Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 19. Kinh Thủ Lăng Nghiêm

08/02/201722:05(Xem: 4289)
Bài 19. Kinh Thủ Lăng Nghiêm

KINH

THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

TOÀN KHÔNG

(Tiếp theo)

 

4). PHÁ NHỮNG SAI LẦM

     ĐỂ RÕ TÁNH THẤY

1. PHÁ NGHI LÀ TỰ NHIÊN
     A Nan bạch Phật rằng:
- Đúng như Pháp Vương nói, Bản Giác khắp mười phương thế giới, trạm nhiên thường trụ (1), tánh chẳng sanh diệt. Vậy với cái chấp Minh Đế (2) của bọn Sa Tỳ Ca La và những ngoại đạo nói có Chân Ngã cùng khắp mười phương có gì sai biệt? Thế Tôn đã từng ở núi Lăng Già giảng dạy nghĩa này cho Đại Huệ rằng: "Bọn ngoại đạo thường nói tự nhiên, ta thuyết nhân duyên, chẳng phải cảnh giới của họ". Nay con xét thấy cái giác tánh tự nhiên này phi sanh phi diệt, xa lìa tất cả hư vọng điên đảo, hình như chẳng phải nhân duyên, vậy so với cái thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo như thế nào? Xin Phật khai thị để cho chúng con khỏi lọt vào bọn tà, được giác tánh chân thật sáng tỏ của diệu tâm.
     Phật bảo A Nan:
- Nay ta dùng phương tiện chân thật như vậy khai thị cho ông, ông còn chưa ngộ, lại lầm cho là tự nhiên. A Nan, nếu chắc là tự nhiên thì tự phải xét rõ cái thể của tự nhiên, ông hãy quán xét trong bản kiến diệu minh này, lấy gì làm tự thể? Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối làm tự thể? Lấy rỗng không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự thể? Nếu sáng là tự thể thì chẳng thể thấy tối, nếu rỗng không là tự thể thì chẳng thể thấy ngăn bít, như vậy cho đến nếu lấy tướng tối làm tự thể, thì khi sáng, tánh thấy đã đoạn diệt, sao lại thấy sáng?

GIẢI NGHĨA (PHÁ TỰ NHIÊN)

(1) Trạm nhiên thường trụ: Trong lặng khắp không gian và thời gian.

(2) Minh Đế:Số Luận sư của ngoại đạo lập 25 đế, đế thứ 1 là Minh Đế, Minh Đế là ban sơ của các pháp, gọi là Minh Sơ.

Tôn giảA Nan bạch Phật rằng: “- Đúng như Pháp Vương nói, Bản Giác khắp mười phương thế giới, trạm nhiên thường trụ, tánh chẳng sanh diệt. Vậy với cái chấp Minh Đế của bọn Sa Tỳ Ca La và những ngoại đạo nói có Chân Ngã cùng khắp mười phương có gì sai biệt? Thế Tôn đã từng ở núi Lăng Già giảng dạy nghĩa này cho Đại Huệ rằng: "Bọn ngoại đạo thường nói tự nhiên, ta thuyết nhân duyên, chẳng phải cảnh giới của họ". Nay con xét thấy cái giác tánh tự nhiên này phi sanh phi diệt, xa lìa tất cả hư vọng điên đảo, hình như chẳng phải nhân duyên, vậy so với cái thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo như thế nào? Xin Phật khai thị để cho chúng con khỏi lọt vào bọn tà, được giác tánh chân thật sáng tỏ của diệu tâm”.
     Nghĩa là Tôn giả A Nan Đà cho rằng cái tính biết (giác tánh) là tự nhiên, chẳng sinh chẳng diệt (phi sanh phi diệt), chẳng phải nhân duyên, xa lìa tất cả hư vọng điên đảo; vậy so với cái thuyết tự nhiên của ngoại đạo khác biệt thế nào? Làm sao được tính biết (giác tánh) chân thật sáng tỏ của diệu tâm?

     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà: “- Nay ta dùng phương tiện chân thật như vậy khai thị cho ông, ông còn chưa ngộ, lại lầm cho là tự nhiên. A Nan, nếu chắc là tự nhiên thì tự phải xét rõ cái thể của tự nhiên, ông hãy quán xét trong bản kiến diệu minh này, lấy gì làm tự thể? Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối làm tự thể? Lấy rỗng không làm tự thể hay lấy ngăn bít làm tự thể? Nếu sáng là tự thể thì chẳng thể thấy tối, nếu rỗng không là tự thể thì chẳng thể thấy ngăn bít, như vậy cho đến nếu lấy tướng tối làm tự thể, thì khi sáng, tánh thấy đã đoạn diệt, sao lại thấy sáng?”

     Ở đây, Đức Phật đã lý luận chứng tỏ gốc thấy (bản kiến) không có Tự thể, nghĩa là gốc thấy là sinh diệt. Sự thật trong bản kiến diệu minh chẳng có tự thể, trong khi thấy tính thấy đó không phải có tự thể vì nó sinh diệt, như Đức Phật đã lấy “sáng tối, rỗng bít” để chứng minh một cách rõ ràng vậy.

2. PHÁ NGHI LÀ NHÂN DUYÊN 

     A Nan nói:

- Nếu bản tánh diệu kiến này chẳng phải tự nhiên, nay con phát minh là do nhân duyên sanh, nhưng tâm còn chưa rõ. Xin hỏi Như Lai: Nghĩa này như thế nào mới hợp với tánh nhân duyên?
     Phật bảo:
- Ông nói nhân duyên, ta lại hỏi ông, nay ông nhân kiến tinh mà có tánh thấy hiện tiền, vậy cái thấy này nhân sáng có thấy hay nhân tối có thấy? Nhân rỗng không có thấy hay nhân ngăn bít có thấy?
- A Nan, nếu nhân sáng có thấy thì chẳng thể thấy tối; nếu nhân tối có thấy thì chẳng thể thấy sáng. Như vậy cho đến nhân rỗng không, nhân ngăn bít, đều đồng như sáng tối.
- Lại nữa, A Nan, kiến tinh này duyên sáng có thấy hay duyên tối có thấy? Duyên rỗng không có thấy hay duyên ngăn bít có thấy?
- A Nan, nếu duyên rỗng không có thấy thì chẳng thể thấy ngăn bít; nếu duyên ngăn bít có thấy thì chẳng thể thấy rỗng không. Như vậy cho đến duyên sáng duyên tối, đều đồng như rỗng không và ngăn bít.
- Nên biết cái bản giác diệu minh này phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi bất tự nhiên. Vô Phi và Bất Phi, Vô Thị và Phi Thị, lìa tất cả tướng, là tất cả pháp. Nay ông sao lại ở trong đó dùng chấp tâm đuổi theo những danh tướng hí luận của thế gian, vọng khởi phân biệt, cũng như dùng tay nắm bắt hư không, chỉ tự lao nhọc, hư không làm sao cho ông bắt được?

GIẢI NGHĨA (PHÁ NHÂN DUYÊN)
      Tôn giả A Nan Đà lại thưa hỏi: “- Nếu bản tánh diệu kiến này chẳng phải tự nhiên, nay con phát minh là do nhân duyên sanh, nhưng tâm còn chưa rõ. Xin hỏi Như Lai: Nghĩa này như thế nào mới hợp với tánh nhân duyên?” Ở trên, Đức Phật đã chứng minh để bác bỏ thuyết Tự nhiên, đến đây Tôn giả A Nan quay quacho là do “Nhân duyên sinh ra cái thấy.
     Đức Phật trả lời bằng câu hỏi: “-Ông nói nhân duyên, ta lại hỏi ông, nay ông nhân kiến tinh mà có tánh thấy hiện tiền, vậy cái thấy này nhân sáng có thấy hay nhân tối có thấy? Nhân rỗng không có thấy hay nhân ngăn bít có thấy?” Nghĩa là cái thấy do nhân sáng hay do nhân tối, do nhân rỗng hay do nhân ngăn bít mà có thấy?

     Ngài giải thích: “- A Nan, nếu nhân sáng có thấy thì chẳng thể thấy tối; nếu nhân tối có thấy thì chẳng thể thấy sáng. Như vậy cho đến nhân rỗng không, nhân ngăn bít, đều đồng như sáng tối”. Ở đây Ngài lý luận chứng tỏ tất cả 4 nhân sáng, tối, thông, bít đều chẳng phải là cái thấy.

Tương tự như về chữ “Nhân”, Đức Phật lý luận về chữ “Duyên”, Ngài nói: “- Lại nữa, A Nan, kiến tinh này duyên sáng có thấy hay duyên tối có thấy? Duyên rỗng không có thấy hay duyên ngăn bít có thấy? - A Nan, nếu duyên rỗng không có thấy thì chẳng thể thấy ngăn bít; nếu duyên ngăn bít có thấy thì chẳng thể thấy rỗng không. Như vậy cho đến duyên sáng duyên tối, đều đồng như rỗng không và ngăn bít”.
     Cũng như vậy, chẳng có duyên nào trong các duyên sáng, tối, thông, bít là duyên của cái thấy.

     Đức Phật dạy tiếp: “- Nên biết cái bản giác diệu minh này phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi bất tự nhiên. Vô Phi và Bất Phi, Vô Thị và Phi Thị, lìa tất cả tướng, là tất cả pháp. Nay ông sao lại ở trong đó dùng chấp tâm đuổi theo những danh tướng hí luận của thế gian, vọng khởi phân biệt, cũng như dùng tay nắm bắt hư không, chỉ tự lao nhọc, hư không làm sao cho ông bắt được?”

     Đến đây, Ngài tóm kết rằng: Cái gốc biết (bản giác) diệu minh này chẳng phải (phi) nhân duyên, chẳng phải (phi) tự nhiên, chẳng phải chẳng (phi bất) tự nhiên. Không chẳng (Vô Phi) và không chẳng chẳng (Bất Phi), Không Thấy (Vô Thị) và Không Chẳng Thấy (Phi Thị), tức là lìa  Bốn Câu (Ly Tứ Cú: Có không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không, cũng chẳng có cũng chẳng không); lìa tất cả hình sắc (tướng), tức là liàtất cả pháp. Ngài lưu ý không được dùng chấp tâm dính mắc đuổi theo những tên gọi hình sắc danh tướng của thế gian, không được phân biệt so sánh này nọ, không được khởi vọng tưởng nhớ tưởng những thứ đó v.v…. Tất cả những thứ nêu trên (tất cả pháp) nếu còn mảy may dính mắc, cũng giống như dùng tay nắm bắt hư không, chỉ tự lao nhọc, vì hư không chẳng thể nắm bắt được vậy.

3. PHÁ BỐN TƯỚNG HÒA HỢP(Còn tiếp)


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567