- Phẩm thứ 01: Phẩm bảy pháp
- Phẩm thứ 02: Phẩm Nghiệp Tương Ưng
- Phẩm thứ 03: Phẩm Xá-lê Tử Tương Ưng
- Phẩm thứ 04: Phẩm Vị Tằng Hữu Pháp
- Phẩm thứ 05: Phẩm Tập Tương Ưng
- Phẩm thứ 06: Phẩm Vương Tương Ưng
- Phẩm thứ 07: Phẩm Trường Thọ Vương
- Phẩm thứ 08: Phẩm Uế
- Phẩm thứ 09: Phẩm Nhân
- Phẩm thứ 10: Phẩm Lâm
- Phẩm thứ 11: Phẩm Đại (Phần đầu)
- Phẩm thứ 12: Phẩm Phạm Chí (Phần đầu)
- Phẩm thứ 12: Phẩm Phạm Chí (Phần sau)
- Phẩm thứ 13: Phẩm Căn Bổn Phân Biệt
- Phẩm thứ 14: Phẩm Tâm
- Phẩm thứ 15: Phẩm Song
- Phẩm thứ 16: Phẩm Đại (Phần sau)
- Phẩm thứ 17: Phẩm Bô-Đa-Lợi
- Phẩm thứ 18: Phẩm Lệ
KINH TRUNG A-HÀM
Hán dịch: Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú: Thích Tuệ Sỹ
Sài gòn 2002
129.KINH OÁN GIA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có bảy pháp oán gia[02] để gây thành oán gia; tức là khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Những gì là bảy?
“Oán gia thì không muốn oán gia có sắc đẹp. Vì sao oán gia không muốn oán gia có sắc đẹp? Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bịchi phối bởi sân nhuế, tâm không xả bỏ sân nhuế, thì người ấy tuy luôn tắm gội, dùng danh hương thoa mình, nhưng sắc thân[03]vẫn xấu. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ nhất gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia ngủ nghỉ an lành. Vì saooán gia không muốn oán gia ngủ nghỉ an lành? Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thì người ấy tuy nằm trên giường vua, trải bằng thảm lông chim, phủ bằng gấmvóc lụa là, có nệm mềm, hai đầu kê gối, được phủ bằng thảm quý, bằng dasơn dương[04],nhưng giấc ngủ vẫn âu lo, đau khổ. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ hai để gây thànhoán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có lợi lớn. Vì sao oán gia không muốn oán gia có lợi lớn? Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thì người ấy đáng lẽ được lợi, hai điều ấy không trái nhau, thật là bất lợi lớn. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ ba để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có bằng hữu. Vì sao oán gia không muốn oán gia có bằng hữu? Người hay sân nhuế bị tác động bởi tâm sân nhuế, bị chi phối bởi tâm sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thì người ấy nếu có bằng hữu thân thiết, họ cũng tìm cách lánh mặt bỏ đi. Vìsao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ tư để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có sự khen ngợi. Vì sao oán gia không muốn oán gia có sự khen ngợi? Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, người ấy danh ô tiếng xấu đồn khắp. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ năm để gây thànhoán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia quá giàu sang. Vì sao oán gia không muốn oán gia quá giàu sang? Người hay sân nhuế bị tác độngbởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, người ấytạo nghiệp thân, khẩu, ý như vậy khiến mất nhiều tài vật. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ sáu để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn để oán gia khi thân hoại mạng chung được đến chỗ an lành, sanh ở cõi trời. Vì sao oán gia không muốn oán gia đến chỗ an lành? Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bịchi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thân khẩu ý tạo ác nghiệp. Người ấy sau khi thân, khẩu, ý tạo ác nghiệp, thân hoại mạng chung chắc chắn đến chỗ ác, sanh trong địa ngục. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ bảyđể gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Đó là cả bảy pháp oán gia gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.”
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng rằng:
- Người sân, sắc da xấu;
- Nằm ngủ, khổ không yên.
- Đáng lẽ được của nhiều,
- Trở lại bị bất lợi.
- Kẻ bằng hữu thân thiết,
- Xa lìa người sân nhuế.
- Luôn luôn tập sân nhuế,
- Tiếng xấu đồn khắp nơi.
- Sân gây nghiệp thân khẩu,
- Nhuế buộc ràng nghiệp ý.
- Người bị nhuế chế ngự,
- Mất tất cả tài vật.
- Sân nhuế sanh bất lợi,
- Sân nhuế sanh tâm nhơ.
- Sợ sệt sanh bên trong,
- Người không thể biết được.
- Người sân không biết nghĩa,
- Người sân không hiểu pháp,
- Không mắt, mù mịt tối,
- Là người ưa sân nhuế.
- Nhuế dậy, sắc da ghê,
- Như lửa mới bốc khói,
- Từ đó sanh ghét ghen,
- Duyên sân lại do đó.
- Việc làm của người sân,
- Dù thiện và bất thiện,
- Sau khi cơn sân qua,
- Nóng lòng như lửa đốt.
- Gọi là nghiệp phiền nhiệt,
- Và các pháp buộc ràng.
- Tất cả Ta đã nói,
- Các ngươi hãy nghe kỹ.
- Người sân nghịch hại cha,
- Và với cả anh em,
- Cũng giết hại chị em,
- Người sân nhiều tàn khốc.
- Sanh ra và lớn lên,
- Được thấy thế gian này,
- Nhờ mẹ được sống còn,
- Khi sân cũng sát hại.
- Không xấu, không hổ thẹn,
- Sân triền, không nói năng,
- Người bị sân chế ngự,
- Miệng nói không chừa gì.
- Tạo tác tội nghịch si,
- Để mình tự yểu mạng,
- Khi làm không tự biết,
- Do sân sanh sợ hãi.
- Tự buộc trói thân mình,
- Ái lạc không cùng cực,
- Dù ái niệm tự thân,
- Người sân cũng tự hại.
- Hoặc tự đâm bằng dao,
- Hoặc nhảy xuống hang sâu,
- Hay dùng dây thắt cổ,
- Uống các loại thuốc độc,
- Đó là tượng sân nhuế.
- Là chết bởi vì sân,
- Tất cả đều dứt hết,
- Dùng tuệ mới biết được.
- Nghiệp bất thiện dù nhỏ,
- Người trí biết liền trừ.
- Nên nhẫn nại hạnh này,
- Màu da không dữ dằn,
- Không nhuế, cũng không ưu,
- Khói tắt không lay động,
- Chế ngự đoạn sân nhuế,
- Tịch diệt, không còn lậu.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli A.7.60. Kodhana-sutta.
- [02] Thất oán gia pháp 七 怨 家 法. Pāli: sattime dhammā sapattakantā sapattakaraṇā, bảy pháp được kẻ thù yêu thích, tạo thành kẻ thù.
- [03] Sắc, đây chỉ màu da. Pāli: vanna.
- [04] Ca-lăng-già-ba-hòa-la-ba-già-tất-đa-la-na,phiên âm. Ca-lăng-già: tên xứ. Ba- hòa-la: dịch là ác. Ba-già-tất-đa-la-na: dịch là áo gối (phiên Phạn ngữ 10, No.2130, trang 1051b). Pāli: kadalimigapavara-paccattharaṇa.