đức Phật lưu ý: “Người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tánh nhân duyên và tự nhiên, ấy đều do tâm thức phân biệt suy lường. Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật”. Nghĩa là người thế gian chẳng biết, lại mê lầm cho là tính nhân duyên và tự nhiên, tất cả đều do tâm thức phân biệt suy lường mà ra; do đó Ngài nói: “Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật” là vậy.

7 - TÁNH THỨC ĐẠI VỐN VÔ SINH:

(Còn tiếp)


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567