TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010
16. Kinh
ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
(Mahà-Parinibbàna-sutta)
Như vậy, tôi nghe :
1. Một thời, đức Thế Tôn ngụ tại
Vương Xá thành – Rá-Chá-Ga-Ha (1)
Trên núi Gít-Chá-Ku-Ta (2)
Hay núi Linh Thứu (2) không xa xóm nhà.
Lúc ấy A-Cha-Ta-Sát-Tú (3)
– A-Xà-Thế – vương chủ quốc gia
Ma-Ga-Tha – Ma-Kiệt-Đà
( Con vua Bim-Bí-Sa-Ra – Tần-Bà
Vi-Đề-Hy lệnh bà mẫu hậu )
A-Xà-Thế muốn tạo quyền uy
Định chinh phục dân Vách-Chi (4)
Cũng chính là xứ Bạt-Kỳ (4) danh tri
Vua nghĩ dẫu Vách-Chi hùng mạnh
Ta quyết đánh, dấy động can qua
Khiến dân Vách-Chi tiêu ma
Sáp nhập xứ ấy vào Ma-Kiệt-Đà.
2. Gọi Bàn-môn Vát-Sa-Ka-Rá (5)
_______________________________
(1) : Ràjagaha ( Thành Vương Xá ).
(2) : Núi Gijjhakùta ( Linh Thứu & Linh Sơn hay Kỳ-Xà-Quật )
(3) : Vua Ajàtasattu Vedehyputta (A-Xà-Thế, con bà Vi-đề-hy )
là con vua Bimbisara (Tần-Bà-Sa-La hay Bình-Sa Vương)
trị vì nước
(4) : Xứ Vajjì ( Bạt-Kỳ ).
(5) : Vị Bà-la-môn Đại thần
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 100
Cũng có tên Vũ Xá đại thần
Đến cung, vua nói điều cần :
– “ Này khanh ! Khanh hãy tự thân an hòa
Đến Thế Tôn, thay ta đảnh lễ
Vấn an Ngài pháp thể khinh an
Có ít bệnh, ít não chăng
Có được lạc trú, thân hằng khỏe chăng ?
Bạch tiếp rằng : Vua A-Xà-Thế
Muốn chinh phục toàn thể Vách-Chi
Vì muốn chứng tỏ quyền uy
Và muốn sáp nhập Vách-Chi tức thì.
Khanh phải cố nhớ ghi lời dạy
Của Thế Tôn, nói lại Trẫm hay
Kim ngôn của Phật thẳng ngay
Không hề hư vọng, lời Ngài đáng tin ”.
3. Vị đại thần vâng gìn lời dặn
Soạn nhiều xe thù thắng cùng đi
Đến núi Linh Thứu tức thì
Thẳng qua tới chỗ, rồi đi bộ vào
Gặp Thế Tôn liền chào, thăm hỏi
Lời xã giao, và nói họ tên
Xong rồi ngồi xuống một bên
Hướng về đức Phật, thốt lên trình bày :
– “ Thưa Tôn Giả ! Hôm nay thay chủ
A-Cha-Ta-Sát-Tú Đại Vương
Cúi đầu đảnh lễ Pháp Vương
Vấn an Tôn Giả có thường khinh an ?
Có thiểu bệnh, ít đàng phiền não ?
Có lạc trú, an hảo hay không ? ”
Rồi thưa với đức Thế Tôn :
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 101
‘Vua muốn chinh phục, diệt xong Bạt-Kỳ
Vua nghĩ dẫu Vách-Chi hùng mạnh
Ta quyết đánh, dấy động can qua
Khiến dân Vách-Chi tiêu ma
Sáp nhập xứ ấy vào Ma-Kiệt-Đà
Lại dặn con nghe qua lời dạy
Của Tôn Giả, nói lại vua hay ”.
4. Lúc bấy giờ , ở nơi này
Có sự hiện diện của ngài A-Nan (1)
Là thị giả, ngài đang đứng quạt
Cho Thế Tôn được mát trời hè
Phật nói cho A-Nan nghe :
– “ A-Nan ! Con có biết về Vách-Chi
Dân Bạt-Kỳ có thường tụ họp
Và tụ họp đông đảo với nhau ? ”
– “ Bạch Thế Tôn ! Cả trước sau
Vách-Chi dân chúng cùng nhau thuận hòa
Thường tụ họp vui và đông đảo ”.
– “ A-Nan-Đa (1) ! Hòa hảo như vầy
Vách-Chi dân ấy càng ngày
Càng được hưng thịnh, vui vầy, bình an.
Này A-Nan ! có nghe dân thứ
Họp, giải tán, cộng sự với nhau
_______________________________
(1) : Ananda hay A-Nan là con Hộc-Phạn Vương ( Sukodana –
em Vua Tịnh Phạn - Suddhodana ), tức là em chú bác với Đức
Phật . Xuất gia cùng với 6 vị vương-tử giòng Thích Ca khi đức
Phật về thăm lại Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatthu ) lần đầu tiên sau
khi thành đạo . Tôn-giả là vị Thị giả hầu cận thân tín của Đức
Phật suốt 30 năm trung-giác-thời và hậu-giác-thời của Phật .
( 15 năm tiền-giác-thời, đức Phật chưa có vị thị giả nào nhất
định và chính thức ) .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 102
Trong niệm đoàn kết làm đầu ? ”
– “ Thưa ! Họ đoàn kết với nhau mọi thời ”.
– “ Dân Vách-Chi sống đời đoàn kết
Trong khi họp, họp hết, cùng làm
Với sự tương nhượng, nhẫn kham
Thì Vách-Chi chẳng thể làm tiêu vong.
Này A-Nan ! Có không họ kể
Không ban hành luật lệ chưa ban
Không hủy bỏ Luật đã ban
Sống đúng truyền thống xưa, đang lưu truyền ?”
– “ Bạch Thế Tôn ! Căn nguyên con biết
Dân Vách-Chi quả thiệt như vầy ”.
– “ A-Nan ! Nếu đúng điều đây
Vách-Chi dân ấy càng ngày thịnh an.
Này A-Nan ! Có nghe họ kể
Thường sùng kính, đảnh lễ, cúng dường
Các bậc Trưởng lão minh lương
Và nghe lời dạy tinh tường từ đây ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Dân đây nghe bảo
Lễ, cúng dường Trưởng lão Vách-Chi ”.
– “ A-Nan ! Như vậy Bạt-Kỳ
Sẽ mãi hưng thịnh, không suy giảm gì.
A-Nan-Đa ! Vách-Chi nam tử
Có bắt cóc phụ nữ thiếu thanh
Cưỡng ép họ sống với mình ? ”.
– “ Bạch Phật ! Điều đó thật tình là không ”.
– “ A-Nan-Đa ! Nếu không như thế
Thì Vách-Chi không thể diệt vong.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 103
– A-Nan ! Tự miếu ngoài trong
Dân Vách-Chi có một lòng kính tôn
Không bỏ phế tổ tông cúng lễ
Trước đến nay thừa kế, tiếp làm ? ”.
– “ Bạch Phật ! Cúng lễ nghiêm trang
Tôn kính tự miếu họ đang phụng thờ ”.
– “ A-Nan-Đa ! Chính nhờ như thế
Dân Vách-Chi không thể điêu tàn.
A-Nan ! Họ có hân hoan
Bảo hộ đúng pháp các hàng Thánh Tăng
A-La-Hán tịnh thanh nơi khác
Đã đến rồi, an lạc trú đây
Các bậc La-Hán xa hay
Cũng sẽ tìm đến, đêm ngày sống an ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Rõ ràng con biết
Điều nói trên họ quyết thực hành ”.
– “ A-Nan ! Dân đó thiện lành
Ủng hộ La-Hán tịnh thanh như vầy
Thì Vách-Chi càng ngày càng thịnh
Không suy giảm, an định đáng tôn ”.
5. Rồi Phật nhìn vị Bàn-môn (1)
Vát-Sa-Ka-Rá (2), ôn tồn nói ngay :
“ Nguyên trước đây Như Lai du hóa
Vê-Sa-Ly thành đã sống qua
Tự miếu Sa-Ranh-Đa-Đa (3)
Tại đây ta đã dạy ra bảy điều
_______________________________
(1) : Bàn-Môn hay Phạm-Chí tức là Bà-La-Môn .
(2) : Vị Bà-la-môn Đại-thần
(3) : Tự miếu Sàrandada .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 104
Pháp bất thối sớm chiều thực hiện
Dân Vách-Chi mạnh tiến, thịnh an.
Này Vũ-Xá ! Điều rõ ràng
Khi nào dân đó nghiêm trang thực hành
Theo bảy pháp vô tranh bất thối
Thì tuyệt đối dân xứ Bạt-Kỳ
Sẽ được cường thịnh, quang huy
Không bị suy giảm, trải đi lâu dài ”.
Nghe nói vậy, Vát-Sa-Ka-Rá
Đại thần Ma-Ga-Thá nước này
Thưa rằng : “ Tôn Giả, Lành thay !
Chỉ cần dân ấy hành ngay một điều
Pháp bất thối sớm chiều thực hiện
Thì vĩnh viễn cường thịnh, tiến xa
Huống là bảy pháp kể qua
Cũng đều nghiêm chỉnh trải qua thực hành.
Kính bạch đức Kiều-Đàm Tôn Giả
A-Cha-Tá-Sát-Tú Đại Vương
Không thể đánh bại đường đường
Ở trong chiến trận, chủ trương bạo quyền
Trừ phi nếu tùy duyên tính toán
Kế ly gián hay dụng ngoại giao
Kính thưa Tôn Giả quý cao !
Con xin từ giả, còn bao chuyện cần ”.
– “ Này Bàn-môn ! Đại thần trách nhiệm
Hãy làm chuyện ông nghĩ hợp thời ”.
Bàn-môn Vũ-Xá thuận lời
Hoan hỷ tán thán, đoạn rời Linh Sơn.
6. Khi Bàn-môn Vát-Sa-Ka-Rá
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 105
Đi chưa lâu, Phật đã dạy rằng :
– “ A-Nan ! Hãy họp Chúng Tăng
Tỷ Kheo những vị sống gần chúng ta
Tại Ra-Chá-Ga-Ha – Vương Xá
Tập họp cả vào tại giảng đường ”.
A-Nan vâng lệnh Pháp Vương
Tập họp tất cả các phương Tăng-Già
Về Linh Thứu, Phật Đà truyền gọi.
Khi chư Tăng tựu hội đã xong
Tôn-giả A-
Tịnh thất của Phật để thông báo rằng :
“ Thỉnh Thế Tôn quang lâm nơi giảng
Chư Tỷ Kheo đã sẵn đợi Ngài ”.
Đức Phật đứng dậy khoan thai
Đến nơi hội họp, thỉnh Ngài ngồi an
Trên chỗ ngồi chư Tăng soạn sẵn
Đức Chánh Đẳng lên tiếng dạy rằng :
– “ Này các Tỷ Kheo Chúng Tăng !
Ta sẽ giảng giải, phải hằng nhớ ghi
Suy nghiệm kỹ những gì Ta nói
Đem thực hành sẽ lợi ích nhiều.
Này các Tỷ Kheo ! Sớm chiều
Tăng Chúng phải nhớ những điều dưới đây :
* Chúng Tỷ Kheo thường hay tụ hội
Và tụ hội đông đảo cùng nhau
Lấy pháp Bất Thối làm đầu
Tăng-Già hưng thịnh, không sao suy tàn.
* Chúng Tỷ Kheo hân hoan tụ họp
Trong khi họp, giải tán, thực hành
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 106
Trong niệm đoàn kết trong lành
Tăng-già hưng thịnh, không sanh suy tàn.
* Chúng Tỷ Kheo không ban luật lệ
Là giới luật không được ban hành
Không bỏ giới luật tinh anh
Học giới cao khiết ban hành trước nay
Thì Tăng-già càng ngày càng thịnh
Không suy giảm, chân chính, lâu dài.
* Tỷ Kheo tôn sùng, tỏ bày
Cúng dường, đảnh lễ các Ngài Đại Tăng
Bậc Tỷ Kheo xuất trần Thượng Tọa
Giàu kinh nghiệm, lạp cả niên cao
Cha mẹ, sư trưởng thuộc vào
Hằng nghe lời dạy biết bao lợi này
Thì Tăng-già càng ngày càng thịnh
Không suy giảm, Pháp tịnh lâu dài.
* Chúng Tỷ Kheo suốt đêm ngày
Không bị chi phối bởi rày Ái tham
Tham ái này tác thành đời khác
Thời Tăng-già an lạc thịnh hưng
Không bị suy giảm giữa chừng
Là pháp Bất Thối không ngừng thực thi.
* Chúng Tỷ Kheo thích nghi an tịnh
Lìa đông đảo, chẳng dính bụi trần
Tăng-già hưng thịnh, tịnh thân
Sẽ không suy giảm, Pháp chân lâu dài.
* Chúng Tỷ Kheo đêm ngày an trú
Trong chánh niệm, nghiêm thủ Giới lành
Khiến bạn đồng tu tịnh thanh
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 107
Chưa đến, muốn đến tu hành với nhau
Nếu vị nào đã cùng đến ở
Sống an lạc, không sợ điều chi
Hành pháp Bất Thối này thì
Tăng-già hưng thịnh, không gì lung lay
Không suy giảm, lâu dài Chánh pháp.
Đây bảy Pháp Bất Thối giải trình
Khi nào Tăng Chúng nghiêm minh
Thực hành đầy đủ sẽ sinh thịnh cường.
7. Các Tỷ Kheo ! Tinh tường nghe rõ
Bất thối có bảy pháp khác hơn
Nghe kỹ, suy nghiệm nguồn cơn
Hiểu rõ, thực hiện chánh chơn pháp này :
* Chúng Tỷ Kheo thẳng ngay, không thích
Chuyện thế sự vô ích không làm
Không hoan hỷ thế sự nhàm
Với chuyện thế sự không đam mê vào
Thì Tăng-già biết bao cường thịnh
Không suy giảm, Pháp tịnh lâu dài.
* Nếu chúng Tỷ Kheo đêm ngày
Không thích phiếm luận, không hay luận bàn
Chuyện phù phiếm của hàng thế tục
Không hoan hỷ với mục phiếm bàn
Tăng-già cường thịnh, lạc an
Không hề suy giảm, Đạo Vàng dài lâu.
* Chúng Tỷ Kheo ở đâu an trú
Không ưa thích mê ngủ triền miên
Dành nhiều thời gian hành thiền
Tu học đúng pháp hiện truyền bá ra
Thì Tăng-già mãi luôn cường thịnh
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 108
Không suy giảm, Pháp tịnh lâu dài.
* Nếu chúng Tỷ Kheo đêm ngày
Không thích quần tụ để hay phiếm đàm
Không hoan hỷ, không ham quần tụ
Không đam mê quần tụ như đời
Tăng-già hưng thịnh mọi thời
Không bị suy giảm, nơi nơi lục hòa.
* Chúng Tỷ Kheo không tà dục vọng
Không bị động bởi ác dục này
Sống đời thanh tịnh, thẳng ngay
Tăng-già hưng thịnh, không rày giảm suy.
* Chúng Tỷ Kheo mọi thì tỉnh thức
Không bạn bè với ác dục này
Không thân tín ác dục đây
Không cùng cộng sự Ác hay dục tà
Thì Tăng-già mãi luôn hưng thịnh
Không suy giảm, Pháp tịnh lâu dài.
* Nếu chúng Tỷ Kheo đêm ngày
Không dừng giữa đoạn, phí hoài công phu
Sự chứng đạt đặc thù quả vị
Từ thấp kém cho chí cao xa
Quả vị thù thắng gắng qua
Luôn luôn tinh tấn tiến xa không ngừng
Thì Tăng-già thịnh hưng sung mãn
Không suy giảm, Chánh pháp lâu dài.
Khi Bảy Pháp Bất Thối này
Duy trì, phát triển hằng ngày tinh chuyên
Được dạy bảo, răn khuyên, tuân thủ
Thì Tăng-già hội đủ nhân duyên
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 109
Làm cho Chánh pháp lưu truyền
Đời đởi hưng thịnh, vững bền dài lâu.
8. Các Tỷ Kheo ! Nghe hầu nhớ rõ :
Bất thối có bảy pháp khác hơn
Nghe kỹ, suy nghiệm nguồn cơn
Hiểu rõ, thực hiện chánh chơn pháp này :
Chúng Tỷ Kheo đêm ngày hoan hỷ
Có Tín tâm, Tàm, Quý (1), Nghe nhiều (1)
Có Tinh Tấn, Chánh Niệm đều
Và có Trí Tuệ, bảy điều như trên
Thì Tăng-già trở nên hưng thịnh
Không suy giảm, Pháp tịnh lâu dài.
9. Này các Tỷ Kheo ! Ta nay
Bất thối pháp khác giảng ngay như vầy :
Bảy pháp này Giác Chi (2) phổ cập :
Niệm Giác Chi tu tập hàng ngày
Trạch Pháp Giác Chi hành ngay
Giác Chi Tinh Tấn, Phỉ này Giác Chi,
Tiếp, Giác Chi Khinh An ghi nhận
Định Giác Chi, cần mẫn thực hành
Xả Giác Chi, pháp tịnh thanh
Tỷ Kheo nỗ lực thực hành chẳng ngưng
Thì Tăng-già không ngừng hưng thịnh
_______________________________
(1) : Tàm ( Hiri - Tâm biết hổ thẹn (tội lỗi). Quý ( Ottappa - Tâm
biết ghê sợ (tội lỗi). Nghe nhiều ( Đa Văn – Bahusacca ).
(2) : Thất Giác Chi – Bojjhanga (trong 37 Trợ Đạo Phẩm hay 37
Pháp Trợ Bồ Đề ), gồm : Niệm Giác Chi ( Sati ), Trạch Pháp
Giác Chi (Dhammavicaya ), Tinh Tấn Giác Chi (Viriya ), Phỉ
Giác Chi ( Pìti ), Khinh An Giác Chi ( Passadhi ), Định Giác
Chi ( Samàdhi ) và Xả Giác Chi ( Upekkhà ).
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 110
Không suy giảm, Pháp tịnh lâu dài.
Khi bảy pháp Bất Thối này
Duy trì, phát triển hằng ngày tinh chuyên
Được dạy bảo, răn khuyên, tuân thủ
Thì Tăng-già hội đủ nhân duyên
Làm cho Chánh pháp lưu truyền
Đời đời hưng thịnh, vững bền dài lâu.
10. Các Tỷ Kheo ! Nghe hầu nhớ rõ
Bất thối có bảy pháp khác hơn
Nghe kỹ, suy nghiệm nguồn cơn
Hiểu rõ, thực hiện chánh chơn pháp này :
Chúng Tỷ Kheo đêm ngày quán tưởng :
Vô Thường tưởng, Vô Ngã tưởng đây
Bất Tịnh tưởng tu tập ngay
Xã Ly, Nguy Hiểm tưởng này quán luôn
Vô Tham tưởng, quán nguồn Diệt tưởng (1)
Luôn quán tưởng, tu tập đêm ngày
Tăng-già hưng thịnh, lành thay !
Không bị suy giảm, Pháp này cần chuyên.
11. Các Tỷ Kheo ! Nghe liền suy nghiệm
Pháp bất thối sáu điểm cần hành :
Chúng Tỷ Kheo giữ tịnh thanh
Đối với các vị đồng hành, đồng tu
Chỗ đông người hay dù nơi vắng :
* Giữ chính chắn thân nghiệp từ hòa.
* Giữ gìn khẩu nghiệp từ hòa.
_______________________________
(1) : Bảy pháp bất thối khác : Vô thường tưởng , Vô ngã tưởng ,
Bất tịnh tưởng , Nguy hiểm tưởng , Xã ly tưởng , Vô tham
tưởng và Diệt tưởng .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 111
* Mọi sự lợi dưỡng dù là nhỏ nhoi
Như những vật trong thời khất thực
Đều phân phối đúng mực, thọ chung.
* Giới luật thanh tịnh đều cùng
Giữ gìn trong sạch để không uế tỳ
Giới thọ trì, con đường giải thoát
Được người trí tán thán, kính tôn.
* Những thánh tri kiến pháp môn
Đưa đến giải thoát, bảo tồn, đổi trao
Cùng diệt tận khổ đau, phiền não
Nên thực hành an hảo cùng nhau.
* Những ý nghĩ đều nhằm vào
Thuận hòa theo đúng pháp sâu giáo truyền.
Các Tỷ Kheo ! Mãn viên sáu pháp
Là Lục Hòa (1), thuận hạp sống chung
Là pháp bất thối viên dung
Chúng Tăng hoan hỷ để cùng hành theo
Thì Tăng-già Tỷ Kheo đại chúng
Luôn hưng thịnh và cũng không suy.
Các con phải luôn nhớ ghi
Các pháp bất thối, không gì quý hơn ”.
12. Trong thời gian Thế Tôn an trụ
Vương Xá thành, Linh Thứu núi đây
Ngài đã giảng pháp thoại này
Cho Tỷ Kheo chúng rõ ngay lý mầu :
“ Đây là Giới, tiếp sau Định, Tuệ
_______________________________
(1) : Sáu pháp bất thối khác : Thân hòa đồng trú , Khẩu hòa vô
tranh , Ý hòa đồng duyệt , Kiến hòa đồng giải , Lợi hòa đồng
quân , Giới hòa đồng tu .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 112
Định và Giới vừa kể, cùng tu
Đưa đến quả vị đặc thù
To lớn, lợi ích cho dù ở đâu
Hoặc ví dầu Tuệ tu với Định
Sẽ đưa đến lợi ích vô cùng
Tâm cùng với Tuệ tu chung
Đưa đến giải thoát, diệt cùng khổ đau
Các lậu-hoặc trước sau các loại :
Phải thoát khỏi Dục-lậu ngoài trong
Hữu-lậu (Tri-kiến-lậu ) xong
Thoát Vô-minh-lậu, khỏi vòng trầm luân ”.
13. Đức Thế Tôn ở nơi Vương Xá
Cho đến khi thấy đã đủ rồi
Gọi A-Nan-Đa đến nơi
Bảo rằng : “ Ta hãy cùng rời đi qua
Am-Ba-Lát-Thi-Ka sẽ đến ”.
Đức A-Nan vâng lệnh thi hành
Phật và Tăng chúng tịnh thanh
Rời khỏi Linh Thứu, khởi hành cùng qua.
14. Khi đến nơi hoàng gia nghỉ mát
Tức là Am-Ba-Lát-Thi-Ka (1)
Thế Tôn an trú trong nhà,
Trong thời gian Phật ờ qua nơi này
Thì pháp thoại sau đây được giảng
Thật viên mãn cho Chúng Trung Tôn :
“ Đây Giới - Định - Tuệ giữ tròn
Định tu với Giới, bảo tồn trước sau
Sẽ bền lâu lợi nhiều, chứng đạt
_______________________________
(1) : Ambalatthika là nơi nghỉ mát của Hoàng-gia .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 113
Những quả vị to tát, nhiệm mầu
Tuệ tu với Định dài lâu
Đưa đến quả vị lớn lao, lợi nhiều
Tâm với Tuệ thuận chiều tu tập
Sẽ đưa đến điều rất lợi an
Đưa đến giải thoát hoàn toàn
Các món lậu-hoặc vẫn đang hiện còn
Thoát dục-lậu, thoát xong hữu-lậu
( Tri-kiến-lậu là hữu-lậu này )
Thoát vô-minh-lậu, từ đây
Giải thoát phiền não, đoạn rày vô minh.
15. Đức Thế Tôn hành trình hoằng pháp
Lại rời Am-Ba-Lát-Thi-Ka
Cùng đi đến Na-Lan-Đà (1)
Trú Pa-Va-Rí-Kam-Bà-Vá-Na (2)
16. Ngài Sa-Ri-Pút-Ta Tôn-giả (3)
(Xá-Lợi-Phất) bậc cả trí tài
Đến gặp Phật, đảnh lễ Ngài
Một bên ngồi xuống, trình bày ý riêng :
– “ Bạch Thế Tôn ! Mãn viên đạo quý
Theo con nghĩ, suốt cả khứ lai
Không thể có được một ai
Sa-môn, Phạm-chí (4), các loài chúng sinh
Có thể hơn, siêu minh trí tuệ
Vĩ đại hơn Thiện Thệ, Thế Tôn
Con luôn tin tưởng, kính tôn
_______________________________
(1): Nalanda .(2):Rừng Pàvàrikambavana (Ba-ba-lợi-âm-bà lâm).
(3) : Tôn giả Sariputta ( Xá-Lợi-Phất hay Xá-Lợi-Tử ) là vị
Đại Đệ Tử của đức Phật , bậc Trí Tuệ đệ nhất .
(4) : Bàn-môn hay Phạm-Chí tức là Bà-La-Môn .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 114
Phương diện chánh giác, pháp môn tuyệt vời ”.
– “ Xá-Lợi-Phất ! Những lời ngươi nói
Thật đại ngôn, phải gọi cả gan
Rống tiếng sư tử rền vang
Ca tụng, tán thán vô vàn Như Lai
Xá-Lợi-Phất ! ngươi đây có biết
Tường tận về nhất thiết Thế Tôn
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri không ?
Các ngài quá khứ, tâm đồng hiểu đây :
‘Các Thế Tôn như vầy giới tịnh
Có thiền định, trí tuệ như vầy
Hạnh trú, giải thoát như vầy’
Ngươi có hiểu rõ các ngài hay không ? ”
– “ Bạch Thế Tôn ! Con không hiểu rõ ”
– “ Xá-Lợi-Phất ! Ngươi có biệt tài
Biết các Thế Tôn tương lai
Tâm ngươi tương ứng các ngài, biết ngay :
‘Các Thế Tôn như vầy giới tịnh
Có thiền định, trí tuệ như vầy
Hạnh trú, giải thoát như vầy’
Ngươi sẽ hiểu rõ các ngài hay không ? ”
– “ Bạch Thế Tôn ! Con không biết rõ ”.
– “ Xá-Lợi-Phất ! Ngươi có biết là
Hiện tại Thế Tôn là ta
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri là Như Lai
Ngươi tương ứng biết ngay như thực
Hiện tại Phật giới đức như vầy
Thiền định, trí tuệ như vầy
Hạnh trú, giải thoát Như Lai như vầy
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 115
Như chư Phật tương lai, quá khứ
Hay hiện tại, tương tự hoằng khai
Ngươi có tương ưng trí tài
Biết rõ tâm của Như Lai không nào ? ”
– “ Bạch Thế Tôn ! Không sao hiểu thấy ”.
– “ Xá-Lợi-Phất ! Như vậy là ngươi
Không tha-tâm-thông tuyệt vời
Đối với chư vị ba đời Thế Tôn
Tại sao ngươi đại ngôn, gan dạ
Tiếng sư tử gióng giả rống dồn :
‘Con rất tin tưởng Thế Tôn
Tương lai, quá khứ không còn thấy ai
Sáng suốt hơn, nghiêm oai, vĩ đại
Về chánh giác mà lại hơn ngài’,
Lời ngươi nói về Như Lai
Nhưng ngươi có hiểu Như Lai tinh tường ? ”
17. – “ Bạch Thế Tôn ! Pháp Vương cõi thế
Con có thể không đủ tâm thông
Đối với chư vị Thế Tôn
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đồng khứ lai
Nhưng con biết lâu dài truyền thống
Về chánh pháp, đời sống tinh thần
Bạch Thế Tôn ! Ví dụ gần :
Như vua một nước có thành biên cương
Thành kiên cường, có nhiều hào lũy
Có tháp canh, chỉ một cửa vào
Người gác kinh nghiệm dồi dào
Cấm người lạ mặt ra vào cửa đây.
Vốn thông minh, người này tuần tiểu
Trên con đường cao nghệu quanh thành
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 116
Có thể không thấy chung quanh
Những lỗ bị nứt tường thành mốc meo
Lỗ có thể con mèo chui lọt.
Nhưng chỉ cần biết một điều là
Sinh vật lớn và người ta
Tất cả đều phải đi qua cửa này.
Bạch Thế Tôn ! Điều đây thuận hạp
Biết truyền thống chánh pháp bảo tồn
Tất cả các vị Thế Tôn
Chánh Đẳng Chánh Giác, pháp môn hành trì
Từ quá khứ trải đi hiện tại
Và diễn tiến đến mãi tương lai
Các ngài trừ diệt chẳng sai
Diệt năm Triền Cái, diệt bài nhiễm tâm
( Làm trí tuệ mê lầm, suy đốn )
Tứ Niệm Xứ là bốn điều cần
An trú : Thọ, pháp, tâm, thân (1)
Nỗ lực tu tập chánh chân bảy điều
Thất Giác Chi được nhiều an lạc
Chứng Vô thượng Chánh giác nghiêm hòa
Do những pháp thánh trải qua
Nên con tán thán Phật-Đà thiết tha ”.
18. Trong thời gian trải qua ở tại
Na-Lan-Đà (2), pháp thoại xảy ra
Rừng Pa-Va-Ri-Kam-Ba (3)
Tại nơi đây được Phật-Đà giảng qua :
“ Đây là Giới, đây là Chánh Định
_______________________________
(1) :Tứ Niệm Xứ quán : Quán Thân bất tịnh , Quán Thọ thị khổ ,
Quán Tâm vô thường , Quán Pháp vô ngã .
(2): Nalanda .(3):Rừng Pàvàrikambavana (Ba-ba-lợi-âm-bà lâm).
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 117
Đây là Tuệ thuần tịnh siêu nhiên
Tuệ tu với Định, đạt liền
Những quả vị lớn thánh hiền, lợi thay !
Tâm cùng tu đủ đầy với Tuệ
Thì có thể giải thoát hoàn toàn
Các món lậu-hoặc dở dang
Với tâm dứt khoát, sẵn sàng ngoài trong
Thoát dục-lậu, thoát xong hữu-lậu
( Tri-kiến-lậu là hữu-lậu này )
Thoát vô-minh-lậu, từ đây
Giải thoát phiền não, đoạn rày vô minh ”.
19. Đức Thế Tôn hành trình du hóa
Na-Lan-Đà thấy đã đủ rồi
Gọi A-Nan-Đa đến nơi
Bảo rằng : “ Ta hãy cùng rời, đi qua
Pa-Ta-Li-Ga-Ma (1) sẽ đến ”
Đức A-Nan vâng lệnh thi hành.
Phật cùng Tăng chúng tịnh thanh
Nhắm hướng nơi ấy khởi hành cùng đi.
Tại làng Pa-Ta-Li-Ga-Má
Các Cư-sĩ, Trưởng giả nơi này
Nghe Thế Tôn đã đến đây
Hết sức hoan hỷ, tới ngay chỗ ngài
Đảnh lễ ngài, một bên ngồi xuống.
– “ Bạch Thế Tôn ! Sung sướng hân hoan
Được Thế Tôn đến tại làng
Cung thỉnh ngài trú nơi đang sẵn sàng
Nhà nghỉ mát của làng quang đãng
_______________________________
(1) : Pàtaligàma ( một ngôi làng Bà-la-môn )
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 118
Thích hợp cho thuyết giảng, hành thiền
Thế Tôn im lặng ngồi yên
Là cách ngài đã mặc nhiên nhận lời.
21. Các Cư-sĩ của nơi làng ấy
Khi đã thấy đức Phật nhận lời
Tâm đầy hoan hỷ, thảnh thơi
Đảnh lễ, hữu nhiễu, đoạn rời nơi đây
Rồi tất cả đến ngay nhà mát
Lo rải cát khắp cả hội đường
Sắp đặt sàng tọa, chiếu giường
Đặt các ghè nước, tinh tươm dầu đèn.
Xong đâu đấy, họ bèn đến tiếp
Bạch với Phật mọi việc sẵn sàng.
Thế Tôn đúng dậy nghiêm trang
Đắp y mang bát, cùng đoàn Tỷ Kheo
Đến nhà mát thể theo lời thỉnh
Đến nơi rồi an tịnh rửa chân
Khi vào nhà, đấng xuất trần
An tọa chính giữa, dựa lưng vào tường
Mặt hướng về đông phương chính diện
Ngồi đối diện, Tăng hướng về tây.
23. Đoạn Thế Tôn thuyết giảng ngay
Cho các Cư-sĩ tại đây , đề tài :
NĂM NGUY HIỂM CHO AI PHẠM GIỚI
Thường sống trái Luật Giới thậm thâm :
– “ Các Gia chủ ! Sao là năm ?
* Thứ nhất, sống trái Giới phần truyền trao
Sẽ tiêu hao của tiền rất chóng
Vì phóng dật, đời sống xa hoa.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 119
* Thứ hai, tiếng dữ đồn xa.
* Thứ ba, người phạm giới, ra hay vào
Hội chúng nào, Bàn-môn, Sát-Lỵ (1)
Họ đều bị bối rối, sợ run.
* Thứ tư, người phạm giới chung
Sẽ chết trong sự hãi hùng loạn tâm.
* Điều thứ năm, đọa trầm địa ngục
Hay khổ cảnh, sau lúc mạng chung.
24. Trái lại, lợi ích ung dung
Năm điều cho những ai cùng nhất tâm
Sống gìn giữ trong tầm Giới luật :
* Điều thứ nhất, tiền của dồi dào
Nhờ không phóng dật, thanh cao.
* Thứ hai, tiếng tốt ngạt ngào lan xa.
* Điều thứ ba, vào ra hội chúng
Sát-Đế-Lỵ hay chúng Bàn-Môn
Đều không sợ hãi, không run.
* Thứ tư, khi chết ung dung, an lành.
* Điều thứ năm, được sanh cõi phúc
Hay thiên giới sau lúc mạng chung ”.
25. Thế Tôn giảng pháp ung dung
Tất cả Cư-sĩ vô cùng hân hoan
Cho đến khuya vẫn còn hoan hỷ
Nhưng Phật bảo các vị đang ngồi :
_______________________________
(1) :Tức là Bà-la-môn và Sát-Đế-Lỵ .Theo đạo Bà-La-Môn, xã hội chia ra 4 giai cấp bất di bất dịch : Bà-la-môn (giai cấp đứng đầu giữ phần nghi lễ, tế tự), Sát-Đế-Lỵ (giai cấp Vua chúa, quan quyền), giai cấp Phệ-Xá (Thương gia) , giai cấp cuối cùng bị áp chế, khinh rẻ nhất là Thủ-Đà-La hay Chiên-Đà-La .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 120
– “ Này các Gia chủ ! Khuya rồi
Hãy làm những việc phải thời, hợp cơ ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Chúng con xin kiếu ”.
Đoạn đứng lên, hữu nhiễu, trở ra.
* * *
26. Lúc bấy giờ, Su-Ni-Tha (1)
Cùng với Vát-Sá-Ka-Ra (1), hai nhà
Là đại thần xứ Ma-Ga-Thá
Đang dựng lũy các ngã cản ngăn
Để chận Vách-Chi chúng dân.
Một số rất lớn thiên thần tụ qua
Pa-Ta-Li-Ga-Ma trú địa.
Nhờ uy lực của phía Chư Thiên
Khiến tâm vua chúa uy quyền
Đại thần uy vũ, sinh liền quyết tâm
Sẽ xây dựng trung tâm trú xá
Tùy chư Thiên bậc hạ, thượng, trung
Sẽ duyên thế gian hợp cùng
Vua quan uy lực thượng, trung, hạ này.
27. Đức Thế Tôn đủ đầy thiên nhãn
Rất thanh tịnh, viên mãn, siêu nhiên
Ngài thấy vô số Chư Thiên
Tụ hội trú địa khắp miền địa phương
Đêm chưa tàn, Pháp Vương đã dậy
Hỏi A-Nan : “ Có thấy chuyện gì ?
Ai đang xây dựng thành trì ?
Tại địa phương Pa-Tá-Lì-Ga-Ma ? ”
– “ Bạch Thế Tôn ! Đó là sự việc
Do từ chuyện xây dựng xảy ra
_______________________________
(1) : Hai vị Đại thần Sunìdha và Vassakara .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 121
Đại thần xứ Ma-Kiệt-Đà
Là Su-Ni-Thá & Vát-Sà-Ka-Ra
Đang chỉ huy dựng qua thành lũy
Để bố trí chận dân Vách-Chi ”.
– “ Này A-Nan-Đa ! Vậy thì
Giống như đã hỏi các vì Chư Thiên
Cõi Tam thập tam Thiên ý kiến,
Hai đại thần xúc tiến dựng xây
Thành trì kiên cố nơi đây
Ngăn chận dân Vách-Chi này lấn sang.
Này A-Nan ! Tuệ quang thiên nhãn
Nên Như Lai đã tận thấy là
Hàng ngàn Thiên thần hiện ra
Tụ Pa-Ta-Lí-Ga-Ma chốn này
– Nơi thiên thần có đầy oai lực
Khiến cho tâm các bậc vua, quan
Những vị uy lực vững vàng
Muốn xây trú xá đẹp sang, huy hoàng.
– Chỗ thiên thần các hàng trung cấp
Khiến vua, quan xây đắp bậc trung
Các loại trú xá để dùng.
– Thiên thần bậc hạ khiến cùng duyên theo
Các vua, quan hơi nghèo, bậc hạ
Muốn xây dựng trú xá thường thường.
– A-Nan-Đa ! Phải tận tường
Nhớ ghi một việc thuộc tương lai gần :
Chỗ nào A-Ri-Dân (1) các vị
Chọn an trú hoan hỷ, thuận hòa,
Chỗ nhà thương mại lại qua,
___________________________________________
(1) : ( Xem chú thích ở trang kế )
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 122
Thì nên thiết lập những tòa nguy nga
Một thành thị đúng là bậc nhất
Nơi đích thật Thương mại chính tòa
Tên Pa-Ta-Li-Pút-Ta (2)
Nhưng sau nơi ấy bị ba hiểm nàn :
Về lửa, nước, bất an chia rẽ,
Thành phố này rồi sẽ xảy ra.
29. Bình minh đến, Su-Ni-Tha
Cùng với Vát-Sá-Ka-Ra, hai nhà
Là đại thần xứ Ma-Ga-Thá
Ma-Kiệt-Đà – tên đã dùng thường.
Đến nơi tịnh thất Pháp Vương
Vấn an sức khỏe tịnh thường Thế Tôn
Đoạn hai vị ôn tồn, kính cẩn
Thỉnh Thế Tôn thọ nhận trai tăng
Cùng chư Tỷ Kheo tịnh thanh
Trưa nay xin thỉnh quang lâm nơi nhà.
Đức Thế Tôn từ hòa im lặng
Là cách đấng Chánh Đẳng nhận lời.
30. Hai vị sau khi thỉnh mời
Trở về tư thất, soạn nơi cúng dường
Chuẩn bị đủ, tinh tươm các thứ
_______________________________
(1) : Ariyans :Có lẽ là giống dân da trắng vào chinh phục Ấn-Độ
(từ trước thời Phật); trở thành người Bạch Ấn thống trị xã hội
Ấn, soạn ra bộ luật Manu (Mã Nổ ) rất hà khắc để ngăn chận
sự quật khởi chống đối của người Ấn bản xứ ( có lẽ là người
Hoàng Ấn và Hắc Ấn ).
(2) : Pàtaliputta : Hoa Thị thành , nơi diễn ra Kỳ Kết Tập Tam
Tạng lần thứ 3 dưới sự chủ tọa của ngài Mục-Kiền-Liên Đế Tu
( Moggaliputta Tissa ) do A-Dục Đại Đế ngoại hộ ( khoảng thế
kỷ thứ 3 trước Tây lịch ).
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 123
Xong xuôi rồi, đã cử thân nhân
Đến báo tin Phật, chúng Tăng
Cung thỉnh ngự đến trai tăng cúng dường.
Đấng Pháp Vương đắp y, mang bát
Cùng chư Tăng an lạc, khoan thai
Đi đến tư thất thọ trai
Thỉnh Ngài an tọa chỗ nay sẵn dành.
Hai đại thần tâm lành thiết cúng
Tự thân mời Đại Chúng ân cần
Với Phật, thượng thủ chúng Tăng,
Các món thượng vị quý trân cứng, mềm.
Sau bữa ăn, một niềm hoan hỷ
Cả hai vị lấy ghế thấp hơn
Ngồi bên Đại Giác Thế Tôn
Nghe Phật phúc chúc, bảo tồn đức tin
Với kệ ngôn tôn vinh phước đức
Đối với người chân thực cúng dường :
‘ Nơi nào người sáng suốt thường
Chọn làm trú xứ cúng dường tịnh thanh
Những vị giữ Giới chí thành
Những vị phạm hạnh thường hành uy nghiêm
Chia phước các hàng
Rải rác trú ở khắp miền nơi đây
Khi được hồi hướng phước này
Chư Thiên hoan hỷ, tỏ bày kính tôn
Sẽ hộ trì cả gia môn
Người đã hồi hướng luôn luôn đủ đầy
Giống như người mẹ thương ngay con mình
Chư Thiên ủng hộ, tôn vinh
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 124
Người ấy may mắn, gia đình thịnh hưng ”.
Sau khi đấng Đại Hùng tán thán
Và phúc chúc, viên mãn trai diên
Thế Tôn đứng dậy uy nghiêm
Từ giả gia chủ rồi liền đi ra.
32. Su-Ni-Tha, Vát-Sa-Ka-Rá
Đi sau lưng Phật đã nói rằng :
“ Hôm nay bậc Thầy Thiên Nhân
Ngự ra bằng cổng nào cần để qua
Đặt tên Gô-Ta-Ma cổng ấy,
Còn nếu thấy Ngài sẽ qua sông
Chúng ta đặt tên bến sông
Gô-Ta-Ma bến, với lòng kính tôn ”.
33. Lúc bấy giờ Thế Tôn đi đến
Bên bờ sông, trên bến Găng-Ga (1)
Tức là con sông Hằng Hà
Nước sông tràn khắp, ngập qua đến bờ
Một con quạ đậu bờ sông trước
Cũng có thể uống nước dễ dàng.
Có người tìm thuyền để sang,
Kết bè để chống an toàn qua song,
Cũng có ông tìm phao để vượt.
Đức Thế Tôn dừng bước đứng nhìn
Rồi như lực sĩ tạo hình
Duỗi hay co lại tay mình dễ thay !
Từ bên này bờ sông biến mất
Trong chớp mắt, hiện đến bờ bên.
_______________________________
(1) : Sông Gangà : sông Hằng , được người Bà-la-môn coi như là
một con sông linh thiêng . Họ quan niệm nếu được tắm ở giòng sông ấy thì bao nhiêu tội lỗi đều được tiêu tan.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 125
34. Đức Phật thấy những người trên
Kết bè, tìm kiếm phao, thuyền sang sông
Liên tưởng ý, chạnh lòng cảm khái
Ngài đã ứng khẩu nói như sau :
“ Những người trí cố làm cầu
Vì muốn vượt biển khổ sầu trùng dương
Bỏ lại đất sũng, đầm luồng
Phàm phu nhiều kẻ thì đương cột bè
Người làm cầu thoát biển mê
Thật là Trí tuệ, khỏi bề tử sinh ”.
PHẦN II :
1. Vào bình minh, Phật kêu thị-giả
A-Nan-Đa Tôn-giả, bảo là :
“ Chúng ta nay sẽ đi qua
Địa phương Kô-Tí-Ga-Ma (1) nơi này ”.
Vâng lệnh của Đức Thầy Đại Trí
A-Nan-Đa chuẩn bị đi xa
Thế Tôn cùng chư Tăng-già
Thẳng qua Kô-Tí-Ga-Ma dặm ngàn
Đến nơi, Phật trú an tịnh thất.
2. Tại nơi đây đức Phật thuyết minh :
“ Các Tỷ Kheo ! Trong hành trình
Luân hồi lưu chuyển tử sinh xoay vần
Chính do từ nguyên nhân trì trệ
Không giác ngộ Tứ Đế thánh minh
Như Lai xét lại tự mình
Các ngươi cũng thế, tử sinh xoay vòng
_______________________________
(1) : Kotigàma .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 126
Bởi không hiểu và không giác ngộ
Khổ Thánh Đế, Tập Đế không thông
Diệt Khổ Thánh Đế cũng không
Cả Đạo Thánh Đế chẳng mong hiểu rành.
Tứ Diệu Đế cao minh siêu việt
Không thông hiểu, mãi miết luân hồi
Khi Tứ Thánh Đế hiểu rồi
Thật sự giác ngộ, nổi trôi dứt liền.
* Khổ Thánh Đế căn nguyên theo đó
Liền hiểu rằng do có nguyên nhân
* Là Tập Thánh Đế rất gần
Nguyên nhân biết rõ thì cần diệt ngay.
* Diệt Thánh Đế điều này thông suốt
Phải diệt tuốt các khổ tuyệt giòng,
Muốn diệt các khổ như mong
* Dùng Đạo Thánh Đế gồm trong tám đường.
Tứ Diệu Đế tận tường giác ngộ
Thời Hữu Ái tuyệt lộ, diệt trừ
Sự dẫn dắt trong huyễn hư
Một đời sống khác đoạn trừ tuyệt căn
Liền biết rằng không còn hậu hữu
Đã thành tựu giải thoát luân hồi ”.
Thế Tôn Thiện Thệ nói rồi
Ngài lại thuyết giảng thêm thời pháp trên :
“ Vì không thấy móng nền Tứ Đế
Nên mới để luân chuyển nhiều đời
Khi sự thực nhận thức rồi
Nguyên nhân đưa đến một đời tương lai
Trừ diệt ngay ; khổ căn trừ dứt
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 127
Đời sống khác lập tức không còn ”.
4. Trong thời gian đức Thế Tôn
Kô-Tí-Ma-Gá vẫn còn trú đây
Thì pháp thoại sau đây được giảng
Thật viên mãn cho Chúng-trung-tôn :
“ Đây Giới - Định - Tuệ giữ tròn
Định tu với Giới, bảo tồn trước sau
Sẽ bền lâu lợi nhiều, chứng đạt
Những quả vị to tát, nhiệm mầu
Tuệ tu với Định dài lâu
Đưa đến quả vị lớn lao, lợi nhiều
Tâm với Tuệ thuận chiều tu tập
Sẽ đạt được điều rất lợi an
Đưa đến giải thoát hoàn toàn
Các món lậu-hoặc vẫn đang hiện còn
Thoát dục-lậu, thoát xong hữu-lậu
( Tri-kiến-lậu là hữu-lậu này )
Thoát vô-minh-lậu, từ đây
Giải thoát phiền não, đoạn rày vô minh ”.
5. Đức Thế Tôn hành trình du hóa
Tại Kô-Ti-Ga-Má trải qua
Thấy vừa đủ việc giác tha
Gọi Tôn-giả A-Nan-Đa, bảo là :
“ Na-Đi-Ka (1) chúng ta sẽ đến ”.
Đức A-Nan vâng lệnh Thế Tôn
Thông báo cho các Sa-môn
Rồi Phật cùng Chúng-trung-tôn lên đường
Khi đến nơi, Pháp Vương tạm ngụ
_______________________________
(1) : Nàdikà.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 128
Tại ngôi nhà gạch cũ tên là
Gin-Cha-Ka-Va-Sa-Tha (1).
6. Vị thị giả A-Nan-Đa, một thời
Đã đến nơi Thế Tôn, đảnh lễ
Rồi Tôn-giả ngồi kế một bên
Đoạn bạch với đức Phật liền :
“ Kính bạch Đại Giác ! Dựa trên những điều
Tại nơi đây, bao nhiêu sự kiện
Na-Đi-Ka diễn biến xảy ra :
– Như vị Tỷ Kheo Sa-Tha (2)
Đã mệnh chung, nay sinh qua cõi nào ?
Hậu thế như thế nào trạng thái ?
– Tỷ Kheo Ni từng trải Nan-Đa (3)
Mệnh chung tại Na-Đi-Ka
Hậu thế trạng thái, sinh qua cõi gì ?
– Hay Cư-Sĩ thọ trì giới hạnh
Su-Đát-Ta (4) mệnh tận, qua đời
Đã sinh về cõi đâu nơi ?
Hậu thế trạng thái cuộc đời ra sao ?
– Su-Cha-Ta (5) thuộc vào Tín-nữ
Na-Đi-Ka bản xứ, từ trần
Có sinh về cõi thiên, nhân ?
Hậu thế trạng thái nhân thân thế nào ?
– Ka-Ku-Tha (6) thuộc vào Cư-Sĩ
Ka-Linh-Ga (6) hay Ní-Ka-Ta (6)
_______________________________
(1) : Ginjakàvasatha .
(2) :Tỷ Kheo Sàtha . (3) : Tỷ Kheo Ni Nandà .
(4): Thiện
(6) : Các Cư Sĩ : Kakudha , Kàlinga , Nikata .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 129
Cư-sĩ Ka-Tít-Sa-Pha (1)
Hoặc Cư-sĩ Sanh-Tút-Tha (1 )& Tút-Thà (1)
Cư-sĩ Su-Phách-Đa (1) & Phách-Đá (1)
Các vị ấy đều đã qua đời
Tại Na-Đi-Ka một thời
Không biết các vị sanh nơi cõi nào ?
Trạng thái như thế nào hậu thế ?
Mong Thế Tôn hãy kể cho con ”.
7. – “ Này A-Nan-Đa ! Sa-môn
Sa-Tha diệt tận không còn sót dư
Các lậu-hoặc đoạn trừ, đáng quý
Với thắng trí, chứng ngộ, trú an
Hiện tại vô-lậu Niết-bàn
Với tâm giải thoát, tuệ quang sáng lòa.
– Tỷ-Kheo-Ni Nan-Đa quá khứ
Đã đoạn năm kiết sử hạ phần
Viên tịch, hóa sinh Thiên tầng
Từ đó sẽ nhập Niết-bàn, vô sanh.
– Su-Đát-Ta thiện lành Cư sĩ
Đã diệt kỹ kiết sử ba phần
Làm giảm thiểu tham, si, sân
Tư-Đà-Hàm quả, chứng phần Nhất Lai
Chỉ một lần đời này trở lại
Rồi diệt tận khổ hải, ái hà.
– Còn tín nữ Su-Cha-Ta
Diệt ba kiết sử, chứng mà Dự Lưu
Tu-Đà-Hoàn, Thất Lai vị ấy
_______________________________
(1) : Các Cư Sĩ : Katissabha , Santuttha , Tuttha ,
Subhadda, Bhadda .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 130
Sinh trở lại chỉ có bảy đời.
– Các vị Cư-sĩ một thời
Tại Na-Đi-Ká qua đời nơi đây
Ka-Ku-Thá xứ đây Cư-sĩ
Ka-Linh-Ga, Cư-sĩ Tút-Tha,
Cư-sĩ Ka-Tí-Sa-Pha,
Hay Sanh-Tút-Thá & Phách-Đa, các vì
Su-Phách-Đa cùng Ni-Ka-Tá
Cùng hơn cả năm chục Thiện-nam
Và cả Tín-nữ các hàng
Tại Na-Đi-Ká lành an từ trần
Họ đều diệt năm phần kiết sử
Tịnh Cư Thiên, tuần tự an nhàn
Từ đó tấn nhập Niết-bàn
Không còn sinh lại trái oan đời này.
– Hơn chín mươi thẳng ngay Thiện Tín
Đã quá vãng tại chính nơi này
Diệt ba kiết sử, giảm ngay
Tam độc, chứng quả Nhất Lai đồng thời
Chỉ sinh lại cõi đời một kiếp
Rồi diệt tận ác nghiệp khổ đau.
– Hơn năm trăm vị, không lâu
Tại Na-Đi-Ká trước sau từ trần
Ba kiết sử hạ phần đã diệt
Chứng Dự Lưu, bảy kiếp tái sinh
Không còn ác đạo điêu linh
Sẽ đạt Chánh Giác thánh minh sau này.
8. A-Nan-Đa ! Điều đây không lạ
Vì con người hoặc đã mệnh chung
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 131
Hay sẽ phải chết, mạng cùng
Nếu có ai đó mệnh chung đến thời
Những thân nhân ở đời muốn hiểu
Đều đến hỏi, phiền nhiễu Như Lai
Vì vậy ta giảng pháp này
Đó là Pháp Kính, chỉ bày chánh chân :
“ Thánh đệ tử dù Tăng hay tục
Khi chứng đạt cụ túc nghĩa này
Nếu muốn, tự tuyên bố ngay :
“ Dự Lưu đã chứng, hiển bày thăng hoa
Đối với ta, không còn đọa xứ
Không tái sinh ác thú, bàng sanh
Không đọa địa ngục quẩn quanh
Sẽ đạt Chánh Giác quả lành không xa ”.
9. A-Nan-Đa ! Giảng qua Pháp Kính
Là pháp gì ? mà chính người tu
Soi Gương Chánh Pháp đặc thù
Có thể tuyên bố quả tu của mình
Đã đắc thành Tu-Đà-Hoàn quả
Là Dự Lưu, đạo quả Thất Lai
Chỉ còn bảy kiếp trải dài
Sẽ đạt Chánh Giác không sai, chẳng chầy.
Quả Dự Lưu vị này chứng ngộ
* Vì đã có chánh tín Phật ân
Tin tưởng vào Phật vô ngần
Với mười tôn hiệu Thiên Nhân tôn sùng.
* Có chánh tín muôn trùng Chánh Pháp
Được Thế Tôn thuận hạp giảng bàn
‘Thiết thực, vượt ngoài thời gian’
‘Đến để mà thấy’, hoàn toàn không ngăn
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 132
‘Có khả năng trừ mê, giải thoát’,
‘Kẻ trí giác thâm hiểu tự mình’.
* Lại có chánh tín đinh ninh
Tin vào Tăng Bảo hành trình chánh chân
Thanh-tịnh Tăng, Thánh Tăng hai bậc
Tăng đệ tử ‘chân trực’ tu hành
‘Chân chánh’, ‘chân trí’ tâm lành
Chúng Tăng ‘chân tịnh’ chí thành nghiêm tu,
Tức toàn chu bốn đôi tám vị
Tăng đệ tử Đại Trí Thế Tôn
Là những thanh tịnh Sa-môn
Đáng được nghênh đón, kính tôn, cúng dường
Đáng chắp tay, tán dương, chiêm ngưỡng
Là ruộng phước vô thượng trên đời
Cụ túc giới hạnh mọi thời
Bậc thánh mến chuộng, nói lời tán dương
Được viên mãn mọi đường, toàn đức
Không mẻ sứt, ô nhiễm, ố tỳ
Giới hạnh vị này uy nghi
Đưa đến giải thoát, không chi buộc ràng
Được người trí hoàn toàn khen ngợi
Hướng dẫn tới thiền định. Lành thay !
– A-Nan-Đa ! Pháp Kính đây
Các Thánh đệ tử sau này chứng tri
Pháp nghĩa này, muốn vì tuyên bố
Về bản thân đã có đạt thành :
‘Ta chứng Dự Lưu quả lành
Với ta, không có tái sanh đọa trầm
Không sinh nhằm bàng sanh, địa ngục
Đọa ác đạo, hay súc sinh loài
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 133
Chỉ còn bảy lần tái lai
Sẽ đạt Chánh Giác không sai, sau này ”.
10. Khi đức Phật ở Na-Đi-Ká
Pháp thoại này Ngài đã giảng ra :
“ Đây Giới -Định -Tuệ sâu xa
Định tu với Giới, trải qua thực hành
Đem lợi ích lớn nhanh, chứng đạt
Những quả vị an lạc, nhiệm mầu
Tuệ tu với Định dài lâu
Đưa đến quả vị lớn lao, lợi nhiều
Tâm với Tuệ thuận chiều tu tập
Sẽ đưa đến điều rất lợi an
Đưa đến giải thoát hoàn toàn
Các món lậu-hoặc vẫn đang hiện còn
Thoát dục-lậu, thoát vòng hữu-lậu
(Tri-kiến-lậu là hữu-lậu này )
Thoát vô-minh-lậu, từ đây
Giải thoát phiền não, đoạn rày vô minh ”.
11. Đức Thế Tôn hành trình du hóa
Na-Đi-Ka thấy đã đủ rồi
Gọi ngài A-Nan đến nơi
Bảo rằng : “ Đến lúc phải rời nơi đây
Vê-Sa-Ly (1) thành này sẽ đến ”.
Đức A-Nan vâng lệnh thi hành
_______________________________
(1) : Vesali ( Tỳ-Xá-Ly ) là thủ phủ của vương quốc Licchavi , một
trung tâm chính trị, thương mại và văn hóa quan trọng thời Phật.
Nơi đây còn là cái nôi của nền văn hóa triết thuyết Phật-giáo.Tại
đây, đức Phật đã tuyên bố 3 tháng nữa Ngài nhập Niết-Bàn ; và
cũng tại đây, Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ 2 được tổ chức
sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 134
Phật cùng Tăng chúng tịnh thanh
Nhắm nơi sẽ đến khởi hành cùng đi.
Đến Am-Bá-Ba-Li trú lại
Vườn xoài tại Tỳ-Xá-Ly thành (1).
.
12. Nơi đây Phật thuyết pháp lành :
“ Tỷ Kheo Tăng sống tịnh thanh ở đời
Phải luôn nhớ những lời ta nhủ :
‘Phải an trú chánh niệm, giác thời’.
Thế nào Tỷ Kheo ở đời
An trú chánh niệm mọi nơi, mọi bề ?
Tứ Niệm Xứ quán về thân, thọ
Về tâm, pháp – thấy rõ, hành thâm
Tinh tấn, tỉnh giác, nhiếp tâm
Nhiếp phục tham ái, mê lầm, ưu bi.
Các Tỷ Kheo ! Phải ghi nhớ rõ
Và theo đó chánh niệm hành theo.
13. Thế nào, này các Tỷ Kheo !
Là sự tỉnh giác Tỷ Kheo phải hành ?
Khi tới, lui ; biết mình lui, tới
Khi nhìn quanh biết bởi mình làm
Hay khi co duỗi tay chân
Mặc y, mang bát hay cần uống ăn
Khi nhai, nuốt, nói năng - Tỉnh giác
Đại, tiểu tiện, nhổ khạc - Biết thầm
Khi đi, đứng ; lúc ngồi, nằm
Khi thức, im lặng, trầm ngâm nghĩ gì.
Các Tỷ Kheo ! Mọi thì trú lạc
Trong chánh niệm, tỉnh giác nơi nơi
_______________________________
(1) : Vườn Ambapàli .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 135
Đó lời Ta dạy các ngươi
Tỷ Kheo Tăng chúng nhớ lời ta khuyên ”.
14. Lúc bấy giờ, căn nguyên được biết
Bậc siêu việt Đại Giác Thế Tôn
Đã cùng Đại Chúng Sa-Môn
Vê-Sa- Li đến, Pháp-môn hoằng truyền
Có đại duyên Thế Tôn, Ứng Cúng
Trú vườn xoài, Tăng chúng uy nghi
Kỹ nữ Am-Bá-Ba-Li
Chủ nhân Am-Bá-Ba-Li vườn xoài
Mừng vô hạn, truyền ngay gia bộc
Thắng nhiều xe ngựa tốt dàn hàng
Chủ nhân lên xe sẵn sàng
Một đoàn thẳng tiến để sang vườn xoài.
Xe đi tới tận nơi đi được
Rồi xuống xe cất bước bộ hành
Gặp Phật uy nghi tịnh thanh
Nàng liền đảnh lễ, tâm thành ngồi bên.
Phật thuyết pháp tuỳ duyên, thứ tự
Cho tín nữ Am-Bá-Ba-Li
Giảng dạy, khích lệ tư duy
Khiến tâm phấn khởi, mọi thì hân hoan.
Rất hoan hỷ nên nàng bạch Phật :
– “ Bạch Thế Tôn ! Chân thật thỉnh Ngài
Cùng Chúng Tăng, vào ngày mai
Đến nhà con để thọ trai cúng dường ”.
Đức Phật vẫn bình thường im lặng
Là cách đấng Đại Giác nhận lời.
Nàng biết Phật đã nhận lời
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 136
Đảnh lễ, hữu nhiễu rồi rời nơi đây.
15. Lúc bấy giờ ở ngay thành thị
Vê-Sa-Ly các vị tín thành
Người Lích-Cha-Vi, nghe rành
Thế Tôn đã đến cạnh thành phố đây
Cùng Đại chúng vườn xoài trú cả
Vườn của nàng Am-Bá-Ba-Li
Liền thắng nhiều xe tức thì
Cùng nhau xuất phát để đi đến vườn.
Các vị này phô trương phục sức
Người sắc xanh thì thực toàn xanh
Áo quần, trang sức màu xanh
Còn nhiều vị khác lại tranh màu vàng
Áo quần vàng, màu vàng trang sức
Các vị khác thì thực đỏ tươi
Quần áo, trang sức cả người
Nhiều vị thích trắng thì thời trắng luôn
Đồ trang sức, áo quần đều trắng,
Cả bọn cùng đi thẳng vườn xoài.
16. Đi giữa đường lại gặp ngay
Am-Bá-Ba-Lí cùng vài cổ xe
Đang ngược chiều, rồi xe nàng đánh
Va chạm mạnh xe Lích-Cha-Vi
Các thanh niên Lích-Cha-Vi
Liền hỏi duyên cớ do vì tại sao
Mà xe nàng đụng vào xe họ
Nàng tín nữ nói nhỏ nhẹ ngay :
– “ Xin lỗi quý công tử đây !
Vì quá hoan hỷ được Ngài Thế Tôn
Cùng Sa-môn chúng Tăng thanh tịnh
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 137
Đã nhận lời cung thỉnh của tôi
Ngày mai quang lâm nhà tôi
Để thọ thiết cúng ngọ thời trai diên ”.
Lích-Cha-Vi thanh niên các vị
Liền năn nỉ Am-Bá-Ba-Li :
– “ Hãy nhường chúng tôi trai nghi
Cúng dường đức Phật ngọ thì ngày mai
Nếu điều này được nàng thuận lấy
Trăm ngàn đồng đổi lấy trai diên ”.
– “ Mong quý công tử cảm phiền !
Dù có đổi lấy cả miền đất đai
Của Vê-Sa-Ly này, cộng với
Vùng phụ thuộc rộng tới vô lường
Thì tôi cũng không thể nhường
Bữa ăn quan trọng cúng dường Phật, Tăng ”.
Lích-Cha-Vi chúng nhân tức tối
Búng ngón tay và nói một hồi :
– “ Chúng ta bị thiếu nữ xoài
Phổng tay trên, đánh bại ngay mất rồi ! ”.
Lích-Cha-Vi các người đi nữa
Đánh xe thẳng đến cửa vườn xoài.
17. Thế Tôn xa thấy từ ngoài
Lích-Cha-Vi các vị này đi vô
Liền nói với môn đồ Tăng chúng :
– “ Các Tỷ Kheo ! Đại chúng Tăng thời
Vị nào chưa từng thấy nơi
Chư Thiên Đao Lợi – cõi trời Băm ba
Thì hãy nhìn Lích-Cha-Vi chúng
Rất giống Chúng Tam thập tam Thiên ”.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 138
18. Các vị Lích-Cha-Vi trên
Nhắm chỗ Phật ngự, họ liền tới nơi
Đảnh lễ Ngài, rồi ngồi bên cạnh
Phật thuyết pháp chân chánh, thuận tùy
Cho những vị Lích-Cha-Vi
Khiến họ hoan hỷ không chi sánh bằng
Pháp khích lệ, vô ngần hoan hỷ.
Sau thời giảng, các vị bạch rằng :
– “ Cung thỉnh Thế Tôn & Chúng Tăng
Ngày mai thiết lễ Trai Tăng tại nhà ”.
– “ Này các vị ! Thật là đáng tiếc
Như Lai sẽ có việc phải đi
Vì nàng Am-Bá-Ba-Li
Đã thỉnh Ta với các vì chúng Tăng
Ngày mai nàng cúng dường trai phạn
Với lòng thành vô hạn, vô biên ”.
Lích-Cha-Vi các vị trên
Thất vọng, tức tối bung liền ngón tay
Và nói ngay : “ Chúng ta chậm bước
Thiếu nữ xoài đến trước, thắng ngay
Phổng tay trên cuộc phước này
Nhưng ta cũng sẽ có ngày trai tăng ”.
Lích-Cha-Vi chúng nhân hoan hỷ
Tán thán lời dạy quý của Ngài
Cùng đứng dậy, đảnh lễ ngay
Hữu nhiễu xong, các vị này cáo lui.
19. Đêm đã lùi, bình minh sáng tỏa
Thức dậy, nàng Am-Bá-Ba-Li
Sửa soạn vườn nhà tức thì
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 139
Tư xá tại Vê-Sa-Ly thành này
Chuẩn bị ngay món ăn thượng vị
Loại cứng, mềm trân quý sẵn sàng.
Thế Tôn cùng Đại chúng Tăng
Đắp y, mang bát nghiêm trang đến nhà
Thỉnh Thế Tôn ngồi tòa soạn sẵn
Cả Đại chúng tĩnh lặng, uy nghi
Chủ nhân Am-Bá-Ba-Li
Thân hành dâng cúng trai nghi các phần.
Sau bữa ăn cúng dâng đúng pháp
Thế Tôn đã rời bát, rửa tay
Thì vị nữ chủ nhân này
Lấy một ghế thấp để bày một bên
Nàng ngồi xuống rồi liền bạch Phật :
– “ Bạch Thế Tôn ! Thể tất điều này
Tâm con kính ngưỡng sâu dày
Xin nguyện dâng cúng vườn xoài của con
Đến Thế Tôn và chư Tăng chúng
Để hoằng pháp độ chúng sinh chung ”.
Đức Phật với tâm bao dung
Nhận lảnh vườn nọ để dùng độ sinh.
Pháp trọn lành Thế Tôn giảng tới
Khiến chủ nhân phấn khởi, hân hoan
Cùng với Tăng chúng các hàng
Đức Phật đứng dậy, nghiêm trang ra về.
20. Liên quan đến vấn đề hoằng pháp
Vê-Sa-Ly, thì pháp thoại này
Đã được đức Phật giảng bày
Cho Tỷ Kheo chúng rõ ngay lý mầu :
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 140
“ Đây là Giới, tiếp sau : Định, Tuệ
Định và Giới vừa kể, cùng tu
Đưa đến quả vị đặc thù
To lớn, lợi ích cho dù ở đâu
Hoặc ví dầu Tuệ tu với Định
Sẽ đưa đến lợi ích vô cùng
Tâm cùng với Tuệ tu chung
Đưa đến giải thoát, diệt cùng khổ đau
Các lậu-hoặc trước sau các loại
Phải thoát khỏi dục-lậu ngoài trong
Hữu-lậu ( tri kiến ) thoát xong
Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trầm luân.
21. Đức Thế Tôn trong phần du hóa
Vê-Sa-Ly thấy đã đủ rồi
Gọi A-Nan-Đa đến nơi
Bảo rằng : “ Ta hãy cùng rời, đi qua
Ba-Lu-Va làng này sẽ đến ”.
Đức A-Nan vâng lệnh thi hành
Phật cùng Tăng chúng tịnh thanh
Đến làng, đức Phật an lành trú đây.
22. Họp Chúng Tăng đủ đầy, Phật dạy :
“ Các Tỷ Kheo ! Chúng hãy an cư
Ba tháng mưa, vì lòng từ
Để tránh dẫm đạp mầm cây, côn trùng
Vê-Sa-Ly ở xung quanh đấy
Nếu nơi ấy có những người thân
Còn Như Lai cùng A-Nan
An cư nhập hạ tại làng này đây ”.
_______________________________
(1) : Làng Baluvà.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 141
Chư Tỷ Kheo vâng ngay lời dạy
Tự tìm chỗ để lại an cư.
23. Trong khi ấy, đấng Đại Từ
Suốt trong ba tháng an cư tại làng
Ba-Lu-Va thời gian nhập hạ
Đức Thế Tôn đã ngã bệnh duyên
Cơn bệnh trầm trọng khởi lên
Rất là đau đớn, gần bên diệt thời
Nhưng Thế Tôn vững nơi chánh niệm
Luôn tỉnh giác, nhẫn chịu cơn đau.
Đức Phật tự nghĩ như sau :
“ Thật không hợp lẽ, mặc dầu bệnh ta
Rất trầm trọng, nhưng ta không thể
Diệt độ sớm vì lẽ bệnh duyên
Trong khi Tăng chúng hiện tiền
Chưa được từ biệt, mà liền tịch ngay
Vậy ta phải vững đầy tinh tấn
Nhiếp phục tận cơn bệnh nặng đây
Duy trì mạng sống huyễn này ”.
Nhờ vào tinh tấn, nên Ngài định tâm
Nhiếp phục bệnh dần dần thuyên giảm.
24. Khi Thế Tôn bệnh tạm đã qua
Một hôm Ngài đã đi ra
Ngồi trên ghế đã soạn ra sẵn rồi
Dưới bóng mát của ngôi Tinh-xá.
Lúc bấy giờ Tôn-giả A-Nan
Đến nơi đảnh lễ nghiêm trang
Một bên ngồi xuống, hân hoan bạch rằng :
“ Bạch Thế Tôn ! Con hằng lo ngại
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 142
Thấy Thế Tôn đã trải bệnh duyên
Con rất đau khổ, buồn phiền
Cảm thấy yếu ớt, ngửa nghiêng tâm mình
Mắt mờ mịt không nhìn rõ hướng,
Nhưng được thấy vô lượng diệu huyền
Ngài đã kham nhẫn vô biên
Tinh tấn nhiếp phục đẩy liền bệnh căn
Con nghĩ rằng cũng chưa phải lúc
Để Thế Tôn lìa tục, Niết-bàn
Vì Ngài chưa vì các hàng
Tứ Chúng đệ tử, sẵn sàng thuyết minh
Lời di giáo đinh ninh, tuyên bố
Nên Ngài chưa diệt độ lúc này ”.
25. – “ A-Nan-Đa ! Đã đủ đầy
Tỷ Kheo Tăng chúng đến nay tịnh, hòa
Còn mong mỏi ở Ta gì nữa
Cả Chánh Pháp gồm chứa tinh hoa
Như Lai đã thuyết giảng ra
Không có phân biệt đâu là ngoài, trong
Hiển, mật giáo thảy đồng tuyên thuyết
Không có việc ta vẫn nắm tay
Pháp giữ lại, không giảng bày
Nếu có ai nghĩ : “ Như Lai chính là
Vị lãnh đạo cao xa Tăng Chúng
Hay Tăng chúng chịu sự dạy răn
Của Như Lai, nhiều cấm ngăn
Người đó di giáo chúng Tăng đi nào !
A-Nan-Đa ! Còn vào sự lý
Thì Như Lai không nghĩ mình là
Người lãnh đạo Tăng tài ba
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 143
Hay Tỷ Kheo Chúng chịu qua luyện rèn
Sự giáo huấn ta quen lý giải
Thì làm sao Ta lại có lời
Di giáo Tăng chúng nơi nơi.
A-Nan ! Ta đã đến thời lão niên
Tám mươi năm trần duyên đã trải
Nay đã già, thân lại héo hon
Như cổ xe đã già mòn
Vẫn còn chạy được do còn trục xe
Nhờ những giây mọi bề chằng chịt
Cũng như vậy, mục đích duy trì
Thân Như Lai cũng giống y
Như nhờ giây nhợ chằng ghì với nhau.
Này A-Nan ! Khi nào ý nghĩ
Như Lai không tác ý, trú tâm
Đến tất cả tướng, không tầm
Diệt trừ cảm thọ, thân tâm an nhàn
Chứng, an trú vô vàn tịch tịnh
Vào Vô Tưởng Tâm Định lâu dài
Chính khi ấy thân Như Lai
Tự tại thoải mái, vượt ngoài khổ đau.
26. A-Nan-Đa ! Trước sau phải quán
Hãy tự mình thắp sáng ngọn đèn
Diệt trừ ỷ lại ươn hèn
Tự mình nương tựa bao phen vào mình
Là hải đảo tự mình nương tựa
Không nương tựa bất cứ nơi đâu
Hãy dùng Chánh Pháp cao sâu
Làm chỗ nương tựa, nhiệm mầu hải đăng
Không nương tựa, tín văn nào khắp
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 144
Vị Tỷ Kheo tự thắp minh đăng
Mình là hải đảo tự thân
Nương vào Chánh Pháp, Pháp đăng soi đường
Không chỗ nào đáng nương tựa cả
Ngoài tự mình hoặc giả Pháp minh.
A-Nan ! Tỷ Kheo thực hành :
* Quán Thân bất tịnh, phải sanh tinh cần
Luôn tỉnh giác, giữ tâm chánh niệm
Phải suy nghiệm, nhiếp phục Ái tham
Ưu bi, khổ não, bất an.
* Quán Thọ thị khổ, mọi đàng trần duyên
Luôn tinh tấn, tâm chuyên tỉnh thức
Giữ chánh niệm, nhiếp phục não phiền.
* Quán Tâm vô thường, đảo điên.
* Quán Pháp vô ngã, cần chuyên tự mình
Luôn tinh tấn, an bình, chánh niệm
Phải suy nghiệm, nhiếp phục Ái tham
Ưu bi, khổ não, bất an
Tỷ Kheo vị ấy chính đang thực hành
Là ngọn đèn tự mình thắp sáng
Nơi nương tựa, căn bản là mình
Đã dùng Chánh Pháp cao minh
Làm đèn dẫn lối, chính mình tự quy.
A-Nan-Đa ! Sau khi ta diệt
Được gọi người siêu việt, tinh hoa
Trong hàng đệ tử của Ta
Là người tự thắp đuốc qua đêm trường
Tự tựa nương chính mình vững chải
Lấy Chánh Pháp làm hải đăng cao
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 145
Chánh Pháp làm chỗ nương vào
Không nơi nào khác để cầu dựa nương ”.
PHẦN III :
1. Bốn lăm năm hoằng dương Pháp Thật
Thời-gian-biểu của Phật hằng ngày
Buổi sáng đắp y nghiêm oai
Mang theo bình bát ra ngoài hóa duyên.
Vê-Sa-Ly Ngài liền đi tới
Để khất thực cùng với A-Nan,
Sau ngọ thực ở bên đàng
Trở về, Ngài bảo A-Nan điều này :
– “ A-Nan-Đa ! Lấy ngay tọa cụ
Như Lai muốn an trú nghỉ trưa
Cha-Ba-La (1), điện thờ xưa
Nơi đây lâu lắm ta chưa ghé vào ”.
Đức A-Nan đi sau nghiêm cẩn
Lấy tọa cụ cầm sẵn, theo Ngài.
2. Cha-Ba-La, tại điện này
Thế Tôn khi đến vào ngay chỗ ngồi
Đã soạn sẵn tại nơi đúng lệ
A-Nan-Đa đảnh lễ Phật rồi,
Một bên Thế Tôn, đã ngồi.
Nhìn A-Nan, Phật mở lời tuyên xưng :
“ A-Nan-Đa ! Tưng bừng khả ái
Vê-Sa-Ly thành ấy đẹp thay !
Điện thờ Cha-Ba-La đây
_______________________________
(1) : Điện thờ ngoại đạo Càpàla .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 146
Những điện thờ khác cũng tày gấm hoa :
U-Đê-Na , Gô-Ta-Ma-Ká (1)
Và Ba-Hú-Pút-Tá (1) đẹp xinh
Các điện thờ nữa quanh thành
Sách-Tăm-Bá-Ká (1), Sa-Rành-Đa-Đa (1)
Những điện thờ kể ra, sở tại
Thật khả ái, xinh đẹp mỹ miều.
3. A-Nan ! Những ai sớm chiều
Tu Tứ Thần Túc (2) thật nhiều, cần chuyên
Thật lão luyện, vững bền, chắc chắn
Thật thiện xảo, thù thắng, thâm sâu
Người ấy có thể sống lâu
Đến hết một kiếp, nhiệm mầu thời gian
Hay sống phần kiếp đang còn lại
Không có gì trở ngại Như Lai ”.
4. Dù Phật gợi ý điều này
Nhưng A-Nan vẫn ngồi ngây như thường
Tâm Tôn giả, Ma Vương ám ảnh
Nên mụ mẫm, thần trí tối tăm
Đã không cầu thỉnh thành tâm :
“ Ngưỡng bạch Đại Giác ! Xin thầm xót thương
Chúng sinh đương mê lầm, tham dục
Vì lợi ích, hạnh phúc Trời, người
_______________________________
(1) : Các điện thờ ngoại đạo :Udena , Gotamaka , Bahuputta ,
Sattambaka , Sàrandada .
(2) : Tứ Thần Túc ( Cattaro iddhipàdà ) còn gọi là Tứ Như Ý Túc
( 4 trong 37 Phẩm Trợ Bồ-Đề – Bodhipakkhiya dhamma ) gồm :
Dục thần túc ( Chandiddhipàdo) ,Tinh Tấn thần túc ( Viriyiddhi-
pàdo ), Tâm (Tư Duy) thần túc ( Cittiddhipàdo) và Trạch Pháp
(trạch quán) thần túc ( Vimansid dhipàdo ) .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 147
Thỉnh Thế Tôn ở lại đời
Cho đến trọn kiếp đương thời trải qua
Vì thương tưởng Ta-Bà uế độ
Chúng sinh cần cứu khổ trầm luân ”.
Dù Phật gợi ý ba lần
Nhưng A-Nan vẫn tâm thần như mê
Ngồi lặng thinh chẳng hề thỉnh, để
Đấng Điều Ngự trụ thế vĩnh trường
Vì A-Nan bị Ma Vương
Ám ảnh, chi phối nên dường ngây si
Nên chẳng vì chúng sinh khổ nghiệp
Thỉnh Thế Tôn trọn kiếp sống dài
Vì sự lợi ích mọi loài
Hóa độ sinh chúng, hoằng khai Pháp mầu.
Ngưng giây lâu, Thế Tôn đã bảo :
“ A-Nan-Đa ! Việc đạo cần gì
Thì A-Nan hãy cứ đi
Và làm những việc hợp quy, phải thời ! ”.
Vâng theo lời, đứng lên, đảnh lễ
Hữu nhiễu quanh Thiện Thệ, đi ra.
7. A-Nan đi chưa bao xa
Ma Vương, hay gọi Ác Ma hiện vào
Trước Thế Tôn, y chào và nói :
– “ Thưa Thế Tôn ! Đã tới hẹn kỳ
Thế Tôn hãy diệt độ đi !
Trước đây Ngài đã hứa khi đạo thành :
‘Đến khi nào chúng sinh hiểu đúng
Hàng Tứ Chúng đệ tử tu trì
Là Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 148
Thiện
Đều sáng suốt, giữ mình chân chánh
Có kỷ luật, tịnh hạnh, đa văn
Duy trì Chánh Pháp sẵn sàng
Chánh Pháp, Tùy Pháp họ đang tựu thành
Hiểu giáo lý ngọn ngành, căn bản
Có thể giảng, tuyên bố, trình bày
Khai triển, phân tích được ngay
Xác định, giải thích đủ đầy căn nguyên
Khi tà đạo khởi, liền chất vấn
Khéo hàng phục mà vẫn nhu ôn.
Các hàng đệ tử Thế Tôn
Có thể truyền bá Pháp môn diệu huyền
Khi đó Ngài an nhiên tịch diệt’.
Nay tôi biết Tứ Chúng của Ngài
Đã đạt những điểm trên đây
Xin giữ lời hứa, nhập ngay Niết Bàn.
Thưa Thế Tôn ! Nói sang việc khác
Ngài đã nói : ‘Hỡi Ác Ma này !
Ta sẽ không diệt độ ngay
Khi nào phạm hạnh ta đây chưa truyền
Chưa giảng dạy mãn viên, thịnh đạt
Chưa thành tựu, phổ quát lan xa
Nghĩa là được khéo giảng ra
Cho loài người thấu hiểu qua Pháp mầu’.
Nay đâu đâu cũng đều biết đến
Pháp của Ngài luân chuyển bao năm
Nhiều người hiểu thấu Pháp thâm
Vậy Ngài có thể an tâm diệt rồi !
Thưa Thế Tôn ! Đến thời diệt độ
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 149
Thiện Thệ hãy tuyên bố Niết Bàn ! ”.
9. Nghe Ma Vương nói một tràng
Thế Tôn điềm tỉnh ngồi an, nói rằng :
“ Này Ác Ma ! Ngươi hằng chờ đợi
Mong Như Lai sớm tới diệt thời
Hãy an tâm ! Sắp đến rồi,
Không bao lâu nữa Ta thôi hoằng truyền
Sau ba tháng, đến duyên tịch diệt
Như Lai sẽ từ biệt cõi đời ”.
Ác Ma thỏa mãn với lời
Đức Phật đã hứa, liền rời nơi đây.
10. Cha-Ba-La điện này từ đó
Ngài tỉnh giác, từ bỏ Thọ, Hành
Luôn giữ chánh niệm tịnh thanh
Sẵn sàng cho sự an lành ra đi
Nghĩa là không duy trì sự sống
Lâu hơn nữa trong chốn thế gian.
Bỗng nhiên, hiện tượng kinh hoàng
Quả đất chấn động, sấm vang đầy trời
Khắp mọi người tóc lông dựng ngược
Đều ghê rợn như trước họa tai
Thế Tôn hiểu ý nghĩa này
Về sự chấn động nên Ngài thốt lên :
“ Mạng sống con người có nên
Hữu hạn, vô hạn chẳng bền lâu đâu !
Tu sĩ từ bỏ không cầu
Mạng sống không muốn làm sao kéo dài
Nội tâm chuyên nhất thẳng ngay
An trú thiền định, hiển bày lìa mê
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 150
Như thoát áo giáp nặng nề
Đang mặc gò bó, nhất tề cởi ra ”.
11. Lúc ấy A-Nan-Đa Tôn-giả
Liền suy nghĩ : ‘Thật quá lạ lùng
Thật là hy hữu vô cùng
Đại địa chấn động, nổ đùng ghê thay !
Nhân duyên gì điều này xảy đến
Khiến đất trời rung chuyển, sấm vang
Phải bạch hỏi Phật rõ ràng’.
12. Nghĩ rồi Tôn-giả vội vàng vào trong
Nơi điện thờ Thế Tôn có mặt
Đảnh lễ Phật, ngồi xuống một bên
Tôn giả bạch Thế Tôn liền :
– “ Bạch Ngài ! Không hiểu nhân duyên thế nào
Mà quả đất ào ào chấn động
Thật kỳ lạ, lồng lộng sấm trời
Điều ghê rợn khiến mọi người
Tóc lông dựng ngược, không lời thốt ra
Bạch Thế Tôn ! Xảy ra điều ấy
Nhân duyên gì , xin hãy dạy cho ”.
13. – “ Này A-Nan-Đa ! Nguyên do
Đại địa chấn động, sấm to khắp miền
Do tám nhân, tám duyên mà có
Tám điều đó giải thích thế này :
* A-Nan-Đa ! Đại địa đây
Thiết lập trên nước, gió đầy phía trên
Và hư không làm nền cho gió
Khi đại phong từ đó khởi lên
Gió lớn làm nổi sóng liền
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 151
Sức sóng quá mạnh, biến thiên lớn dần
Là nguyên nhân đất đai chấn động
Điều thứ nhất chấn động xảy ra.
14. * Này A-Nan ! Lại nói qua
Một điều khác nữa cũng là nguyên nhân
Vị Sa-môn có thần thông lạ,
Bà-la-môn nọ đã luyện thành
Thần thông huyền bí phát sanh,
Đại oai lực của các hàng Chư Thiên.
Những vị này họ liền nhất quán :
Quán địa tánh có hạn tinh tường
Quán thủy tánh là vô lường
Vị ấy có thể phô trương oai thần
Khiến quả đất cõi trần chấn động
Là nhân duyên chấn động thứ hai.
15. * A-Nan-Đa ! Lại điều này
Khi vị Bồ Tát nhập thai giáng trần
Đâu-Suất cung bỏ thân, chánh niệm
Giữ tỉnh giác nhập điểm mẫu thai
Ngay khi đó quả đất đây
Chấn động rất mạnh ; nhân này thứ ba.
16. * A-Nan-Đa ! Đến khi Bồ Tát
Đủ thời gian để thoát mẫu thai
Khi Đản sinh trọng đại này
Địa cầu chấn động ; nhân này thứ tư.
17. * Vị Bồ Tát chân như chứng đạt
Thành Chánh Giác rực rỡ, nghiêm trang
Địa cầu chấn động, sấm vang
Mừng sự Thành Đạo huy hoàng, cao thâm
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 152
Đây nhân duyên thứ năm thù thắng
Quả đất này có chấn động to.
18. * A-Nan ! Lại có nguyên do
Nhân duyên thứ sáu khiến cho địa cầu
Chấn động mạnh đâu đâu cũng biết
Khi Như Lai đã quyết thấm nhuần
Thuyết pháp để chuyển pháp luân
Giáo pháp cao thượng giảng tuần tự ra.
19. * A-Nan-Đa ! Khi Ta tỉnh giác
Trong chánh niệm, dứt khoát tự tri :
Mạng sống sẽ không duy trì,
Địa cầu chấn động, sấm thì rền vang.
Đây là hàng nhân duyên thứ bảy
Đất chấn động, lừng lẫy sấm trời.
20. * A-Nan-Đa ! Lại đến thời
Khi Như Lai đã lìa rời thế gian
Vô-dư-y Niết-bàn tấn nhập
Cơn chấn động tràn ngập địa cầu
Sấm sét vang động rất lâu.
Nhân duyên thứ tám vì sao việc này
Khiến đại địa chuyển xoay chấn kích
Tám điều trên giải thích rõ ràng.
21. A-Nan-Đa ! Lại nói sang
Tất cả tám chúng các hàng kể ra :
Sát-Đế-Lỵ chúng, Ma Vương chúng,
Tứ Thiên Vương chúng ; chúng Sa-môn,
Cư-sĩ chúng, Bà-la-môn,
Đao Lợi Thiên chúng và còn Phạm Thiên.
22. Này A-Nan ! Ta liền nhớ lại
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 153
Hơn trăm lần đến tại chúng này :
Chúng Sát-Đế-Lỵ, nơi đây
Trước khi ngồi xuống, chưa rày nói năng
Thì dung sắc của hàng Sát-Lỵ
Cũng giống tỉ dung sắc của Ta
Giọng Sát-Đế-Lỵ nói ra
Và giọng ta nói cũng là giống nhau.
Với pháp thoại Ta mau giảng kỹ
Làm phấn khởi, hoan hỷ biết bao
Khi Ta đang nói pháp mầu
Cả chúng không biết người nào nói đây ?
Chư Thiên hay Người nào chí thiện
Sau pháp thoại Ta biến đi liền
Chúng không biết : ‘Là chư Thiên
Hay là Người, lại biến liền mất tăm’.
23. Ta nhớ lại hơn trăm lần đến
Bà-la-môn chúng, hiện thân vào
Dung sắc thì rất giống nhau
Giọng nói cũng giống, không sao phân rành.
Hơn trăm lần đến Cư-Sĩ chúng,
Hơn trăm lần đến chúng Sa-môn,
Bốn Thiên Vương Tỳ-Sa-Môn
Ta đây cũng đã đến hơn trăm lần,
Với Thiên chúng thượng tầng Đao Lợi
Hơn trăm lần đã tới nơi đây,
Chúng Ma Vương, tại nơi này
Chính ta đã đến nơi đây trăm lần,
Chúng Phạm Thiên thượng tầng Thiên giới
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 154
Hơn trăm lần Ta tới nơi đây,
* Tại các Chúng nói trên này
Trước khi ngồi xuống, chưa rày nói chi
Và trước khi bắt đầu đối thoại
Dung sắc Ta cùng loại chúng này
Giọng nói y hệt chúng đây
Với phần pháp thoại chứa đầy tinh hoa
Ta giảng dạy chỉ ra, khích lệ
Làm phấn khởi, tâm thể hân hoan.
Khi Ta nói pháp rõ ràng
Thì chúng không biết ai đang nói này
Chư Thiên hay là người ta vậy ?
Sau khi Ta giảng dạy mãn viên
Thì Ta đã biến mất liền
Chúng đây không biết chư Thiên hay người
Mà nói pháp, những lời thù thắng
Rồi biến mất, chúng chẳng thấy gì !
A-Nan-Đa ! Hãy tường tri
Đó là Tám Chúng thuận tùy trải qua.
24. A-Nan-Đa ! Tám điều Thắng Xứ
Tám Thắng Xứ được hiểu thế nào ?
* Nội sắc đã quán tưởng vào
Thấy loại Ngoại sắc trước sau thật là
Có hạn lượng, phân ra đẹp, xấu
Vị ấy bảo với nhận thức là :
‘Sau khi nhiếp thắng chúng qua
Ta biết, ta thấy’. Đó là đầu tiên.
26. Có một vị quán liền Nội sắc
Thấy các loại Ngoại sắc rõ là
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 155
Vô lượng, đẹp, xấu phô ra
Vị ấy nhận thức : ‘Trải qua như vầy
Nhiếp thắng xong, ta đây thấy, biết’
Đây Thắng Xứ cá biệt thứ hai.
27. Một vị quán tưởng ở đây
Nội tâm Vô sắc, thấy ngay như vầy :
Các Ngoại sắc loại này hạn lượng
Và đẹp, xấu ; ảnh hưởng tùy tâm
Vị ấy liền nhận thức rằng :
‘Sau nhiếp thắng chúng, ta hằng thấy ngay
Ta cũng biết đủ đầy về chúng’.
Đây Thắng Xứ ứng dụng thứ ba.
28. Một vị quán tưởng trải qua
Nội tâm Vô sắc thấy ra vô lường
Và đẹp, xấu ; tinh tường nhận thức :
‘Sau khi thực nhiếp thắng chúng rồi
Ta thấy, ta biết rõ thôi !’.
Như vậy Thắng Xứ này thời thứ tư.
29. Quán tưởng từ Nội tâm Vô sắc
Một vị thấy Ngoại sắc màu xanh
Hình, tướng, ánh sáng sắc xanh
Như bông gai nọ sắc xanh toàn cành
Ba-la-nại lụa xanh bày bán
Cả hai mặt trơn láng, màu xanh
Hình, tướng, ánh sáng đều xanh
Vị ấy nhận thức thật nhanh như vầy :
‘Nhiếp thắng xong, ta đây thấy, biết’,
Đây Thắng Xứ cá biệt thứ năm.
30. Quán tưởng Vô sắc Nội tâm
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 156
Một vị quán tưởng nên thầm thấy ra
Trong quá trình trải qua màu sắc
Thấy các loại Ngoại sắc màu vàng
Hình, tướng, ánh sáng đều vàng
Ka-Ni-Ka-Rá (1) hoa vàng đẹp sang
Cả cây hoa sắc vàng cả thảy
Như lụa Ba-la-nại (2) nào hơn
Cả hai mặt lụa láng trơn
Hình, tướng, ánh sáng lụa trơn đều vàng.
Tâm vị ấy sẵn sàng nhận thức :
‘Sau khi thực nhiếp thắng chúng rồi
Ta thấy, ta biết rõ thôi !’
Thắng Xứ thứ sáu này thời quan tâm.
31. Vị quán tưởng Nội tâm Vô sắc
Thấy các loại Ngoại sắc đỏ tươi
Hình, tướng, ánh sáng đỏ ngời
Bân-Thú-Chi-Vá-Ka (3) tươi hoa hồng
Cả toàn thân hoa đồng màu đỏ
Như Ba-la-nại lụa đỏ sắc tươi
Cả hai mặt đỏ, láng ngời
Hình, tướng, ánh sáng đỏ tươi rỡ ràng.
Tâm vị ấy sẵn sàng nhận thức :
‘Sau khi thực nhiếp thắng chúng rồi
Ta thấy, ta biết rõ thôi !’
Thắng Xứ thứ bảy này thời quan tâm.
32. Vị quán tưởng Nội tâm Vô sắc
Thấy các loại Ngoại sắc trắng tinh
_______________________________
(1) : Hoa Kanikàra . (2) : Lụa của xứ Baranasi .
(3) : Hoa Bandhujìvaka . (4) : Sao mai Osadhi .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 157
Hình, sắc, ánh sáng trắng tinh
Như sao mai Ô-Sá-Thi (4) trắng tuyền
Ba-la-nại lụa nguyên màu trắng
Cả hai mặt trơn láng trắng tinh
Hình, tướng, ánh sáng trắng tinh.
Vị ấy nhận thức đinh ninh như vầy :
‘Nhiếp thắng xong, ta đây biết, thấy’
Thắng Xứ ấy thứ tám rõ bày.
A-Nan ! Tám Thắng Xứ đây
Con nên ghi nhận đủ đầy như trên.
33. A-Nan-Đa ! Phải nên chứng đạt
Tám Giải Thoát, giải thích thế nào ?
* Tự mình có sắc, quán vào
Liền thấy các sắc thấp cao mọi bề
– Điều thứ nhất thuộc về Giải thoát.
* Quán nội sắc là chẳng sắc nào
Thấy các ngoại sắc biết bao
– Là sự Giải thoát thuộc vào thứ hai.
* Quán tưởng rằng Sắc này là Tịnh
Chú tâm chính trên suy tưởng này.
– Giải thoát thứ ba là đây.
* Với các Sắc tưởng vượt ngay hoàn toàn
Diệt các tưởng trong hàng hữu-đối
Không tác ý đến mọi tưởng qua
Những tưởng khác biệt gần xa
Với suy nghĩ ‘Hư không là vô biên’
Chứng và trú Không Vô Biên Xứ
– Giải thoát bốn tuần tự hiểu liền.
* Không-vô-biên-xứ tùy duyên
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 158
Vượt khỏi Không-xứ vô-biên hoàn toàn
Chứng, trú an Thức Vô Biên Xứ.
– Thứ năm, sự Giải thoát là đây.
* Vượt Thức-vô-biên-xứ này
Với suy tư : ‘Không có ngay vật gì’
Chứng và trú, tức thì tham dự
Vào Vô Sở Hữu Xứ nơi này
– Là Giải thoát thứ sáu đây.
* Vượt Vô-sở-hữu-xứ ngay tức thì
Chứng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Và trú an vào Tưởng xứ này
– Giải thoát thứ bảy chính đây.
* Cuối cùng Tưởng Xứ vượt ngay tức thì
Thoát Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ
Chứng và trú Diệt Thọ Tưởng này
– Là Giải thoát thứ tám đây.
Cả Tám Giải Thoát đủ đầy như trên.
*
34. A-Nan-Đa ! Vững bền ý chí
Lấy cội cây hùng vĩ làm nhà
Tại rừng U-Ru-Vê-La (1)
Còn gọi Ưu-Lâu-Tần-Loa một miền
Sông Ni-Liên – Nê-Ranh-Chá-Rá (2)
Gần cội cây Ta đã tọa thiền.
Sau khi Thành Đạo mãn viên
Ma Vương khi ấy đến liền bên Ta
Đứng một bên, Ác ma lên tiếng :
_______________________________
(1): R ừng Uruvelà ( Ưu-Lâu-Tần-Loa) còn gọi là Khổ Hạnh Lâm.
(2) : Sông Neranjara ( Ni-Liên-Thuyền ) gần cội Bồ-đề Phật tịnh tu
tại Uruvelà, sau đó đã Thành Đạo, chứng quả Chánh Đẳng Giác .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 159
“ Thỉnh Thế Tôn thị hiện Niết Bàn
Thiện Thệ diệt độ cho an
Ngài hãy tịch diệt, nay đang phải thời ”.
35. Nghe Ác Ma nói lời như vậy
Ngay khi ấy, Ta đã trả lời :
“ Ma Vương ! Nay chưa phải thời
Ta chưa diệt độ, khi đời còn mê.
Khi mọi bề chúng sinh hiểu đúng
Hàng Tứ Chúng đệ tử tu trì
Là Tỷ Kheo, Tỷ-Kheo-Ni,
Thiện
Đều sáng suốt, giữ mình chân chánh
Có kỷ luật, tịnh hạnh, đa văn
Duy trì chánh pháp sẵn sàng
Chánh-pháp, tùy-pháp họ đang tựu thành
Hiểu giáo lý ngọn ngành, căn bản
Có thể giảng, tuyên bố, trình bày
Khai triển, phân tích được ngay
Xác định, giải thích đủ đầy căn nguyên
Khi tà đạo khởi lên, chất vấn
Khéo hàng phục mà vẫn ôn hòa.
Các hàng đệ tử của Ta
Có thể truyền bá Pháp ra cho đời
Pháp vi diệu muôn nơi nhuần khắp
Thì Ta sẽ tấn nhập Niết Bàn.
Như Lai không diệt độ ngang
Khi nào phạm-hạnh hoàn toàn chưa tuyên
Chưa giảng dạy mãn viên, thịnh đạt
Chưa thành tựu, phổ quát, lan xa
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 160
Nghĩa là được giảng giải ra
Cho loài Người thấu hiểu qua Pháp này ”.
36. A-Nan-Đa ! Hôm nay tại điện
Cha-Ba-La, đối diện Như Lai
Ma Vương đến, nói dằng dai
Trước sau nhiều lượt, cứ đòi hỏi Ta
Phải diệt độ thể qua lời hứa
Lúc thành đạo nơi giữa rừng già.
Ác Ma một mực nói là
Giáo Pháp truyền bá trải qua lâu dài
Nay Tứ Chúng trong ngoài đông đảo
Đang hành đạo, chứng đạt trải qua
Có thể tự truyền đạo ra
Có thể hàng phục tà ma giáo điều.
Thế Tôn đã đạt điều cần thiết
Nay phải thời tịch diệt Niết Bàn.
37. Khi nghe Ác Ma nhiều lần
Nài nỉ Ta phải thu thần tịch đi
Ta đã hứa đến thì tịch diệt
Ba tháng nữa từ biệt cõi đời.
Ma Vương thỏa mãn với lời
Như Lai đã hứa, liền rời nơi đây,
Cha-Pa-La điện này, từ đó
Ta tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành
Luôn giữ chánh niệm tịnh thanh
Sẵn sàng cho sự an lành ra đi
Nghĩa là không duy trì sự sống
Lâu hơn nữa trong cõi Ta-bà ”.
38. Nghe vậy, ngài A-Nan- Đa
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 161
Vội bạch Phật : “Xin Phật-Đà xót thương
Chúng sinh đương mê lầm, tham dục
Vì lợi ích, hạnh phúc Trời, người
Thỉnh Thế Tôn ở lại đời
Cho đến trọn kiếp đương thời trải qua ”.
– “ A-Nan-Đa ! Hãy ngưng ý định
Đừng cầu thỉnh Ta nữa làm gì.
Đã quá muộn, không kịp thì
Như Lai đã hứa, không chi sai lời ! ”
39. Lần thứ hai, và rồi ba lượt
A-Nan-Đa phủ phục nài van
Cầu thỉnh Phật trụ thế gian
Hãy vì lợi ích cho hàng Nhân, Thiên.
Nhìn A-Nan, hỏi liền đệ tử :
– “ Có tin sự giác ngộ của Ta ? ”
– “ Bạch Ngài ! Con tin sâu xa ”.
– “ Như vậy sao lại phiền Ta ba lần ? ”
40. – “ Bạch Thế Tôn ! Đích thân nghe, thấy
Tại nơi đây, Ngài dạy một điều :
‘A-Nan ! Những ai sớm chiều
Tu Tứ Thần Túc thật nhiều, cần chuyên
Thật lão luyện, vững bền, chắc chắn
Thật thiện xảo, thù thắng, thâm sâu
Người ấy có thể sống lâu
Đến hết một kiếp, không sao nghĩ bàn
Hay sống phần kiếp đang còn lại.
Nay Như Lai tự tại tiêu diêu
Bốn Thần Túc tu tập nhiều
Hết sức thuần thục, cao siêu vững bền
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 162
Thật lão luyện, móng nền chắc chắn
Thật thiện xảo, thù thắng, thanh cao
Như Lai có thể sống lâu
Đến hết một kiếp, nhiệm mầu thời gian
Hay sống phần kiếp đang còn lại
Không có gì trở ngại Như Lai’.
Nên con tha thiết thỉnh Ngài
Vì lòng thương xót muôn loài, Thiên, nhân
Xin ở lại cõi trần trọn kiếp
Xin bi mẫn độ tiếp sinh linh ”.
– “ A-Nan ! Ngươi có lòng tin ? ”
– “ Bạch Ngài ! Con có sự tin tưởng nhiều ”.
– “ A-Nan-Đa ! Nếu nêu tự kiểm
Lỗi của ngươi, khuyết điểm của ngươi
Đã không nhận hiểu những lời
Như Lai gợi ý nhiều nơi rõ ràng
Nhưng A-Nan đã không cầu thỉnh
Xin Như Lai quyết định trụ đời
Đến trọn kiếp, vì Người, Trời
Vì sự lợi ích, thương đời độ sinh.
Nếu có thỉnh tận tình, đúng lễ
Ta có thể từ chối hai lần
Nhưng nếu người thỉnh quyết tâm
Tha thiết cầu thỉnh đến lần thứ ba
Thì có thể là Ta hứa khả
Tiếp tục sống đến cả kiếp đây.
Nhưng dù Ta gợi ý này
Nhiều lần, ngươi chẳng tỏ bày, làm thinh
Là lỗi ngươi , tự mình khuyết điểm
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 163
Không thỉnh Ta phương tiện độ đời.
41. Này A-Nan-Đa ! Một thời
Ta ở Vương Xá tại nơi tịnh, hòa
Núi Linh Thứu – Ghít-Cha-Ku-Tá (1)
Chính tại đây, Ta đã mở lời
Gợi ý nếu thỉnh trụ đời
Vì sự lợi ích người, trời hoằng khai
Thì có thể Như Lai hứa khả,
Lần thứ nhất, ngươi đã làm thinh.
42. Lần sau, cũng Vương Xá thành
Chùa Ni-Rô-Thá (2) an lành trú đây
Thì Như Lai cũng từng gợi ý :
Tứ Thần Túc tu kỹ, cần chuyên
Lão luyện, thiện xảo, vững bền
Người ấy có thể sống trên kiếp này,
Nhưng ngươi cũng ngồi ngây, im lặng
Không nói gì, cũng chẳng thỉnh cầu.
Trú tại Vương Xá dài lâu
Nhiều nơi Ta đã mở lời nói ra :
* Như tại Cô-Ra-Pa-Pa-Tá (3)
* Hay Sát-Tá-Banh-Ní (4) hang xa
( Hang trên núi Vê-Pha-Ra (4)
* Hay tại hang đá Ka-La (5) một thì
( Núi I-Sí-Ghi-Li (5) xa tắp )
* Hay hang Sắp-Pá-Sống-Đi-Ka (6)
_______________________________
(1) : Núi Gijjiha Kuta : Núi Linh-Thứu hay Linh Sơn .
(2) :Nigrothàràma : có lẽ là Chùa Nigrotha vì Aràma là chùa.
Khi 2 từ Nigrotha + aràma = Nigrothàràma .
(3) : Corapapàta . (4) : hang Sattapanni trên núi Vebhàra .
(5) : hang đá Kàla trên núi Isigili . (6) : hang Sappasondika .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 164
( Hang đá ở rừng Si-Ta (1)
* Hay suối nóng Ta-Pô-Đa-Ra-Mà (2)
* Hay Ka-Lanh-Đa-Ka (3) hồ ấy
( Hồ con sóc tại Trúc Lâm nhà )
* Chi-Va-Kăm-Ba-Va-Na (4)
( Khu rừng khả ái không xa thành này )
* Hay Vườn Nai Mát-Đa-Cúc-Chí (5)…
Những nơi này, gợi ý rõ ràng :
Ta đã nói : ‘Này A-Nan !
Thật là khả ái, huy hoàng, đẹp thay !
Thật diễm lệ Thành đây Vương Xá
Núi Linh Thứu thật khả ái thay !
Ni-Rô-Thá-Ra-Ma đây,
Cô-Ra-Pá-Pa-Ta này quang huy !
Hang Sát-Tá-Banh-Ni đẹp quá !
Khả ái thay hang đá Ka-La !
Hang Sắp-Pá-Sông-Đi-Ka
Suối nước nóng Ta-Pô-Đa-Ra-Mà
Những nơi ấy như là châu ngọc !
Hồ con sóc Ka-Lánh-Đa-Ka
Chi-Va-Kăm-Ba-Va-Na
Rừng này, hồ ấy thật là đẹp thay !
Khu Vườn Nai Mát-Đa-Cúc-Chí
Cũng khả ái, tuyệt mỹ, hòa hài.
44. Này A-Nan-Đa ! Những ai
Tu Bốn Thần Túc miệt mài, cần chuyên
Thật lão luyện, vững bền, chắc chắn
_______________________________
(1) : Rừng Sita . (2) : Suối nước nóng Tapodàràma .
(3) : Hồ Kalandaka tại Trúc Lâm. (4) : Rừng Jìvakambavana .
(5) : Vườn nai tại Maddakucchi .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 165
Thật thiện xảo, thù thắng, thâm sâu
Người ấy có thể sống lâu
Đến hết một kiếp, không sao nghĩ bàn
Hay sống phần kiếp đang còn lại.
Nay Như Lai tự tại, tiêu diêu
Tứ Thần Túc tu tập nhiều
Hết sức thuần thục, cao siêu, vững bền
Thật lão luyện, móng nền chắc chắn
Rất thiện xảo, thù thắng, thanh cao
Như Lai có thể sống lâu
Đến hết một kiếp, nhiệm mầu thời gian
Hay sống phần kiếp đang còn lại
Không có gì trở ngại Như Lai’.
Dù Ta gợi ý điều này
Nhiều lần, ngươi chẳng tỏ bày, làm thinh
Là lỗi ngươi, tự mình khuyết điểm
Không thỉnh Ta phương tiện độ đời.
45. Này A-Nan-Đa ! Một thời
* Điện U-Đê-Ná (1) tại Tỳ-Xá-Ly (2)
Ta cũng vì chúng sinh, gợi ý
Nếu có lời đề nghị, thỉnh cầu
Như Lai có thể sống lâu
Đến hết một kiếp, không sao nghĩ bàn
Hay sống phần kiếp đang còn lại
Không có gì trở ngại Như Lai.
Dù Ta gợi ý điều này
Rõ ràng như vậy, chỉ ngay vấn đề,
Nhưng ngươi vẫn như mê, im lặng
_______________________________
(1) : Điện thờ Udena . (2) : Tức là thành Vesàli .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 166
Chẳng nói chi, cũng chẳng thỉnh cầu.
46. A-Nan ! Khi ở khá lâu
Vê-Sa-Li, tại biết bao điện thờ :
* Như điện thờ Gô-Ta-Ma-Ká (1),
* Hay Sát-Tăm-Ba-Ká (1) điện tòa,
* Điện thờ Ba-Hú-Pút-Ta (1)
* Hay tại Sa-Ránh-Đa-Đa (1) điện tòa,
47. * Và hôm nay Cha-Pa-La điện,
Bao nhiêu lần sự kiện đã bàn
Như Lai gợi ý rõ ràng :
‘Tu Tứ Thần Túc vững vàng, dài lâu
Thì có thể sống lâu trọn kiếp
Hay phần kiếp còn lại về sau
Không gì trở ngại Ta đâu !’
Nhưng ngươi vẫn cứ cúi đầu làm thinh
Không nhận hiểu sự tình gợi ý
Ngồi ngây ra, thần trí tối tăm
Nên không thỉnh cầu thành tâm :
‘Ngưỡng bạch Đại Giác ! Xin thầm xót thương
Chúng sinh đương mê lầm, tham dục
Vì lợi ích, hạnh phúc Trời, người
Thỉnh Thế Tôn ở lại đời
Cho đến trọn kiếp đương thời trải qua
Vì thương tưởng Ta bà uế độ
Chúng sinh cần cứu khổ trầm luân’.
Nếu có lời thỉnh thành tâm
Như Lai có thể hai lần gạt đi
_______________________________
(1) : Các điện thờ ngoại đạo : Gotamaka , Sattambaka ,
Bahuputta , Sàrandada .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 167
Nhưng nếu ngươi kiên trì, thỉnh nữa
Lần thứ ba, Ta hứa trụ đời.
Nhưng ngươi đã chẳng mở lời
Thỉnh cầu trụ thế vì đời, độ sinh.
Là lỗi ngươi, tự mình làm thế
Nay đã trễ, không thể đổi dời.
48. A-Nan ! Ta từng có lời
Tuyên bố mọi vật, mọi thời đổi thay
Vật ưu ái, người hay thương mến
Cả thân ta cũng đến thời suy
Thay đổi, biến dịch tới kỳ
Những gì đang khởi, hữu vi vô thường
Chịu biến hoại, tai ương như thế
Sao có thể khỏi sự biến thiên
Khỏi sự hoại diệt đến phiên
Thật không thể có sự duyên như vầy !
A-Nan-Đa ! Như Lai đã bỏ
Đã dứt khoát không có thuận tòng
Khước từ, xã ly ngoài trong
Thọ, hành từ bỏ ; mạng không duy trì.
Với lời nói bất di bất dịch
Ta dứt khoát sẽ tịch diệt an
Sau ba tháng, nhập Niết Bàn
Không vì muốn sống lại toan đổi lời.
* * *
A-Nan-Đa ! Hãy rời đây đã !
Đến Ku-Ta-Ga-Rá (1) giảng đường
Tại rừng Đại Lâm an tường ”.
A-
_______________________________
(1) : Giảng đường Kùtagàra .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 168
49. Khi đến nơì Ku-Ta-Ga-Rá
Thế Tôn bảo Tôn giả A-Nan :
“ Hãy mời tất cả Chúng Tăng
Tỷ Kheo đang sống ở gần quanh đây
Vê-Sa-Li thành này tu tập
Tụ hội gấp về tại giảng đường ”.
A-Nan vâng lệnh Pháp Vương
Đi mời tất cả các phương Tăng-già
Vê-Sa-Li, gần xa tụ hội.
50. Thỉnh Thế Tôn ngự tới điện tiền
Ngài ngồi trên chỗ soạn riêng
Chư Tăng thứ tự ngồi yên chỗ mình
Đức Thế Tôn nghiêm minh giảng giải :
“ Các Tỷ Kheo ! Cần phải tận tình
Những Pháp do Ta tự mình
Chứng ngộ, truyền dạy, giảng bình, hoằng khai
Cho các con hiểu ngay Chánh Pháp,
Các con phải tu tập cần chuyên
Truyền bá Phạm hạnh khắp miền
Để được trường cửu vạn niên lâu dài.
Vì hạnh phúc muôn loài, phổ quát
Vì an lạc, lợi ích Người, Trời
Vì lòng thương tưởng cho đời
Các con phải khéo nương nơi Pháp lành
Khéo học hỏi, tu hành, thực chứng
Truyền bá những Phạm hạnh thanh cao.
Những Pháp ấy như thế nào ?
Mà đem lợi ích lớn lao Trời, người ?
* Đó chính là Bốn nơi Niệm Xứ
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 169
* Tiếp thứ tự là Bốn Chánh Cần,
* Bốn Thần Túc rất quý trân,
* Năm Căn, * Năm Lực, * Bảy Phần Giác Chi
* Tám Thánh Đạo, vị chi cả thảy :
Ba Mươi Bảy Pháp Trợ Bồ Đề (1)
Là pháp ngộ giác trừ mê
Đem đến hạnh phúc, mọi bề lợi an.
Tỷ Kheo Tăng các hàng , muôn nẽo
Phải luôn khéo học hỏi, thực hành
Vì lòng thương tưởng chúng sanh
Vì sự lợi ích, phúc lành Nhân, Thiên ”.
51. Rồi Thế Tôn Ngài liền nhắn nhủ :
“ Các Tỷ Kheo ! Tan, tụ hiểu tường,
Các hành, chính thật vô thường
Hãy luôn tinh tấn, tự nương nơi mình
Để chứng đạt Vô Sinh, giải thoát.
Đời hợp tan chẳng khác mây ngàn
Ba tháng nữa, lìa thế gian
Như Lai sẽ nhập Niết Bàn Vô Dư ”.
_______________________________
(1) : Bodhipakkhiya – dhamma : 37 Pháp Trợ Bồ Đề , còn gọi là
37 Trợ Đạo Phẩm. Ngoài Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc và
Thất Giác Chi đã được chú thích phía trước, còn lại :
* Tứ Chánh Cần ( Sammappaddhàna ) : a) Thiện vị sinh, sử
phát sinh .b) Thiện dĩ sinh, sử tăng trưởng . c) Ác vị sinh, sử
bất sinh . d) Ác dĩ sinh, sử đoạn diệt . (Điều lành chưa sinh,
hãy phát sinh , điều lành đã sinh, hãy tăng trưởng . Điều ác
chưa sinh, hãy đừng cho sinh ; điều ác đã sinh, hãy trừ diệt )
* Ngũ Căn :Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn, Tuệ căn.
* Ngũ Lực :Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực.
* Bát Chánh Đạo : Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 170
Lời khuyên dạy Đại Từ đã nói
Khiến Tăng Chúng không khỏi bi thương.
Sau đó Thiện Thệ Pháp Vương
Nói thêm ý tưởng Vô thường tử sinh :
“ Ta đã tiều tụy thân hình
Già nua, mạng sống giữ gìn được đâu !
Từ biệt các con trước sau
Một mình, Ta sẽ đi vào Vô Sinh
Tự mình nương tựa chính mình
Các con phải ráng thực hành cần chuyên
Chánh niệm, giữ giới luật riêng
Nhiếp thúc ý chí, giữ liền tự tâm
Tinh tấn trong Pháp, Luật thâm
Sẽ diệt sinh tử, mê lầm dứt ngay ”.
PHẦN IV :
1. Đức Thế Tôn khoan thai, an lạc
Thân đắp y, mang bát vào thành
Vê-Sa-Li, cư dân lành
Tuần tự khất thực tịnh thanh ngọ thời
Rồi Thế Tôn tìm nơi thọ thực.
Khi trở về thì bậc Cha Lành
Quay nhìn Vê-Sa-Li thành
Cái nhìn voi chúa tinh anh, hiền hòa
Nói với A-Nan-Đa Tôn-giả :
“ Này A-Nan ! Từ giã nơi này
Như Lai nhìn lần cuối đây
Vê-Sa-Li sẽ không rày thấy qua.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 171
Làng Phanh-Đá-Ga-Ma (1) hãy đến ”.
Đức A-Nan vâng lệnh thi hành,
Phật cùng Tăng Chúng tịnh thanh
Cùng nhau đi đến an lành làng trên.
2. Đức Đại Giác nói lên Giáo pháp
Cho Chư Tăng tịnh lạc, an bình :
“ Các Tỷ Kheo ! Trong hành trình
Luân hồi lưu chuyển, tử sinh xoay vòng
Không giác ngộ và không hiểu tới
Không chứng đạt Thánh Giới uy nghi
Thánh Định cũng chẳng hiểu gì
Thánh Tuệ chẳng giác ngộ vì si mê
Thánh Giải Thoát mọi bề không hiểu
Không giác ngộ vì thiếu thực hành
Bốn pháp cao thượng tịnh thanh
Vì không giác ngộ, chứng thành quả cao
Nên trôi lăn biển sâu sinh tử.
Chỉ khi nào đã tự thực hành
Giác ngộ, chứng đạt Pháp lành
Thánh Giới, Thánh Định ngọn ngành hiểu sâu
Thánh Giải Thoát tiếp sau Thánh Tuệ
Cả bốn pháp thứ đệ đạt thành
Tham Ái tương lai không sanh
Một đời sống khác sẽ nhanh diệt trừ
Những gì từ nguyên nhân nào tới
Đưa đến đời sống mới vị lai
Một đời sống mới như vầy
Sẽ bị dứt sạch, diệt ngay tức thì.
_______________________________
(1) : Làng Bhandagàma .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 172
3. Sau lời dạy uy nghi, minh triết
Đấng Thiện Thệ (1) nói tiếp như sau :
“ Thánh Giới, Định, Tuệ thanh cao
Giải Thoát vô thượng, không sao nghĩ bàn
Đã chứng, ngộ ; đấng Kiều Đàm
Giảng pháp cao thượng cho hàng Tỷ Kheo
Đạo Sư diệt khổ dính đeo
Pháp nhãn, tịnh lạc duyên theo thoát trần ”.
4. Trong thời gian dừng chân du hóa
Làng Phanh-Đa-Ga-Má nơi đây
Thế Tôn giảng pháp thoại này
Cho Tỷ Kheo Chúng đêm ngày hành qua :
“ Đây là Giới, đây là Chánh Định
Đây là Tuệ thuần tịnh siêu nhiên
Tuệ tu với Định, đạt liền
Những quả vị lớn thánh hiền, lợi thay !
Tâm cùng tu đủ đầy với Tuệ
Thì có thể giải thoát hoàn toàn
Các món lậu-hoặc dở dang
Với tâm dứt khoát, sẵn sàng ngoài trong
Thoát dục-lậu, thoát xong hữu-lậu
( Tri-kiến-lậu là hữu-lậu này )
Thoát vô-minh-lậu, từ đây
Giải thoát phiền não, đoạn rày vô minh ”.
5. Đức Thế Tôn hành trình du hóa
Ở làng đây thấy đã đủ rồi
Gọi A-Nan-Đa đến nơi
_______________________________
(1) : Thiện Thệ ( Sugato ) một trong 10 danh hiệu ( Thập Hiệu )
mà người đời tôn xưng Đức Phật .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 173
Bảo rằng : “ Ta hãy cùng rời, để qua
Hát-Thi-Găm & Am-Ba-Ga-Má (1)
Rồi Chăm-Bu-Ga-Má (1) cùng qua,
Rồi Phô-Ga-Ná-Ga-Ra (1)…
Những chỗ dừng bước, Phật Đà từ bi
Giảng giáo pháp, phụng trì, tu tập
Đem lợi ích đến khắp nhà nhà.
7. Tại Phô-Ga-Ná-Ga-Ra
Tụ hội Tăng Chúng, Phật Đà giảng ra :
“ Các Tỷ Kheo ! Nay Ta giảng giải
BỐN ĐIỀU ĐẠI GIÁO PHÁP rất cần
Hãy nghe cho kỹ từng phần
Thọ trì nghiêm cẩn chánh chân bốn điều :
8. Các Tỷ Kheo ! Sớm chiều nào đó
Có thể có Tỷ Kheo một thời
Nói rằng : “ Chính tự thân tôi
Đã nghe từ miệng, những lời Thế Tôn
Tự lãnh thọ, bảo tồn, tu tập
Đây là Pháp, là Luật như vầy
Lời dạy Đạo Sư như vầy ”.
Các con chẳng vội tin ngay điều này
Không tán thán, không rày phản cự
Phải phân tích mỗi chữ, mỗi câu
So sánh với Kinh thâm sâu
Đối chiếu với Luật trước sau tinh tường
Nếu thấy rằng vô phương hợp xứng
Không tương ứng với Luật, với Kinh
Có thể kết luận đinh ninh :
_______________________________
(1) : Các nơi đức Phật lần lượt đi qua : Hatthigam , Ambagàma ,
Jambugàma , Bhogànagara.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 174
“ Chắc chắn điều ấy thực tình là sai
Không phải lời Như Lai dạy bảo
Tỷ Kheo ấy thọ giáo sai lầm ”.
Và các con hãy quyết tâm
Bỏ những lời nói sai lầm ngoài tai.
Nhưng khi so sánh hay đối chiếu
Với Kinh, Luật tiêu biểu rõ ràng
Thì thấy phù hợp, tâm an
Có thể kết luận điều đang nghe này :
“ Đây chắc chắn Như Lai dạy bảo
Tỷ Kheo này thọ giáo chánh chân ”.
Hãy thọ trì, hỡi Chúng Tăng !
Đây Đại Giáo Pháp thuộc phần đầu tiên.
9. Các Tỷ Kheo ! Hoặc duyên nào đó
Có thể có Tỷ Kheo một thời
Nói rằng : “ Chính tự thân tôi
Nghe qua Tăng Chúng trú nơi Phật-từ
Có các vị nghiêm từ Thượng Tọa,
Các Thủ Chúng, Thầy Cả trí tài,
Từ miệng Tăng Chúng nơi này
Tôi nghe, lãnh thọ điều đây rõ ràng :
Pháp như vậy, Luật Tăng như vậy,
Đây lời dạy của bậc Đạo Sư ”.
Các Tỷ Kheo ! Hãy từ từ
Không nên hủy báng cũng như tán đồng
Mỗi mỗi câu hay trong mỗi chữ
Phải suy nghiệm từ ngữ, cú văn
Đem so với Kinh kỹ càng
Đối chiếu với Luật rõ ràng trước sau
Nếu với Kinh, không sao hợp xứng
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 175
Không tương ứng với Luật thuộc về
Có thể kết luận điều nghe :
“ Như Lai chắc chắn không hề dạy răn.
Tỷ Kheo này sai lầm thọ giáo ”.
Thì các con hãy bỏ ngoài tai.
Nhưng khi so sánh điều này
Với Kinh, đối chiếu rõ bày Luật nghiêm
Nếu điều ấy suy tìm phù hạp
Nên kết luận là Pháp Như Lai
Tỷ Kheo thọ giáo không sai
Đây Đại Giáo Pháp thứ hai giải bày,
Các con hãy điều này trì thọ.
10. Có thể có Tỷ Kheo một thời
Nói rằng : “ Chính tự thân tôi
Nghe những Thượng Tọa trú nơi Phật-từ
Bậc đa văn, khư khư gìn giữ
Truyền thống cũ, trì Pháp & Luật nghiêm
Giữ gìn Pháp Yếu một niềm
Tôi nghe những vị uy nghiêm nói rày :
‘Đây là Pháp ; như vầy là Luật
Đây lời dạy của bậc Đạo Sư ”.
Các Tỷ Kheo ! Hãy từ từ
Không nên hủy báng cũng như tán đồng
Mỗi mỗi câu hay trong mỗi chữ
Phải suy nghiệm từ ngữ, cú văn
Đem so với Kinh kỹ càng
Đối chiếu với Luật rõ ràng trước sau
Nếu với Kinh, không sao hợp xứng
Không tương ứng với Luật thuộc về
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 176
Có thể kết luận điều nghe :
“ Như Lai chắc chắn không hề dạy răn.
Tỷ Kheo này sai lầm thọ giáo ”.
Thì các con hãy bỏ ngoài tai.
Nhưng khi so sánh điều này
Với Kinh, đối chiếu rõ bày Luật nghiêm
Nếu điều ấy suy tìm phù hạp
Nên kết luận là Pháp Như Lai
Tỷ Kheo thọ giáo không sai
Thứ ba, Đại Giáo Pháp đây giải bày,
Các con hãy điều này trì thọ.
10. Có thể có Tỷ Kheo một thời
Nói rằng : “ Chính tự thân tôi
Nghe một Thượng Tọa trú nơi Phật-từ
Ngài là bậc đa văn, thấy rộng
Luôn gìn giữ truyền thống, kỷ cương
Trì Pháp, Luật, Pháp Yếu thường
Giáo pháp vị ấy tinh tường, hiểu ngay
Chính từ miệng Ngài này đã kể :
‘Pháp như thế, Luật Tạng như vầy
Lời dạy Đạo Sư như vầy ”.
Các con chẳng vội tin ngay điều này
Không tán thán, không rày phản cự
Phải phân tích mỗi chữ, mỗi câu
So sánh với Kinh thâm sâu
Đối chiếu với Luật trước sau tinh tường
Nếu thấy rằng vô phương hợp xứng
Không tương ứng với Luật, với Kinh
Có thể kết luận đinh ninh :
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 177
‘ Chắc chắn điều ấy thực tình là sai
Không phải lời Như Lai dạy bảo.
Tỷ Kheo ấy thọ giáo sai lầm ”.
Và các con hãy quyết tâm
Bỏ những lời nói sai lầm ngoài tai.
Nhưng khi so sánh hay đối chiếu
Với Kinh, Luật tiêu biểu rõ ràng
Thì thấy phù hợp, tâm an
Có thể kết luận điều đang nghe này :
“ Đây chắc chắn Như Lai dạy bảo.
Tỷ Kheo này thọ giáo chánh chân ”.
Hãy thọ trì , hỡi Chúng Tăng !
Đây Đại Giáo Pháp thuộc phần thứ tư.
***
12. Trong khi đấng Đại Từ cao cả
Trú tại Phô-Ga-Ná-Ga-Ra
Pháp thoại này được giảng ra
Để cho Tăng Chúng tịnh hòa vâng theo :
“ Các Tỷ Kheo ! Giới cùng Định, Tuệ
Định và Giới vừa kể cùng tu
Đưa đến quả vị đặc thù
To lớn, lợi ích cho dù ở đâu.
Hoặc ví dầu Tuệ tu với Định
Sẽ đưa đến lợi ích vô cùng
Tâm cùng với Tuệ tu chung
Đưa đến giải thoát, diệt cùng khổ đau.
Các lậu-hoặc trước sau các loại
Phải thoát khỏi dục-lậu ngoài trong
Hữu-lậu ( tri kiến ) thoát xong
Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng tử sinh ”.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 178
13. Đức Thế Tôn hành trình du hóa
Phô-Ga-Na-Ga-Rá (1) làng này
Thấy đã vừa đủ tại đây
Gọi A-Nan bảo ý Ngài truyền ra :
“ A-Nan-Đa ! Báo qua Tăng Chúng
Chúng ta sẽ đi đến Pa-Va ”. (2)
Đại Chúng cùng với Phật Đà
Khởi hành qua xứ Pa-Va trong ngày
Chọn vườn xoài Chun-Đa (3) trú ngụ.
14. Người thợ rèn gia chủ Thuần-Đà (3)
Nghe tin Đại Giác Phật-Đà
Cùng Tăng Chúng đến Pa-Va vừa rồi
Hiện trú nơi vườn xoài rộng mát
Thật phúc lạc, đại hạnh cho ta.
Thế rồi thợ rèn Chun-Đa
Đến ngay chỗ đức Phật-Đà trú yên
Đảnh lễ Phật, một bên ngồi kế.
Phật thứ đệ thuyết giảng Pháp mầu
Tăng trưởng đức tin thâm sâu
Chun-Đa phấn khởi, đê đầu ngợi ca.
15. Nghe pháp rồi, Thuần-Đà hoan hỷ
Bạch đấng Vô Thượng Sĩ cõi đời :
– “ Bạch Thế Tôn ! Xin nhận lời
Cùng chư Tăng Chúng, ngọ thời ngày mai
Đến thọ trai nhà con thiết cúng
Cúng dường Phật & Tăng chúng tịnh hiền ”.
_______________________________
(1) : Làng Bhoganagara . (2) : Thành Pàvà của dân tộc Malla
( dân tộc Malla còn ở tại Xứ Kusinara ).
(3) : Người thợ rèn tên Chunda ( Hán Tạng gọi là Thuần-Đà ).
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 179
Thế Tôn im lặng ngồi yên
Là cách Ngài đã mặc nhiên nhận lời.
16. Từ chỗ ngồi, Chun-Đa đứng dậy
Rồi cúi lạy, hữu nhiễu, đi ra.
17. Khi đêm tăm tối đã qua
Ánh dương tỏa rạng, Chun-Đa sẵn sàng
Sửa soạn các món ăn thượng vị
Loại cứng, mềm – chuẩn bị mọi bề
Thêm Su-Ka-Ra Mát-Đa-Vê (1)
( Có thuyết nói đó thuộc về nấm hương
Loại mộc nhĩ heo rừng rất thích ;
Thuyết khác nói là thịt heo rừng ).
Thuần-Đà hết sức vui mừng
Cho người đến thỉnh Phật cùng Chư Tăng.
18. Đức Thế Tôn nghiêm thân an lạc
Ngài đắp y, mang bát đi ra
Cùng với Đại chúng Tăng-già
Khoan thai đi đến nơi nhà Chun-Đa.
Đến nơi, Phật ngồi tòa soạn sẵn
Đại chúng Tăng nghiêm cẩn ngồi an
Chủ nhân phục vụ ân cần
Món ăn thượng vị mang lần lượt ra
Với thiên nhãn, Phật Đà tự nghĩ :
“ Món mộc-nhĩ bị nhiễm độc rồi ”.
Dạy chỉ dọn riêng Ngài thôi
Các món ăn khác dọn thời Chúng Tăng.
19. Sợ liên lụy, để ngăn di hại
Bảo mộc-nhĩ kíp phải chôn ngay
_______________________________
(1) : Sùkara-maddave .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 180
Nói với Thuần-Đà điều này :
“ Món ăn mộc-nhĩ chứa đầy độc tai
Khắp pháp giới trong ngoài ba cõi
Cả Trời, người, Ma giới, Phạm Thiên
Không một ai ăn món trên
Có thể tiêu hóa, chỉ tuyền Như Lai ”.
Chun-Đa rất bi ai, ân hận
Đem mộc-nhĩ chôn tận vườn trên.
Xong rồi ngồi xuống một bên
Thế Tôn thuyết pháp độ liền chủ nhân
[ Chun-Đa được ngộ phần diệu pháp
Vững đức tin, an lạc chẳng lay.
20.[ Lễ xong trở lại vườn xoài
[ Thọ bệnh lỵ huyết tại ngày hôm nay
[ Bệnh trầm trọng thêm hoài không dứt
[ Lỵ nhiều lần mất sức chuyển di
[ Nhưng Ngài nhẫn nại ra đi
[ Cùng Tỷ Kheo Chúng Tăng uy khởi hành
[ Qua chốn khác đồng thanh trực chỉ
[ Nhắm sang Thành Kú-Sí-Na-Ra.
“ Chính tôi là A-Nan-Đa
Biết rằng sau bữa cơm nhà Chun-Đa
( Hay là thợ rèn Thuần-Đà )
Thế Tôn nhiễm bệnh rất là nguy nan
Cơn bệnh khốc liệt khởi ngang
Người khác thì chỉ có đàng tử vong
Nhưng Ngài chánh niệm, giữ lòng
Tỉnh giác, chịu đựng, nhẫn trong pháp hành
_______________________________
* Những câu trong dấu [ trích từ bài “Phật Nhập Niết Bàn”
trong quyển Nhật Hành của GH Tăng Già Nguyên Thủy VN .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 181
Điều phục trọng bệnh phát sanh
Thế Tôn quyết định khởi hành đi qua
Đến Thành Ku-Sí-Na-Ra
Nơi đây Ngài sẽ trải qua Niết Bàn ”.
21. Trên dặm ngàn, Thế Tôn mệt nhọc
Dừng bên đường dưới một gốc cây
Bảo thị giả : “ A-Nan này !
Hãy xếp tư lại, rồi bày Tăng y
Săng-Ga-Ti (1) ( đại y nhiều lớp
Tăng-Già-Lê (1) của bậc Tỷ Kheo
Thường xuyên phải mang y theo )
Ngài bảo xếp để nương theo mà ngồi.
– “ Ta cảm thấy trong người mệt nhọc
Muốn ngồi lại dưới gốc cây này
Để nghỉ một lát tại đây
Rồi sẽ tiếp tục thẳng ngay lên đường ”.
22. Trời nóng bức lại đương khát nước
Đức Thế Tôn liền ngước nhìn lên
[ Thấy suối nước ở gần bên
[ Truyền A-Nan múc dâng lên Ngài dùng
[ A-Nan vội bạch cùng Đại Giác :
[ – “ Ráng đến dần chốn khác múc dâng
[ Nước đây đục lộn cặn bùn
[ Vết xe thương mãi muôn trùng vừa qua.
Ka-Kút-Tha, con sông sắp đến
_______________________________
(1) : Một vị Tỷ Kheo (Tỳ-Khưu -Bhikkhu ) đã thọ Cụ-Túc-Giới (Đại
Giới) luôn luôn mang theo mình Bình Bát và Tam Y : Y An-Đà-Hội
(Antarvàsa –Y mặc như quần ); Y Uất-Đà-La-Tăng (Uttara sangha –Y vai trái ); Y Tăng-Già-Lê – Sanghàti ( Y may từ 2 đến 7 lớp- có
thể dùng để đắp .Y này chỉ hàng Tỷ Kheo mới có, khi hành Tăng Sự
thì bắt buộc phải đắp lên vai trái, bên ngoài Y Uất-đà-la-tăng ). .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 182
Còn không xa ; nước bến sông này
Trong ngọt, mát mẻ, sạch thay !
Ngài có thể uống, rửa tay chân mình ”.
[ Nhưng Thế Tôn liên thinh nhiều lượt
[ Rằng : “ Ta đương khát nước lắm rồi ! ”.
[ A-Nan thương Phật vô hồi
Mang bình bát đến một ngòi suối nông
Bị vẩn đục, nghẻn giòng nước chảy
Năm trăm xe thương mãi vừa qua.
Nhưng Tôn-giả A-Nan-Đa
Vô cùng kinh ngạc thấy ra nhiệm huyền
Vì giòng nước đó liền trong trẻo
Không còn đục. Thật khéo diệu kỳ !
Tôn-giả hoan hỷ nghĩ suy :
“ Thật là vi diệu không chi sánh bằng
Đây chính nhờ Bốn căn Thần Túc
Và uy lực của đức Cha Lành ”.
Mang bình nước đã tịnh thanh
Dâng lên đức Phật, lòng thành kính tin.
Phật uống xong, hành trình tiếp tục
Trên đường đi gặp Búc-Ku-Sa (1)
Hay còn gọi Bích-Câu-Xa (1)
Thuộc về giòng họ Man-La hoàng triều
( Là đệ tử được nhiều tín quý
Của Đạo Sư Phạm-chí danh gia
A-La-Ra Ka-La-Ma (2)
Đi từ Ku-Sí-Na-Ra ngược chiều
Đến Pa-Va vì nhiều công chuyện
_______________________________
(1) : Pukkusa . (2) : Đạo-sĩ Alàra Kàlàma .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 183
Thấy đức Phật, ông tiến đến liền
Đảnh lễ, ngồi xuống một bên
Rồi ông hướng Phật, nói lên một điều :
– “ Bạch Thế Tôn ! Thật điều kỳ diệu !
Hy hữu thay ! Tiêu biểu chính là
Trạng thái trầm tĩnh sâu xa
Định tâm của bậc xuất gia thượng thừa.
27. Bạch Thế Tôn ! Thuở xưa Tôn-giả
A-La-Ra tức Ká-La-Ma
Trên đường thiên lý dặm xa
Ngài muốn tạm nghỉ, rẽ qua bên đường
Ngồi dưới cội cây đương tỏa mát
Rồi định tâm an lạc một bề
Bấy giờ năm trăm cỗ xe
Đi ngang vang động trời hè, inh tai
Một người ngoài đoàn xe áp tải
Thấy Đạo Sư, rẽ lại bên ngài
Thấy ngài thần sắc khoan thai
Như không hay biết việc này xảy ra.
Liền hỏi qua : “ Kính thưa Tôn-giả
Ngài có thấy tất cả năm trăm
Cỗ xe vang động ầm ầm
Mới vừa đi được khỏi tầm nhìn thôi ? ”.
– “ Này Hiền-giả ! Chính tôi không thấy ”.
– “ Và như vậy ngài có nghe không ?
Tiếng xe chuyển động vang dồn ? ”.
– “ Hiền-giả ! Sự thật ta không nghe gì ”.
– “ Thưa Tôn-giả ! Vậy thì lúc ấy
Ngài đang ngủ, phải vậy hay không ? ”.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 184
– “ Hiền-giả ! Chính thực là không ”.
– “ Vậy ngài thức tỉnh chính trong lúc này ? ”.
– “ Này Hiền-giả ! Ta đây thức tỉnh
Trong lúc chính các cỗ xe qua ”.
– “ Tôn-giả ! Ngài có biết là
Áo ngài lấm bụi thương-xa vừa rồi ? ”.
– “ À ! Phải rồi ! Áo ta bụi vấy ”.
Bạch Thế Tôn ! Người ấy nghĩ suy :
‘Thật là hy hữu, diệu kỳ
Trước sự trầm tĩnh, không gì động tâm
Vị xuất gia thâm trầm giác tỉnh
Vẫn thức tỉnh nhưng chẳng thấy, nghe
Tiếng động năm trăm cỗ xe
Đi ngang chuyển động tiếng xe ầm ầm’.
Người ấy đã thành tâm ca ngợi
Lễ Đạo Sư, rồi vội cáo từ ”.
28. – “ Bích-Câu-Xa ! Chuyện Đạo Sư
Ngươi hãy so sánh ví như chuyện này :
- Một vị đây còn đang giác tĩnh
Vẫn thức tỉnh, an tọa trong nhà
Bỗng cơn mưa lớn kéo qua
Ào ào giông gió, chớp lòa điện quang
Tiếng sét đánh, sấm gầm vang dậy
Nhưng vị này không thấy, không nghe
Thì hãy so sánh hai bề
Giữa hai vị ấy, thuần về công tâm ”.
29. – “ Bạch Thế Tôn ! Dù năm, sáu, bảy
Hoặc chín trăm, ngần ấy cỗ xe
Cho đến mấy ngàn cỗ xe
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 185
Vị ấy cũng vẫn không nghe, thấy gì.
Nhưng chẳng bì vị kia định tỉnh
Vẫn thức tỉnh khi có cơn mưa
Tiếng sét kinh động chẳng vừa
Chớp lòa, sấm nổ trong mưa gió đầy,
Thì vị này đáng tôn, ngưỡng phục
Khi định tỉnh chẳng chút động tâm ”.
30. – “ Này Bích-Câu-Xa ! Một lần
A-Tu-Ma (1) xứ, ta cần hoằng dương
Nhà đập lúa ta đương trú tịnh
Lúc đang ngồi thiền định tại đây
Bỗng trời vần vũ đầy mây
Cơn mưa tầm tả đến ngay tức thì
Sấm kinh động ầm ì khắp cả
Sét vang trời, chớp lóa, cuồng phong
Sét đánh chết hai nhà nông
Bốn con bò mộng ngoài đồng chết luôn.
Sau cơn mưa, người tuôn ra ruộng
Bởi họ muốn thấy được tận nơi
Xác bò và xác hai người
Bị sét đánh chết tại nơi ruộng bờ.
31. Lúc bấy giờ, vừa lìa chỗ trú
Ta kinh hành chuyên chú lại qua
Trước chỗ tạm ngụ, sân nhà.
Từ đám đông nọ, tách ra một người
Đến trước ta nói lời thăm lệ
Sau khi đã đảnh lễ, đứng bên.
.
32. Ta hỏi : “ Hiền-giả ! Phía trên
_______________________________
(1) : Xứ Atumà .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 186
Vì sao tụ họp gây nên ồn ào ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Biết bao tai hại
Đã đem lại từ trận mưa to
Cuồng phong rít, sấm sét to
Sét đánh hai gã, bốn bò chết luôn
Điện chớp lóa, mưa tuôn tầm tả
Sấm vang rền khắp cả quận châu
Lúc ấy ngài đang ở đâu ? ”.
– “ Hiền-giả ! Ta đã đi vào định tâm
Tại nhà này âm thầm tĩnh tọa ”.
– “ Vậy Thế Tôn thấy cả hay không ? ”.
– “ Chuyện này quả thực là không ”.
– “ Ngài nghe vang động ngoài đồng hay không ? ”.
– “ Này Hiền-giả ! Ta không nghe biết ”.
– “ Vậy Ngài thiệt đang ngủ hay sao ? ”.
– “ Ta vẫn tỉnh thức định sâu ”.
– “ Bạch Ngài ! Như vậy lúc vào cơn mưa
Rền sấm động lại vừa sét đánh
Gió rít lên sức mạnh cực kỳ
Thế mà ngài chẳng biết chi
Không nghe, không thấy chuyện gì xảy ra ? ”.
33. – “ Bích-Câu-Xa ! Người này tự nghĩ :
‘Thật linh dị, hy hữu, diệu kỳ
Sự trầm tĩnh đầy uy nghi
Định tâm thù thắng của vì xuất gia ”.
Người ấy hướng đến Ta tán thán
Đảnh lễ, đoạn hữu nhiễu, ra đi.
34. Khi nghe lời đấng Từ Bi
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 187
Bích-Câu-Xa đã cực kỳ hân hoan :
– “ Bạch Thế Tôn ! Điều con tin tưởng
Vào Đạo Sư quy ngưỡng trước đây
Giờ đây trước gió dưới mây
Con đem rải rắc bay đầy mất tăm
Hay như con thả trầm giòng nước
Để cuốn trôi theo nước, mất ngay.
Bạch Thế Tôn ! Vi diệu thay !
Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
Đem đèn sáng vào tối như bưng
Để ai có mắt mở bừng
Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.
Cũng như vậy, nhiệm mầu Chánh Pháp
Được Thế Tôn phân tách, trình bày
Con xin quy ngưỡng từ nay
Quy y đức Phật, nương ngay Pháp mầu
Quy y Tăng thanh cao đức cả
Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
Mong Thế Tôn nhận cho con
Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
Kể từ nay đến lúc mạng chung ”.
35. Rồi ông bảo người tùy tùng :
– “ Hãy mang y đến để dùng cúng dâng
Hai bộ y sáng ngần kim sắc
Màu vàng chói để mặc được ngay ”.
Tùy tùng vâng lệnh, đem ngay
Hai bộ y đến rồi bày trang nghiêm.
Bích-Câu-Xa với niềm ngưỡng mộ
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 188
Dâng Thế Tôn hai bộ y này :
– “ Xin Ngài thọ nhận nơi đây
Vì lòng thương xót, mặc ngay y vàng ”.
– “ Bích-Câu-Xa ! Vô vàn phước lắm !
Đắp cho ta một tấm y vàng
Còn một y, hãy mang sang
Đắp lên Tôn-giả A-Nan tịnh hiền ”.
Búc-Ku-Xa vâng liền ý Phật
Khi hoàn tất, ngồi xuống một bên,
36. Thế Tôn thứ đệ thuyết lên
Những pháp lợi ích là nền tảng chung
Búc-Ku-Xa vô cùng hoan hỷ
Rất phấn khởi, tâm trí an hòa
Đứng dậy, đảnh lễ Phật-Đà
Nhiễu Phật phía hữu, trở ra cáo từ.
37. Bích-Câu-Xa vừa từ nơi ấy
Từ biệt xong, ông lại lên đàng
A-Nan nhìn tấm y vàng
Chói màu kim sắc Phật đang mặc này
Tôn-giả thấy y đây phai nhạt
Bị lu mờ, đổi khác rõ ràng :
[ Trong người Phật phóng hào quang
[ Làm cho y mất sắc vàng hiện ra
[ Phật cho A-Nan-Đa biết chắc :
[– “ Đời Như Lai biến sắc hai lần
[ Đêm thành đạo, đêm niết-bàn
[ Đêm nay Ta ắt vào đàng Bất Sinh
Nên Như Lai tự mình chói sáng
Da vô hạn tươi nhuận, tịnh thanh.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 189
38. A-Nan-Đa ! Đến cuối canh
Đêm nay canh chót, an lành sẽ qua
U-Pa-Vát-Ta-Na (1) an nghỉ
Ở tại Thành Ku-Sí-Na-Ra (1)
( Hay còn gọi Câu-Thi-Na (1)
Rừng Sa-La của Man-La họ này
Giữa hai cây Sa-la long thọ (2)
Như Lai sẽ diệt độ Niết-bàn,
Bây giờ chúng ta lên đàng
Đến sông Ka-Kút-Tha (3) đang dâng đầy ”.
Ngài A-Nan làm ngay theo lệnh
Cùng Đại chúng đi đến bờ sông.
“ Y vàng kim sắc dâng xong
Sắc màu vàng chói suốt trong lẫn ngoài
Bích-Câu-Xa đã dâng Ngài
Đắp y lên Phật, thật hoài màu y
Thân Phật sáng chói lạ kỳ
Làm y mất sắc, phai đi màu vàng ”.
39. Rồi Thế Tôn cùng hàng Tôn-giả
Đến bờ sông tên Ká-Kút-Tha
Xuống sông tắm mát, dần dà
Tắm rồi cùng lội để qua bờ liền
Đến rừng xoài tịnh yên thôn dã
Phật bảo Chun-Đa-Ká (2) được nghe :
– “ Hãy xếp tư Tăng-Già-Lê
_______________________________
(1) : Upavattana ở Kusinàrà (Câu-Thi-Na ) của giòng họ Mallà .
(2) :Cây Sàla : có hoa màu đỏ sẫm, thơm nồng, những cánh hoa
xếp tỏa ra như hoa sen, nhụy hoa vươn lên giống đầu rồng, nên
gọi là Long thọ . Phật nằm giữa 2 cây nên gọi là Song long thọ.
(3) : Sông Kakutthà . (4) : Vị Tỷ kheo tên Cundaka .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 190
Trải dài trên cỏ dựa kề cội cây
Thân Như Lai rất là mệt mỏi
Lại vừa trải một chặng đường dài
Thời tiết nóng bức hiện nay,
Ta muốn nằm nghỉ nơi này hồi lâu ”.
Đại Đức này làm mau lời dạy
Của Thế Tôn, vội lấy Tăng Y
Xếp rồi trải Săng-Ga-Ti.
40. Thế Tôn nằm xuống uy nghi, thuần từ
Như dáng điệu của Sư tử chúa
Nằm nghiêng mình, chân tựa lên nhau
Chánh niệm, tỉnh giác, thở sâu
Với ý niệm sẽ dậy mau phải thời.
Chun-Đa-Ká thì ngồi phía kế
Ý trông chừng để Thế Tôn an.
41.“ Đức Phật đã tự đi sang
Ka-Kút-Thá bến sông đang dâng đầy
Giòng nước của con sông đây
Mát lạnh, trong sạch đêm ngày chảy xuôi
Thế Tôn mỏi mệt trong người
Xuống sông để tắm phủi xuôi bụi đường
Đạo Sư, Vô Thượng Pháp Vương
Là bậc tôn quý hoằng dương trên đời.
Tắm xong, thân tâm thảnh thơi
Lội qua sông nọ tới thời bờ bên
Giữa hàng Tăng Chúng tinh chuyên
Thế Tôn đi trước, dáng hiền uy nghi.
Đạo Sư vừa giảng vừa đi
Diễn giải Chánh Pháp diệu kỳ tối tôn
Thế rồi bậc Đại Sa-Môn
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 191
Đến rừng xoài vắng chốn thôn quê này
Bảo vị Tỷ Kheo bên Ngài
Là Chun-Đá-Ká làm ngay tức thì :
“ Hãy gấp tư Săng-Ga-Ti
Như Lai nằm nghỉ trên y trải dài ”.
Chun-Đá-Ká Đại-đức đây
Vâng lời, thực hiện điều này thật nhanh
Đạo Sư nằm xuống an lành
Nằm nghiêng, chánh niệm tịnh thanh, an hòa
Còn Tỷ Kheo Chun-Đá-Ka
Ngồi ngay phía trước Phật-Đà đang yên ”.
42. Sau khi nghỉ, Phật liền truyền dạy :
– “ Này A-Nan ! Con hãy biết là
Nếu có người nào gần xa
Lên án việc của Chun-Đa thợ rèn,
Dù lạ quen, nhiều người quy lỗi
Là Thuần-Đà có tội rất nhiều
Thức ăn có độc khó tiêu
Lại đem dâng Phật là điều khó tha.
Khiến Thuần-Đà vô cùng ân hận
Tâm dày vò, ngăn chận phước duyên.
Gặp Chun-Đa, hãy nói liền :
“ Hiền-giả ! Phước đức vô biên đã làm
Vì ông đã chí thành dâng cúng
Bữa ăn Phật thọ dụng cuối cùng
Phước đức đạt được mãn sung
Quả báo lợi ích nói chung vô ngần.
Chính tự thân tôi nghe Phật dạy :
‘Có hai sự vô ngại cúng dường
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 192
Sẽ được quả báo vô lường :
Hai bữa ăn để cúng dường Như Lai
Một, trước khi Như Lai Thành Đạo
Bữa thứ hai khi đáo Niết Bàn’.
Ông đã có phước cúng dàng
Đến đấng Đại Giác bữa ăn cuối cùng
Hai bữa ăn có cùng đại phước
Hơn tất cả việc phước báu nào.
Nhờ vào quả phước dồi dào
Sẽ được thụ hưởng không sao nghĩ bàn
Hưởng tuổi thọ, giàu sang, sắc đẹp
An lạc nhiều, khi chết siêu sinh
Về các cõi trời quang vinh
Uy quyền, vinh hiển mặc tình hưởng qua ”.
A-Nan-Đa ! Phải nên giải thích
Cho Thuần-Đà, mục đích tâm an
Để y hối hận tiêu tan
Vì nghĩ khiến Phật Niết Bàn sớm hơn ”.
43. Đức Thế Tôn điều này khuyến dạy
Rồi thốt lời cảm khái như sau :
“ Công đức Bố Thí làm đầu
Luôn luôn tăng trưởng, phước mau thực hành
Trừ tâm hận thù vây quanh
Rải tâm Từ Ái, vô tranh thường thường
Những người chí thiện, hay thương
Từ bỏ ác hạnh, bất tường bỏ đi
Diệt trừ gốc tham, sân, si
Tâm được giải thoát tức thì tịnh thanh ”.
* * *
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 193
PHẦN V :
1. Đức Thế Tôn đã nhanh lại sức
Bảo A-Nan Đại-đức thân tùy :
– “ Chúng ta hãy qua sông đi !
Sông Hi-Ranh-Ná-Va-Ti (1) đang ròng,
Qua bờ xong, đi luôn không nghỉ
Thẳng qua Thành Ku-Sí-Na-Ra
Tại U-Pa-Vát-Ta-Na
Rừng Sa-La của Man-La vương triều ”.
A-Nan-Đa vâng điều Phật dạy
Báo Tăng Chúng cả thảy lên đàng.
Ku-Sí-Na-Ra cần sang,
Cuối cùng Đại Chúng các hàng đến nơi.
[ Đức Thế Tôn mòn hơi kiệt sức
[ Nên Ngài vào lập tức vườn hoa
[ Của vua Ku-Sí-Na-Ra
[ Muôn phần tốt đẹp, cỏ hoa đủ màu
[ Song long thọ nhành giao mát mẻ
[ Tảng đá to đẹp đẽ chỉnh tề
[ Đứng ngay giữa rặng sum suê
[ Ngài bảo trải Tăng-già-lê để nằm
[ Khi an ngọa đầu nhằm hướng bắc
[ Nằm nghiêng mình day mặt tây phương.
Dáng nằm như Sư tử vương
Hai chân duỗi thẳng an tường nghỉ đây.
[ Ân đức cảm rừng cây long thọ
[ Trổ hoa lành ý tỏ cúng dường
_______________________________
(1) : Sông Hirannavati .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 194
[ Dạy A-Nan gấp lên đường
[ Tâu vua Man-Lá ngài tường âm hao
[ Rằng Như Lai đã vào vườn ngự
[ Xin chốn này để dự Niết Bàn.
[ Vua nghe sắm sửa vội vàng
[ Nhắm vườn ngự uyển, Vua sang lạy mừng
[ Trên thiên sàng Phật gần đuối sức
[ Vắn tắt lời độ bậc Chí Tôn
[ Mãi chiều khuất bóng hoàng hôn
[ Vua về với một tâm hồn ủ ê.
2. Hoa Sa-la tứ bề rực rỡ
Trổ trái mùa như tỏ cúng dường
Tỏa ra ngào ngạt mùi hương
Rơi đầy trên đấng Pháp Vương Phật-Đà
Những thiên hoa Manh-Đa-Ra-Vá (1)
( Hay còn gọi hoa Mạn-đà-la (1)
Cùng với các loại thiên hoa,
Chiên-đàn (2) tung vãi hằng sa bột trời
Càn-Thát-Bà (3) các nơi xuất hiện
Tấu nhạc trời phụng hiến Phật-Đà
Vang lừng thiên nhạc, thiên ca
Từ hư không, tiếng vọng xa muôn trùng.
3. Lúc ấy đấng Đại Hùng Chánh Giác
Bảo A-Nan đang quạt bên Ngài :
– “ Này A-Nan-Đa ! Hiện nay
_______________________________
* Những câu trong dấu [ trích từ bài “Phật Nhập Niết Bàn”
trong quyển Nhật Hành của GH Tăng Già Nguyên Thủy VN .
(1) : Hoa trời Mandàrava (Mạn-đà-la). (2) : Bột Candana .
(3) : Gandhabba : những vị nhạc công các cõi trời , có nhiệm vụ
tấu nhạc cho
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 195
Chư Thiên các cõi trong mây các từng
Dùng thiên nhạc vang lừng tụng tán
Rải thiên hoa như Mạn-đà-la (1)
Hay thiên hoa Mạn-thù-sa (2)
Cùng bao nhiêu loại thiên hoa cõi trời
Được tung rải tuyệt vời hương sắc
Bột Chiên-đàn cứ rắc xuống hoài
Với lòng tin kính chẳng lay
Cúng dường trong lúc Như Lai niết-bàn.
Này A-Nan ! Cúng dường như thế
Chưa phải là cụ thể tỏ bày
Sùng mộ, biết ơn Như Lai
Chỉ có một cách tỏ bày kính tin :
[ Khắp các chúng hữu tình nam nữ
[ Cả Thiện nam, Tín nữ, Tăng, Ni
[ Nếu tu vào đạo trở đi
[ Mà vâng giữ đúng pháp di-giáo truyền,
[ Mới được gọi cần chuyên nghiêm chỉnh
[ Đem hết lòng thờ kính Thế Tôn
[ Làm cho Phật Pháp trường tồn
[ Chẳng hư chẳng hoại một môn pháp nào
[ Đó là cách tối cao dâng cúng
[ Còn quý hơn thờ phụng viễn vông.
Người nào muốn tỏ tấm lòng
Cúng dường, ngưỡng mộ, bảo tồn, vâng theo
Trong Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni thứ
Hay Thiện nam, Tín nữ thực hành
Chánh Pháp, Tùy Pháp tựu thành
_______________________________
(1) :Hoa Madàrava - Mạn-đà-la.(2) : Hoa Cunnàvà - Mạn-thù-sa .
* Những câu trong dấu [ trích từ bài “Phật Nhập Niết Bàn”
trong quyển Nhật Hành của GH Tăng Già Nguyên Thủy VN .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 196
Hành trì đúng pháp, sống lành chánh chân,
Gọi là phần cúng dường cao thượng
Là tôn sùng, kính ngưỡng Như Lai
Là nhân Chánh Pháp còn hoài
Giới luật thanh tịnh lâu dài vâng theo ”.
4. Lúc bấy giờ, Tỷ Kheo Tôn giả
Là U-Pa-Va-Ná (1) vị này
Đứng trước Thế Tôn, quạt Ngài
Thế Tôn liền quở trách ngay tức thì :
– “ Này Tỷ Kheo ! Chuyển di mấy bước
Đừng nên đứng phía trước mặt Ta ”.
Ngài Tôn-giả A-Nan-Đa
Thấy vậy, tự nghĩ : “ Thật là lạ thay !
Đại Đức này từng là thị-giả
Từng hầu cận Phật đã lâu ngày
Nay sao giờ phút cuối này
Phật lại quở trách, duyên đây thế nào ? ”.
5. A-Nan-Đa hướng vào đức Phật
Bạch hỏi Ngài : “ Không hiểu vì sao
Ngài lại quở trách nhắm vào
U-Pa-Va-Ná chính vào lúc đây ? ”.
– “ Này A-Nan ! Lúc này Thiên chúng
Ở mười phương uy dũng đủ đầy
Tụ hội đông đảo nơi đây
Để được chiêm ngưỡng Như Lai cuối cùng.
A-Nan-Đa ! Suốt chung quanh chỗ
Câu-Thi-Na long thọ rừng này
_______________________________
(1) : Tỷ kheo Upavàna .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 197
Do-tuần kể đến mười hai
Dù một chỗ nhỏ như vài đầu đinh
Đều có những hữu tình Thiên chúng
Nhiều uy lực ; các chúng Thiên thần.
Chư Thiên hiện đang phàn nàn :
‘Chúng ta từ khắp mười phang xa vời
Vân tập nơi đạo tràng thanh tịnh
Để chiêm ngưỡng đức Chính Biến Tri
Đêm nay tịch diệt ra đi
Xa lìa ba cõi, vĩnh ly người, trời.
Nhưng nay thời có vì Tôn-giả
Là Tỷ Kheo U-Pá-Va-Na
Đứng án trước mặt Phật-Đà
Khiến chúng ta chẳng thấy qua Cha Lành’.
Chư Thiên chúng đồng thanh phiền trách
Nên Như Lai quở trách Sư này ”.
6. – “ Bạch đức Thế Tôn ! Hiện nay
Ngài đang thấy Chư Thiên này ra sao ? ”
– “ A-Nan-Đa ! Biết bao Thiên chúng
* Trên hư không, tâm vọng thế gian
Những vị này đang khóc than
Đầu bù tóc rối, chẳng màng uy nghi
Duỗi cánh tay, thân thì ngã sấp
Trên mặt đất lăn lộn lại qua
Than rằng : ‘Pháp nhãn tối lòa
Thế gian sẽ khổ khi Cha Lành rời
Sớm nhập diệt, cõi đời từ bỏ
Ai là người dạy dỗ, dựa nương ?’.
* Lại có chư Thiên bậc thường
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 198
Ở trên mặt đất cũng đương khóc ròng
Tâm thế tục nên không tự chế
Nhào lăn lộn, kể lể bi ai :
‘Thế Tôn, Thiện Thệ hỡi Ngài !
Sao diệt độ sớm, chẳng hoài chúng sinh
Khiến pháp nhãn thình lình biến mất
Làm sao được gặp Phật sau này ?’.
* Nhưng đang hiện diện nơi đây
Cũng có Thiên chúng đoạn rày tham, sân
Đã diệt trừ được phần Ái dục
Nên bình thản, thuần thục luyện tâm
Chư Thiên này quán âm thầm :
‘Các hành biến diệt, chẳng làm đổi thay ”.
7. – “ Bạch Thế Tôn ! Khi Ngài tại thế
Các Tỷ Kheo giải chế An cư
Từ khắp các miền địa dư
Thường về đảnh lễ Đại Từ Thế Tôn
Được gặp nhiều Sa-môn chí thiện
Bậc tu hành điêu luyện, tinh nghiêm
Con được học hỏi, cung chiêm
Được nhiều lợi ích, một niềm kính tôn.
Nhưng sau khi Thế Tôn nhập diệt
Chúng con biết chiêm ngưỡng nơi đâu ? ”.
– “ Này A-Nan-Đa ! Dựa vào
Có bốn thánh tích không sao nghĩ bàn
Mà Tứ Chúng các hàng cần phải
Luôn tôn kính, lễ lạy, cung chiêm
Thế nào bốn nơi cần tìm ?
Chiêm bái, đảnh lễ một niềm tịnh thanh ?
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 199
* Thứ nhất, nơi Đản Sanh ở tại
Lum-Bi-Ni (1), chiêm bái lâu dài
Tôn kính, đảnh lễ nơi đây
Thánh tích lưu lại hậu lai cõi đời.
* Điểm thứ hai, là nơi Thành Đạo
Bồ Đề Tràng (2) chứng đạo sâu xa
Còn gọi Bô-Thí-Ga-Da (2)
Thánh tích quan trọng để mà cung chiêm.
* Điểm thứ ba phải tìm kính viếng
Nơi Như Lai đã Chuyển Pháp Luân
Vườn Lộc Uyển (3) Pháp khơi nguồn.
* Địa điểm thứ bốn phải luôn tôn sùng
Câu-Thi-Na cuối cùng tịch diệt
Vô-Dư-Y nhập Niết Bàn này.
Tứ Chúng lấy bốn nơi đây
Làm nơi chiêm bái, tỏ bày kính tôn.
Bốn thánh tích bảo tồn, lễ bái
Bốn Động Tâm – khởi tại chứng tri
Hàng Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni
Thiện
Tại bốn nơi vô cùng quan trọng
Thì động tâm, tưởng vọng Phật ân
Đã từng cứu khổ, giáng trần
Gian nan, kham nhẫn, dấn thân độ đời.
Khi chiêm bái bốn nơi thánh tích
Chốn tĩnh mịch, xúc cảm động tâm
Nghĩ đến Phật, nhớ ân thâm
_______________________________
(1) : Lumbini ( Lâm-Tỳ-Ni ). (2) : Bodhigàya (Bồ-Đề Đạo Tràng)
(3) : Vườn Nai ( Isipatana -
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 200
Đến khi thân hoại, sinh tầm cõi Thiên
Hay có duyên sinh nơi nhàn cảnh
Có uy quyền, sức mạnh, giàu sang ”.
***
9. – “ Bạch Phật ! Tiếp xúc các hàng
Đối với phái Nữ phải toan thế nào ?
Phải xử sự làm sao với họ ? ”.
– “ Này A-Nan ! Đừng ngó họ thôi ! ”.
– “ Nhưng khi bắt buộc nhìn rồi ? ”.
– “ Chớ có nói chuyện mọi nơi không cần ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Nếu cần nói chuyện ? ”.
– “ Phải an trú chánh niệm, giữ tâm ”.
***
10. – “ Bạch Thế Tôn ! Với Phật thân
Sau khi tịch diệt, phải cần làm sao ? ”
– “ A-Nan-Đa ! Biết bao Cư Sĩ
Sát-Đế-Lỵ, Phạm-Chí, Thương-gia
Hoặc những Học-giả, Chủ-gia
Chí thành kính ngưỡng Phật Đà lâu nay
Những vị đó đến ngay vườn ngự
Lo chu đáo hậu sự Như Lai.
Các hàng xuất gia đêm ngày
Hãy cố nỗ lực diệt bài vô minh
Hãy tự độ, không sinh phóng dật
Hãy cần mẫn, sống thật tịnh thanh ”.
11. – “ Bạch Phật ! Cư Sĩ đại danh
Đến lo Tăng lễ thực hành ra sao ? ”
– “ Những người nào lo về Tang lễ
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 201
Con bảo theo thể lệ Đại Vương
Là bậc Chuyển Luân Thánh Vương :
Dùng toàn vải trắng nhiều trương bao tròn
Sau đó còn vấn thêm gai bện
Rồi tiếp đến vấn vải mới thêm
Tất cả năm trăm lớp mềm.
Mọi việc thực hiện với niềm kính tôn
Rước nhục thân đặt trong hòm sắt
Lập hỏa đài gồm các danh hương
Dùng thiêu xác Chuyển Luân Vương
Cũng giống thiêu đấng Pháp Vương Phật Đà.
Sau trà tỳ, thâu qua Xá Lợi
Xây bảo tháp, thỉnh tới tôn thờ
Địa điểm xây tháp bấy giờ
Ngả tư đường lớn, xây bờ chung quanh.
Những ai đó tâm lành ngưỡng mộ
Mang lễ vật đến chỗ Tháp này
Hoa, hương, đèn, nến đặt bày
Hoan hỷ đảnh lễ Tháp đây chí thành
Sẽ phát sanh được nhiều lợi ích
Được vui thích, hạnh phúc lâu dài.
12. Này A-Nan-Đa ! Những ai
Đáng được xây Tháp, tỏ bày kính tôn ?
* Thứ nhất là Thế Tôn, Thiện Thệ
Chánh Đẳng Giác, đáng để kính tôn,
Bậc Ứng Cúng Đại Sa-Môn
Giáng trần cứu độ, pháp môn hoằng truyền.
* Bậc thứ hai là Duyên Giác Phật
Bách-Chê-Ká hay Phật Bích-Chi (1)
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 202
Hay Độc-Giác (1) Phật danh tri.
* Thứ ba là đến các vì thánh minh
Sa-Va-Ká (2) tức Thinh-Văn-Giác.
* Thứ tư, đáng xây tháp cúng dường
Là vị Chuyển Luân Thánh Vương (3)
Cả bốn bậc ấy tháp thường nên xây.
– A-Nan này ! Vì sao các bậc
Lập tháp thật xứng đáng, không sai ?
* Thứ nhất về đấng Như Lai
Bậc Thầy ba cõi, muôn loài kính tin,
Khi đứng trước uy linh bảo tháp
Người chiêm ngưỡng sẽ phát tâm lành
Khi thân hoại, được tái sanh
Vào nơi nhàn cảnh hay sanh cõi trời.
Lý do ấy, đúng thời xây tháp.
* Bậc Duyên Giác hay bậc Thinh-Văn
Người có đức tin đến gần
Hoan hỷ nghĩ đến vô ngần phước duyên
Lúc hiện tiền xứng danh Ứng Cúng
Khi thọ dụng Thiện Tín cúng dường.
Do sự hoan hỷ tán dương
Sau khi thân hoại, họ thường sinh Thiên
Hay phước duyên sinh vào nhàn cảnh
Được lợi ích, hưởng hạnh phúc nhiều.
Này A-Nan-Đa ! Còn điều
* Chuyển Luân Thánh Chúa tiêu diêu băng hà
_______________________________
(1) : Pacceka Boddhi (Bích-Chi Phật) Độc Giác hay Duyên Giác .
(2) : Savaka Bodhi : Thinh-Văn Giác hay Thanh-Văn Giác .
(3) : Cakkavattim : Chuyển Luân Thánh Vương .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 203
Cũng xứng đáng xây tòa bảo tháp
Vì dân muốn báo đáp Ân Vương
Trị vì đứng pháp, tinh tường
Nhân từ, Đức trị , muôn phương được nhờ.
Bốn bậc đáng tôn thờ, xây tháp
Người chiêm lễ an lạc vô cùng
Sau khi thân hoại mạng chung
Sinh về Thiên giới hay vùng vui an.
***
13. Đêm khuya vắng, A-Nan than khóc
[ Bỏ đi ra dựa gốc cây ngoài
[ Than rằng : “ Đại Đức hỡi Ngài !
[ Rất nhiều ân đức cao dày lắm thay !
[ Sao nỡ chẳng đoái hoài, dứt bỏ
[ Vội nhập Vô-Lượng-thọ Niết Bàn
[ Con đường tấn hóa dứt ngang
[ Thật vô thường lắm, hợp tan không chừng !
[ Thế Tôn hỡi ! Dửng dưng bao nả
[ Chính con đây ròng rã phụng thờ
[ Nhưng sót cho đến bây giờ
[ Chưa đắc La-Hán, biết chờ bao lâu ?! ”
[ Lúc ấy Phật ngước đầu để hỏi
[ Dạy ra gọi A-Nan trở vào
[ Dùng lời an ủi thanh cao :
[“ A-Nan-Đa hỡi ! Bớt nao tấm lòng
[ Con chớ khá hoài công hối tiếc
[ Thói thường tình nên diệt cho an.
A-Nan chớ có khóc than
_______________________________
* Những câu trong dấu [ trích từ bài “Phật Nhập Niết Bàn”
trong quyển Nhật Hành của GH Tăng Già Nguyên Thủy VN .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 204
Ta đã từng dạy rõ ràng trước đây :
‘Vật ái luyến đều hay sanh biệt
Hoặc tử biệt , dị biệt chẳng sai’.
Làm sao có sự kiện này :
‘Các pháp sinh, trụ, đổi thay không ngừng
Các pháp này hãy đừng tiêu diệt’,
Điều đó thiệt vô lý vô cùng.
Sinh, Trụ, Dị, Diệt luật chung
(Cũng như Thành, Trụ, Hoại, Không - sự đời )
A-Nan-Đa chẳng dời tâm chí
Thân, khẩu, ý từ ái, thẳng ngay
Thị giả hầu cận lâu ngày
Hết lòng săn sóc Như Lai đủ điều,
Đem lợi ích cùng nhiều an lạc
Cho những người đến gặp Như Lai,
Thị giả có một không hai
Sẽ chứng La-Hán một ngày không xa.
15. Rồi Thế Tôn xây qua Tăng Lữ
Ngài dạy rằng : “ Quá khứ Thế Tôn
Giáng trần hoằng truyền Pháp môn
Cũng có thị giả Sa-môn như vầy
Thị giả chư Phật này tối thắng.
Thời vị lai, Chánh Đẳng Thế Tôn
Cũng có thị giả Sa-môn
Tối thắng, ưu việt, tiếng đồn lan xa
Tâm từ hòa, mọi người yêu mến
Khi được đến yết kiến, hỏi han.
Cũng như Ta có A-Nan
Là người có trí, vẹn toàn, hiểu nhanh
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 205
Thời điểm nào sẽ dành yết kiến
Cho Tỷ Kheo hay diện Chư Ni,
Đến lượt Tín Nữ gặp vì Đạo Sư.
Khéo sắp xếp do từ linh động
Uyển chuyển vì nếp sống Thiền-gia.
16. Các Tỷ Kheo ! A-Nan-Đa
Có bốn đức tính thật là tối ưu.
Các Tỷ Khưu ! Thế nào là bốn ?
- Chúng Tỷ Kheo nếu muốn đến tìm
Sẽ được hoan hỷ tăng thêm
Vì được gặp mặt, một niềm hân hoan
Nếu A-Nan thuận thời thuyết pháp
Họ hoan hỷ an lạc thật tình
Nhưng nếu A-Nan làm thinh
Họ sẽ thất vọng, phát sinh ưu phiền.
- Tỷ Kheo Ni, hai bên Cư Sĩ
Gặp A-Nan, hoan hỷ hài lòng
Nếu được nghe thuyết pháp xong,
Họ sẽ thất vọng nếu không nghe gì.
* Cũng giống như một vì Thánh Đế
Chuyển Luân Vương cõi thế trị vì
Có bốn đức tính diệu kỳ
Nếu có bốn chúng thân tùy của vua :
Sát-Đế-Lỵ, hàng thừa uy dũng
Bà-La-Môn là chúng thứ hai
Thứ ba Gia Chủ ngoại tài
Hàng Sa-Môn chúng đủ đầy nghiêm trang.
Các chúng ấy khi sang yết kiến
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 206
Thấy Thánh Vương liền khiến hân hoan
Nghe Vương nói chuyện nhẹ nhàng
Sẽ được hoan hỷ, bình an trong lòng.
Chuyển Luân Vương nếu không nói chuyện
Họ thất vọng, sẽ khiến ưu phiền.
A-Nan-Đa cũng có riêng
Bốn đức tính ấy, giống tuyền Thánh Vương.
***
17. Nén đau thương, A-Nan bạch hỏi :
– “ Bạch Thế Tôn ! Ở mọi nơi nào
Có những đô thị lớn lao
Sang trọng, đẹp đẽ, không sao kể rồi
Dân cư đông, đồng thời khá giả
Như : Chăm-Pa (1), Ra-Chá-Gá-Ha (2)
Sa-Vát-Thi (3), Sa-Kê-Ta (4)
Kô-Săm-Bi (5) hoặc Ba-Rà-Na-Si (6)
Những nơi ấy, nhiều vì Cư Sĩ
Sát-Đế-Lỵ, Gia Chủ, Bàn-Môn
Họ rất tin tưởng Thế Tôn
_______________________________
* Những thành phố lớn, phồn thịnh và là những trung tâm văn
hóa, thương mại, chính trị … quan trọng thời bấy giờ :
(1) : Campà ( Chiêm-Bà ) . (2) : Ràjagaha ( Vương-Xá ) là thủ
phủ của vương quốc
Sa-La và sau là vua A-Xà-Thế . Nơi đây cũng đã tổ chức Đại
Hội Kết Tập Tam Tạng lần đầu tiên sau khi Phật Niết-Bàn 3
tháng dưới sự chủ tọa của Ngài Mahà Kassapa ( Ma-Ha Ca-
Diếp ) tại động Sattapanni , do vua A-Xà-Thế ngoại hộ .
(3) : Sàvatthi ( Xá Vệ ) thủ phủ của vương quốc Kosala , nơi có
ngôi Tinh-Xá nổi tiếng là Kỳ-Viên do Trưởng-giả Cấp-Cô-Độc
dùng vàng trải khắp mặt đất để mua cho được khu vườn của
Thái-tử Kỳ-Đà dâng đến Đức Phật và Chúng Tăng để hoằng
truyền Chánh Pháp . (4) : Thành phố Sàketa ( Sa-K ỳ ) .
(5) : Kosambi (Kiều-Thưởng-Di ). (6) Bàrànasi ( Ba-la-nại ).
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 207
Tôn sùng, ngưỡng mộ Thế Tôn lâu ngày.
Tại sao Ngài lại không diệt độ
Ở những chỗ đô thị kể trên ?
Các hàng Cư Sĩ bốn bên
Sẽ lo Tang Lễ trở nên huy hoàng.
Lại chọn nơi điêu tàn vắng vẻ
Đô thị nghèo, nhỏ bé, tầm thường ? ”.
– “ Này A-Nan ! Chớ xem thường
Xưa kia có Chuyển Luân Vương trị vì
Thành Ku-Si-Na-Ra lúc ấy
Là kinh đô lộng lẫy ; Vua là
Ma-Ha-Sú-Đát-Sa-Na (1)
Hay Đại Thiện Kiến Vương là Chuyển Luân
Cai trị dân chỉ thuần dùng Đức
Đúng theo pháp của bậc Thánh Vương
Thống lĩnh thiên hạ phú cường
Chinh phục bằng sự yêu thương dân lành.
Có bảy báu phát sanh đầy đủ
Tên Thủ phủ : Ku-Sa-Vá-Ti (2)
Kinh đô từ đông sang tây
Đo được cho đến mười hai do-tuần
Bắc
Kinh đô này phồn thịnh, mạnh giàu
Dân đông đúc, cửa nhà cao
Giàu có, sung mãn, biết bao thái hòa !
Giống như A-La-Ka-Manh-Đá (3)
Là kinh đô sang cả cõi Trời
_______________________________
(1) : Mahàsudassana ( Đại Thiện Kiến Vương ).
(2) : Kinh đô tên Kusàvatì ( C âu-xá-bà-đề ).
(3) : Kinh đô chư Thiên Alakamanda .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 208
Phú cường, phồn thịnh mọi thời
Thiên chúng sung sướng, dạo chơi an nhàn.
Lại nói sang Ku-Sa-Va-Tí
Cũng giống như đô thị Chư Thiên
Ngày đêm vang dậy khắp miền
Cả chín loại tiếng, nghe liền an vui :
Là tiếng voi, ngựa và xập xỏa,
Tiếng tỳ bà lại cả tiếng xe,
Trống lớn, trống nhỏ thường nghe
Tiếng chuông, tiếng hát chỉnh tề, ngân nga
Tiếng thứ mười chính là lời gọi :
‘Hãy uống đi, ăn mọi thức ăn !’.
19. Phật lại dạy : “ Này A-Nan !
Con hãy gấp rút đi sang kinh thành
Thông báo với người dân Man-Lá
Sinh sống cả Ku-Sí-Na-Ra :
“ Này các vị Vê-Sết-Tha !
Đêm nay canh cuối Phật ta Niết Bàn
Hãy đi sang nơi Ngài an ngự
Rừng Sa La để tự lễ Ngài
Chiêm ngưỡng lần cuối Như Lai
Để khỏi hối hận sau này xảy ra
Tự trách là không còn có thể
Được đảnh lễ Đại Giác cõi đời ”.
A-Nan-Đa vâng theo lời
Bảo Tỷ Kheo khác đồng thời cùng đi.
20. Đến kinh thành Ku-Si-Na-Rá
Dân Man-Lá đang họp giảng đường.
A-Nan truyền lời Pháp Vương
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 209
Tất cả hiện diện khóc thương ưu phiền,
Có nhiều người ngã liền xuống đất
Họ khóc ngất, lăn lộn lại qua
Đầu bù tóc rối, lệ nhòa
Có kẻ duỗi cánh tay mà khóc than :
‘Thế Tôn sao vội vàng nhập diệt !
Ôi bi thiết ! Pháp nhãn mất rồi !’.
Dân Man-La than khóc rồi
Cùng nhau đi đến tại nơi Phật Đà
Sắp diệt tại rừng hoa long thọ
Đi cùng vợ, con gái, con trai
Tâm tư sầu muộn, u hoài
Đến nơi tìm để gặp ngài A-Nan.
22. Đức A-Nan bấy giờ tự nghĩ :
“ Nếu các vị dân chúng Man-La
Từng người đảnh lễ Phật Đà
Thì cho đến sáng cũng là chưa xong
Phải sắp xếp cộng đồng liên hệ
Từng gia tộc đảnh lễ Phật Đà ”.
Hướng dẫn từng nhóm tiến qua
Đến phía trước Phật, xướng ra để trình :
“ Bạch Thế Tôn ! Gia đình…, thân tộc…
Giòng Man-La xin dốc lòng thành
Cúi đầu đảnh lễ dưới chân
Những mong chiêm ngưỡng kim thân cuối cùng ”
Ngài A-Nan đã dùng phương tiện
Trong canh một, diễn tiến tốt lành
Các nhóm dân chúng trong thành
Đều được lễ Phật, tịnh thanh ra về.
* * *
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 210
23. [ Đêm khuya khoắt, tứ bề vắng vẻ
[ Bỗng một người lặng lẽ từ xa
[ Người này tên Sú-Phách-Đa (1)
Được tin đức Gô-Ta-Ma Niết-bàn
Trong đêm nay, khi sang canh cuối
Liền suy nghĩ : “ Những buổi luận bàn
Ta nghe Du-sĩ các hàng
Niên cao lạp lớn thường bàn điều đây :
‘Thật hy hữu Như Lai xuất hiện
Bậc Ứng Cúng, Chính Biến Tri này’.
Nhưng vào canh cuối đêm nay
Kiều Đàm ngài sẽ nhập ngay Niết-bàn.
Nay nghi vấn khởi ngang trong trí
Ta tin chắc cũng chỉ Ngài là
Có thể giải nghi cho ta ”.
24. Rồi du-sĩ Sú-Phách-Đa đến gần
Rừng Sa-La của dân Man-Lá
U-Pa-Va-Ta-Ná đạo tràng.
Đến gặp Tôn-giả A-Nan
Thưa rằng : “ Hiền-giả ! Tôi hằng được nghe
Các Sư-trưởng nói về đức Phật
Rất hy hữu và rất là may
Nếu được gặp đấng Như Lai
Nhưng vào canh cuối đêm nay Niết-bàn
Tôi vội vàng tìm sang để hỏi
Một nghi vấn để khỏi lầm sai
Xin Tôn-giả cho gặp Ngài ”.
– “ Hiền-giả không thể gặp Ngài hiện nay,
_______________________________
(1) : Subhadda .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 211
Đức Thế Tôn lúc này rất mệt
Chớ phiền nhiễu, yết kiến bây giờ ”.
Nhưng lòng mong mỏi vô bờ
Thêm hai lần nữa nhỏ to nằn nì
Nhưng A-Nan kiên trì từ chối.
25. Phật đang nằm, nghe nói lao xao
Biết Su-Phách-Đa khẩn cầu
Muốn gặp Phật, hỏi nhằm vào giải nghi.
Ngài động lòng từ bi nên gọi :
– “ A-Nan-Đa ! Chớ vội cản ngăn
Ta nghe người ấy phân trần
Biết là đang có điều hằng nghi nan
Muốn được hỏi hoàn toàn để hiểu
Không có ý phiền nhiễu Như Lai
Hãy cho người ấy vào đây ”.
– “ Này Sú-Phách-Đá ! Như Lai cho vào ”.
26. Du sĩ gặp, xá chào đức Phật
Nói những lời chúc thật xã giao
Ngồi xuống một bên, hỏi vào
Vấn đề thắc mắc không sao giải này :
– “ Thưa Tôn-giả ! Trước nay hiện có
Các Sư-trưởng, khai tổ tông-môn
Có danh vọng, được kính tôn
Là bậc hội-chủ tiếng đồn gần xa :
Như Pa-Rá-Na Káp-Sá-Pá (1),
Pa-Ku-Tha Kách-Chá-Da-Na (2),
_______________________________
* Lục Sư ngoại đạo thời Phật : (1) : Pàrana Kassapa .
(2) : Pakudha Kaccàyana ( Bà-phù-đà Ca-chiên-diên ).
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 212
Mặc-Ka-Li Gô-Sa-La (3),
Hay Ni-Ga-Thá Na-Tha-Pút-Tà (4)
Hay ngài A-Chi-Ta (5) lịch lãm
Tức là Kê-Sa-Kắm-Ba-Li (5)
Ngài Sanh-Cha-Dá (6) danh uy
Tức Sư-trưởng Bê-Lát-Thi-Pút-Tà (6).
Sáu Đạo-sư đều là Giáo-trưởng
Tự cho mình cao thượng, xuất trần
Đã giác ngộ thành Thánh nhân.
Có phải sáu vị dự phần Thánh gia
Các ngài đều là A-La-Hán ?
Hay đều chưa viên mãn Thánh nhân ?
Hay chỉ giác ngộ một phần ? ”.
– “ Này Su-Phách-Đá ! Về phần nghi đây
Hãy gác lại chuyện này một chỗ
Về Lục Sư giác ngộ hay không.
Sú-Phách-Đa ! Hãy lắng lòng
Nghe Như Lai nói đục trong cho tường ”.
– “Xin vâng, bạch Pháp Vương Đại Giác”.
27.– “Sú-Phách-Đa ! Trong pháp luật nào
Không Bát Chánh Đạo thanh cao
Thời không thể có đạt vào tối tôn
Là Đệ Nhất Sa-môn, Đệ Nhị,
Hay Đệ Tam, Đệ Tứ Sa-môn,
( Tức Tứ Thánh Quả đáng tôn
Là Dự Lưu quả, rồi còn Nhất Lai,
_______________________________
(3) : Makkhali Gosàla ( Mạt-già-lê Cù-xá-lợi )
(4) : Nigantha Nàtaputta ( Ni-kiền-tử )
(5) : Ajita Kesakambali ( A-Kỳ-đà Xí-xá-khâm-bà-la )
(6) : Sanjaya Belatthiputta ( Tán-nhã-di Tỳ-la-lê-phất )
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 213
Quả Bất Lai và A-La-Hán ).
Trong pháp luật viên mãn ở đây
Có Bát Chánh Đạo đủ đầy
Đệ nhất, đệ nhị bậc này Sa-môn
Rồi đệ tam Sa-môn, đệ tứ
Có đầy đủ bốn Thánh Thinh Văn
Pháp luật Như Lai thường hằng
Hành Bát Chánh Đạo để thăng tiến dần
Đạt giác ngộ chánh chân Thánh đạo
Các hệ thống ngoại đạo thì không
Không có chân chánh Sa-môn
Còn Bát Chánh Đạo bảo tồn cũng không.
Tỷ Kheo nào một lòng, chân chánh
Thì đời này không vắng Thánh nhân.
“ Này Sú-Phách-Đa ! Tự thân
Như Lai nghĩ lại về phần giác tha
Hai mươi chin tuổi xuất gia
Trải năm mươi mốt năm qua xa vời
( Bốn mươi lăm năm độ đời )
Ta là du-sĩ một thời tịnh tu
Tu Trí, tu Đức công phu
( Không hề thối chuyển cho dù bỏ thân ) ”.
28. Nghe pháp nhũ Phật ân thuyết giảng
Sú-Phách-Đa bừng sáng, thốt lên :
– “ Kính bạch Đại Đức Thế Tôn !
Nghe được vi diệu thiện ngôn của Ngài
Con vô cùng cảm hoài, hoan hỷ
Trước Giáo Pháp tối thượng huy quang
Vi diệu thay ! Những lời vàng
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 214
Như người dựng đứng vật đang ngã nằm
Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
Đem đèn sáng vào tối như bưng
Để ai có mắt mở bừng
Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.
*
Cũng như vậy, nhiệm mầu Chánh Pháp
Được Thế Tôn phân tách, trình bày
Con xin quy ngưỡng từ nay
Quy y đức Phật, nương ngay Pháp mầu,
Quy y Tăng thanh cao đức cả
Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn.
Mong Thế Tôn nhận cho con
Được phép nhập chúng, vuông tròn lợi tha
Thọ Đại giới xuất gia Cụ Túc
Thành Tỷ Kheo thu thúc lục căn ”.
– “ Này Sú-Phách-Đá ! Hiểu chăng ?
Như Lai Giới Luật pháp đăng soi đường
Có qui định : thường thường ngoại đạo
Muốn quay về Tam Bảo xuất gia
Bốn tháng biệt trú trải qua
Sau đó thấy được, Tăng Già chuẩn y
Được xuất gia nghiêm trì Giới luật
Thành Tỷ Kheo, pháp Phật bảo tồn ”.
– “ Kính bạch Đại Đức Thế Tôn !
Nếu trong pháp luật tịnh môn định là
Kẻ ngoại đạo phải qua bốn tháng
Sống biệt trú để quán sai lầm
Trước kia, cả thân lẫn tâm
Sau đó mới được Chúng Tăng nhận vào.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 215
Thì nay con với bao tha thiết
Mong gia nhập siêu việt Tăng-thân
Tình nguyện biệt trú Bốn năm
Sau đó Tăng Chúng âm thầm thẩm tra
Cho xuất gia Tỷ Kheo Cụ-túc
Giữ đại giới, thu thúc, cần chuyên ”.
.
– “ Này Sú-Phách-Đá ! Tuy nhiên
Chúng sinh, Ta thấy không tuyền giống nhau
Cá tính người, trước sau sai biệt
Có trường hợp cần thiết đổi thay
Ngoại lệ, được miễn Luật này
Như ngươi ; tâm ý thẳng ngay, chí thành
Ta cho phép cử hành nghi thức
Lễ xuất gia thành bậc Tỷ Kheo
Đại Giới Cụ Túc vâng theo
Ba y một bát, sống nghèo tịnh thanh ”.
Đức Phật bảo A-Nan Tôn-giả :
– “ Hãy xuất gia cho Sú-Phách-Đa ” (1)
Vâng lời , ngài A-Nan-Đa
Cử hành nghi thức xuất gia tức thì.
30. Tâm hoan hỷ không chi kể thấu
Với ngoại đạo Tu-Bạt-Đà-La (1).
Nói với ngài A-Nan-Đa :
– “ Bạch Ngài ! Lợi ích thật là lớn lao
Thật đại phúc không sao xiết kể
Được thọ lễ quán đảnh xuất gia
Trước mặt Đại Giác Phật-Đà
Được làm đệ tử xuất gia cuối cùng ”.
_______________________________
(1) : Subhadda . Hán Tạng gọi là Tu-Bạt-Đà-La .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 216
Thọ Đại Giới vừa xong, an lạc
Tân Tỷ Kheo Tu-Bạt-Đà-La
Tách riêng chỗ vắng không xa
Một mình an tịnh thiền-na (1) tinh cần
Với nhiệt tâm và không phóng dật
Không bao lâu hoàn tất hành trình
Đoạn trừ phiền não vô minh
Chứng được mục đích mà mình thiết tha
Như các vị xuất gia chân chánh
Là Vô Thượng Phạm-hạnh hoàn toàn
Tự giác chứng và trú an
Giải thoát các lậu, khỏi đàng trầm luân.
Liền hiểu rõ : Tự thân giải thoát
Sanh đã tận, Phạm-hạnh đã thành
Việc cần làm đã thực hành
Sau đời hiện tại, Vô Sanh hiển bày.
Sú-Phách-Đa chứng ngay đạo quả
A-La-Hán, Tôn-giả tịnh thanh
Là đệ tử cuối trong Tăng
Được Phật thế độ, pháp đăng kế truyền.
PHẦN VI :
1. Đêm gần tàn, Phật liền truyền dạy :
– “ A-Nan-Đa ! Con thấy các hàng
Tăng, Ni, Cư-sĩ nữ nam
Khởi lên ý nghĩ : “ Pháp vàng cao siêu
Mà Thế Tôn đã nhiều lần thuyết
Còn đâu ? Khi vĩnh biệt Đại Từ !
_______________________________
(1) : Thiền định - Jhàna ; được phiên âm là Thiền-Na .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 217
Chúng ta không còn Đạo-sư
Lấy đâu nương tựa, pháp như thực hành ! ”
Những tư tưởng không lành như thế
Chớ có để chi phối tâm mình
A-Nan ! Pháp, Luật siêu minh
Như Lai giảng giải, hữu tình hành theo
[ Còn tại thế Ta gieo giống quý
[ Đem Pháp lành rải chí các loài
[ Hành theo, giải thoát nạn tai
[ Khắp cùng ba cõi, trong ngoài an vui
[ Ngày sau chớ dễ duôi biếng nhác
[ Ta tịch rồi, Chân Pháp là Thầy.
[ Giáo Pháp Như Lai giảng bày
[ Nếu đem san định, ngắn dài định phân
[ Tám muôn với bốn ngàn Pháp thiệt
[ Độ sinh linh tiêu diệt trầm oan
[ Như vầng trăng tỏ rõ ràng
[ Chiếu khắp ba cõi, vẹt màn vô minh.
Pháp và Luật uy linh tột bực
Sẽ là Thầy, là bậc Đạo-Sư
Tứ Chúng nương tựa gắng tu
Cũng như có đấng Đạo-Sư cạnh mình.
2. Này A-Nan ! Hành trình hoằng hóa
Các Tỷ Kheo thường đã gọi nhau
“ Hiền Giả !” không phân trước sau
Nhưng sau Ta tịch, yêu cầu sửa mau :
Các Trưởng Lão hạ cao, thông hiểu
_______________________________
* Những câu trong dấu [ trích từ bài “Phật Nhập Niết Bàn”
trong quyển Nhật Hành của GH Tăng Già Nguyên Thủy VN .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 218
Gọi Tỷ Kheo niên thiếu bằng tên,
Gọi “ Hiền-giả ”, gọi họ lên.
Tỷ Kheo niên thiếu phải nên kính nhường
Với Trưởng-lão, gọi thường “ Thượng Tọa ”
Hay “ Đại-đức ”, “ Tôn-giả ”, “ Phành-Tê ” (1)
3. Này A-Nan-Đa ! Nói về
Luật Tạng cao quý liệt kê hành trì
Ta tịch rồi, Tỳ-Ni Tạng (2) đó
Có thể bỏ vài giới nhỏ nhoi
Nếu Chúng Tăng hội xét coi
Học giới nào chẳng hợp thời, bỏ đi.
4. Này A-Nan ! Sau khi Ta tịch
Hãy hành tội đối với Chan-Na (3)
Tỷ Kheo Sa-Nặc (3) cũng là
Tội Phạm-đàn tức Bram-Ma-Đanh-Đà (4)”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Sao là lầm lỗi
Phạm-đàn tội, xử trí thế nào ? ”.
– “ Hãy dùng ‘mặc tẩn’ nhắm vào
Tỷ Kheo Sa-Nặc nói sao mặc tình
Chúng Tỷ Kheo làm thinh chẳng đáp
Không giảng pháp, giáo giới Chan-Na ”.
_______________________________
(1) : Bhante : Bạch Ngài & Bạch Thượng Tọa .
(2) : Tạng Luật : Vinaya Pitaka , Vinaya được phiên âm Tỳ-Ni .
(3) : Channa ( âm là Sa-Nặc ) là người hầu cận đánh xe ngựa cho
Thái-tử Sĩ-Đạt-Ta và cũng là người đưa Thái-tử trốn khỏi hoàng
thành xuất gia tầm đạo . Sau khi Phật thành đạo , ông xuất gia
theo Phật, nhưng hay cậy công phục vụ khi Ngài còn là Thái-tử
nên không kính nể một ai, kể cả các vị Trưởng lão hạ-lạp cao .
Phật đã nhiều lần răn bảo nhưng ông vẫn không thay đổi nên
Phật dùng cách này để sửa đổi ông .
(4) : Brahmadanda :tội phạm-đàn hay mặc tẩn .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 219
( Bởi vì Sa-Nặc tỏ ra
Cứng đầu, ương ngạnh, bất hòa Chúng Tăng ).
5. Rồi Phật hỏi Chư Tăng hiện diện :
– “ Các Tỷ Kheo ! Ai hiện phân vân
Nghi ngờ về Phật, Pháp, Tăng
Về đạo, phương pháp tu hằng dụng công ?
Hãy hỏi đi, để không hối tiếc
Rằng trước đây không biết hỏi liền
Khi đức Thế Tôn hiện tiền
Chính Ngài khuyến khích nêu lên vấn đề ”.
Khi nghe vậy, tứ bề thính chúng
Đều im lặng, giữ đúng oai nghi
Thế Tôn hỏi lại hỏi đi
Ba lần về việc còn nghi ngờ gì
Về đức Phật hoặc vì Giáo Pháp
Về Chúng Tăng, phương pháp hành trì.
Nhưng tất cả chẳng nói chi
Phật lại dạy cách khả thi thuận tùy :
– “ Các Tỷ Kheo ! Nếu vì tôn kính
Nên không dám hỏi chính Như Lai
Thì chung quanh, bất cứ ai
Bạn đồng tu, hãy nhờ ai hỏi giùm
Hay hỏi nhau để cùng hiểu rõ
Chưa giải nghi, lúc đó hỏi Ta ”.
Dù Phật nhiều lượt nêu ra
Nhưng hàng Tăng Chúng vẫn là lặng yên.
6. Ngài A-Nan thấy, liền bạch Phật :
– “ Bạch Thế Tôn ! Quả thật diệu kỳ
Hy hữu thay ! Đấng Từ Bi !
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 220
Giáo Pháp Phật thuyết không gì nghi nan
Con tin rằng trong hàng Tăng Chúng
Không một ai còn móng lòng nghi
Còn phân vân, do dự gì
Vào Phật, vào Pháp hay vì Chúng Tăng,
Vào Giáo Pháp khả năng diệu dụng
Đều hiểu đúng phương pháp hành trì ”.
– “ Này A-Nan-Đa ! Chỉ vì
Đức tin con vốn chẳng gì chuyển lay
Nên con nói điều này như vậy.
Nhưng Ta thấy trong Chúng Tăng đây
Cũng không có lấy một ai
Phân vân, do dự, điều này còn nghi.
Chúng Tỷ Kheo hiện thì có mặt
Tại nơi đây : chắc chắn, vững tin
Năm trăm Tỷ Kheo tự mình
Tinh tấn tu tập, giữ gìn Pháp chân
Đều chứng đắc bốn tầng Thánh quả
Người thấp nhất cũng quả Dự Lưu
Không còn đọa lạc, oán cừu,
Hướng đến Chánh Giác vô ưu Niết-bàn.
7. – “ Hỡi Tăng Chúng ! Hợp tan bao nỗi
Pháp Hữu-Vi biến đổi, vô thường
Hãy tinh tấn, tu kiên cường
Chớ có phóng dật, xem thường, buông lơi ”.
Đó là lời cuối cùng của Phật
Rồi Ngài nhập vào định Sơ Thiền
Xuất Sơ thiền, nhập Nhị thiền
Xuất Tam thiền, đoạn nhập riêng Tứ thiền
Xuất rồi nhập Vô Biên Không Xứ
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 221
Xuất Không Xứ, nhập Thức Vô Biên
Xuất Thức Vô Biên Xứ liền
Nhập Vô Sở Hữu Xứ thiền chẳng lơi
Xuất Vô Sở Hữu thời nhập hướng
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thiền
Xuất định này rồi nhập liền
Diệt Thọ Tưởng Định tương duyên Niết-bàn.
Lúc bấy giờ A-Nan Tôn-giả
Thưa A-Nú-Rút-Thá Thánh Tăng :
– “ Thưa Tôn-giả ! Chẳng thường hằng !
Thế Tôn đã tịch, siêu thăng Niết-bàn ”.
– “ Này Hiền-giả A-Nan ! Hãy biết
Thế Tôn chưa tịch diệt hiện nay
Ngài mới nhập vào định ngay
Diệt-thọ-tưởng định, nơi này vừa sang ”.
9. Xuất hoàn toàn Diệt-thọ-tưởng định
Phi-tưởng-phi-phi-tưởng nhập liền
Xuất Tưởng Xứ này, đến phiên
Vô-sở-hữu-xứ nhập liền an nhiên
Xuất ra, Thức-vô-biên-xứ nhập
Rồi xuất, nhập Không xứ Vô-biên
Xuất Không-vô-biên, nhập liền
Vào trong cảnh giới Tứ Thiền viên thông
Xuất Tứ xong, nhập Tam Thiền định
Xuất Tam Thiền, nhập định Nhị Thiền
Xuất Nhị Thiền, nhập Sơ Thiền
Đoạn Ngài lại xuất Sơ thiền là duyên
Nhập rồi xuất Nhị thiền, Tam, Tứ,
Xuất Tứ Thiền, lập tức Niết Bàn.
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 222
10. Quả đất chấn động, nổ vang
Vô cùng khủng khiếp, sấm ran khắp trời
Sét chớp lòe nơi nơi khắp lượt
Người râu tóc dựng ngược, nổi gai
Trước sự tịch diệt Như Lai
Trời, người đều rất u hoài, thương tâm.
Đại Phạm Thiên Sá-Hăm-Pá-Tí
Ngâm bài kệ tự nghĩ, thành lời :
“ Chúng sinh sống ở trên đời
Đến lúc phải bỏ, xa rời xác thân
Ngũ uẩn tan rả dần dần
Đạo-Sư cũng vậy, nhục thân chẳng bền
Bỏ thân ngũ ấm tạo nên
Đại Hùng Giác Ngộ vượt trên phàm trần
Tuyệt luân, Thầy của Thiên, nhân
Phật đã diệt độ, cõi trần lánh xa ”.
Đức Đế Thích tức là Sắc-Ká
Là Chúa cả Đao Lợi thiên cung
Tiếc thương một đấng Đại Hùng
Ngâm lên bài kệ vô cùng cảm thương :
“ Các hành thật là Vô thường
Có sinh phải diệt, con đường tự nhiên
Đã sinh thì có diệt liền
Nhiếp phục được chúng, dứt phiền, lạc an ”.
Phật diệt độ, trong hàng Vô-lậu
Bậc Thiên-nhãn A-Nậu-Đà-La
( Tên chính A-Nú-Rút-Tha (1)
_______________________________
(1) : Xem chú thích ở trang kế .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 223
Hay A-Na-Luật cũng là ngài trên ) (1)
Ngâm bài kệ nói lên cảm nghĩ
Vô Thượng Sĩ tịch diệt, lìa xa :
“ Không phải hơi thở vào ra
Chính do Tâm trú nhờ qua định thiền
Chỉ dùng Chánh Định an nhiên
Tham ái tịch tịnh không thiên chấp càn
Bậc tu diệt độ Niết-bàn
Do tâm bất động hoàn toàn tịnh an
Nhẫn chịu cảm thọ mọi đàng
Như đèn tỏa sáng, gió càn tắt đi
Tâm ngài giải thoát, uy nghi
Thanh thản tịch diệt, chẳng chi dính trần ”.
Ngài A-Nan , Đa Văn Tôn-giả
Ngâm bài kệ như cả lời than :
“ Thật là kinh khủng, bàng hoàng
Râu tóc dựng ngược như hàng phàm nhân
Khi bậc Toàn Thiện, Toàn Năng
Bậc Thầy Giác ngộ siêu thăng, diệt rồi ”.
Khi Thế Tôn lìa đời diệt độ
Những Tỷ Kheo còn có Ái tham
Chưa giải thoát hẳn tâm phàm
_______________________________
(1) : Anuruddha ( còn có tên A-N ậuLâu-Đà , A-Nậu-Đà-La hay
A-Na-Luật ), một trong 7 vị vương-tử giòng Thích Ca xuất gia
theo Phật khi Ngài đã thành đạo và trở về Kapilavatthu .
Ngài có tật hay ngủ gật khi nghe Phật thuyết pháp, bị Phật quở
trách, nên ngài phát nguyện không ngủ cho tới khi nào đắc quả
Do sự cố gắng quá sức, nên hai mắt ngài bị mù . Sau đó ngài
đắc quả A-La-Hán và được liệt vào Thập Đại Đệ Tử của Phật ,
bậc Thiên Nhãn Đệ Nhất .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 224
Nằm lăn dưới đất, khóc than ngút ngàn
Có vị đang duỗi cao tay, kể :
– “ Ôi Thiện Thệ sao sớm Niết-bàn
Ánh sáng giác ngộ tắt ngang
Pháp nhãn biến mất hoàn toàn thế gian ”.
11. Lúc bấy giờ , trong hàng Tôn-giả
Ngài A-Nú-Rút-Thá nghiêm trang
Bảo các Tỷ Kheo khóc than :
– “ Thôi các Hiền-giả ! Chớ than khóc hoài
Chớ bi ai, tiếc thương, sầu não
Khi vắng bóng Phật Bảo trên đời
Các Hiền-giả phải nhớ lời
Thế Tôn đã dạy ngay thời đầu tiên
Rằng mọi vật hiện tiền ưu ái
Mọi thân tình đều phải chia ly
Sanh biệt, tử biệt đến kỳ
Rồi thêm dị biệt chẳng chi còn hoài.
Làm sao sự kiện này được thấy :
‘Những gì sinh, tồn tại, hữu vi
Chịu sự biến hoại chuyển di
Lại mong đừng diệt, khỏi thì đổi thay’,
Sự kiện này hoàn toàn vô lý
Không đúng theo chân lý giáo truyền.
Hiện thời các vị Chư Thiên
Đoạn trừ ái dục – trách phiền phàm phu ”.
– “ Thưa Tôn-giả A-Nu-Rút-Thá !
Hiện Tôn-giả đang nghĩ thế nào ?
Các hạng Chư Thiên thấp cao
Ngài đang thấy họ u sầu ra sao ?
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 225
– “ A-Nan ơi ! Biết bao Thiên chúng
* Trên hư không, tâm vọng thế gian
Những vị này đang khóc than
Đầu bù tóc rối, chẳng màng uy nghi
Duỗi cánh tay, thân thì ngã sấp
Trên mặt đất lăn lộn lại qua
Than rằng : ‘Pháp nhãn tối lòa
Thế gian sẽ khổ khi Cha Lành rời
Sớm nhập diệt, cõi đời từ bỏ
Ai là người dạy dỗ , dựa nương ?’.
* Lại có chư Thiên bậc thường
Ở trên mặt đất cũng đương khóc ròng
Tâm thế tục nên không tự chế
Nhào lăn lộn, kể lể bi ai :
‘Thế Tôn, Thiện Thệ hỡi Ngài !
Sao diệt độ sớm, chẳng hoài chúng sinh
Khiến pháp nhãn thình lình biến mất
Làm sao được gặp Phật sau này ?’.
* Nhưng đang hiện diện nơi đây
Cũng có Thiên chúng đoạn rày tham, sân
Đã diệt trừ được phần Ái dục
Nên bình thản, thuần thục luyện tâm
Chư Thiên này quán âm thầm :
‘ Các hành biến diệt, chẳng làm đổi thay ”.
12. Đêm còn lại, hai ngài Tôn-giả
Là A-Nu-Rút-Thá & A-Nan
Chánh pháp vi diệu luận bàn
Đến khi hừng sáng, vừa sang canh tàn
Vị Thánh Tăng A-Nu-Rút-Thá
Liền nói với Tôn-giả A-Nan :
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 226
– “ Này Hiền-giả ! Hãy đi sang *
Ku-Si-Na-Rá thành, mang tin này :
‘Hỡi các vị hiện đây có mặt !
Đấng Thế Tôn quả thật không còn
Ngài đã diệt độ Niết-bàn
Xin hãy thực hiện Lễ Tang Phật Đà ”.
A-Nan-Đa vâng lời ủy thác
Vào buổi sáng mang bát đắp y
Với một Tỷ Kheo thân tùy
Cùng nhau đi đến Câu-Thi-Na liền.
Lúc bấy giờ hiện tiền dân chúng
Tộc Man-La họ cũng lo lường
Tụ họp vào cả hội-đường
Một trong nghị sự họ đương luận bàn
Là việc Phật Niết-bàn tịch tịnh.
Đức A-Nan nghiêm chỉnh đến nơi
Báo tin Phật đã lìa đời
Niết-bàn diệt độ như lời truyền trao.
Nghe tin dữ, khóc gào than thở
Dân Man-La cùng vợ, con trai
Con gái, thân quyến, tớ thầy
Đau đớn sầu muộn, lăn quay, bổ nhoài
Kẻ khóc hoài, đầu bù tóc rối
Người lăn lộn, duỗi vội cánh tay
Than rằng : “ Thiện Thệ hỡi Ngài !
Sao vội diệt độ, nhập ngay Niết-bàn
Con mắt Pháp vội vàng biến mất
Không còn Phật nương tựa trên đời ! ”
13. Chúng dân Man-Lá tức thời
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 227
Ra lệnh gia bộc chuyển dời, thu gom
Tất cả, gồm hoa hương, nhạc khí
Của khắp thành Ku-Sí-Na-Ra
Năm trăm cuộn vải mang ra
Đến U-Pa-Vát-Ta-Na rừng già
Rừng Sa-la của giòng Man-Lá
Nơi nhục thân Giác Giả Phật Đà.
Cúng dường trầm hương, tràng hoa
Các điệu múa, nhạc, hát ca vang lừng
Những bảo-cái được dùng tôn kính
Để che kín thân-xá-lợi Ngài
Kết bằng tràng hoa Mạn-đà
Tỏa hương thơm ngát lan xa khắp vùng.
Dân Man-Lá họp chung, bàn luận :
“ Nếu hôm nay thiêu đấng Thế Tôn
Thì quá sớm ; Phải kính tôn
Cúng dường trọng thể, bảo tồn niềm tin ”.
Nên họ đình trà-tỳ hỏa táng
Dời một ngày, lại hoãn thêm ngày
Lễ bái đến suốt sáu ngày
Trong thời gian đó, họ bày hương hoa
Thắp đèn nến, dâng ra lễ vật
Rồi múa hát, tấu nhạc cúng dường.
Đến ngày thứ bảy tinh sương
Họ bàn : “ Đến lúc Pháp Vương Phật-Đà
Phải trà-tỳ ; thỉnh ra thành ngoại
Về phía
Bàn xong, họ thực hành ngay
Tám vị Tộc-trưởng đã trai-giới rồi
Đã gội đầu, đồng thời tắm sạch
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 228
Mặc áo mới, phụ trách vào phần
Nâng khiêng Thế Tôn nhục thân.
Nhưng một hiện tượng bất thần xảy ra :
Dù tám vị đều là mạnh thế
Nhưng không thể khiêng nổi nhục thân.
Tám vị kinh ngạc, phân vân
Bạch A-Na-Luật Thánh Tăng việc này :
– “ Bạch Tôn-giả ! Sự đây lạ thực !
Bọn chúng con hết sức kính tuân
Trai-giới, thay mới áo quần
Gội đầu, tắm rửa để nâng khiêng Ngài
Dù cố sức, không tài nào nhấc
Thân-xá-lợi của Phật tịch rồi ! ”.
– “ Này Va-Sết-Tha ! Đúng thôi !
Vì rằng ý định hiện thời Chư Thiên
Lại trái ngược, nhân duyên là vậy.
Các người đã lễ lạy Như Lai
Bằng cả lòng tôn kính Ngài
Nay lại muốn thỉnh ra ngoài nhục thân
Về phía
Rồi trà-tỳ, là ý các người.
Nhưng Chư Thiên các cõi trời
Nghĩ rằng : “ Đại Giác về nơi Niết-bàn
Chư Thiên chúng các hàng vân tập
Suốt thời gian và khắp không gian
Thiên ca, thiên nhạc cúng dàng
Hoa trời tung rải ngập tràn, ngát hương
Nay hãy đưa Pháp Vương nhục thể
Qua cửa Bắc rồi sẽ quang lâm
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 229
Câu-Thi-Na thành trung tâm
Rước thân-xá-lợi hướng nhằm cửa Đông
Đến phía Đông của thành, tôn trí
Tại đền thiêng dân thị Man-La
Ma-Ku-Ta Banh-Tha-Na
Tại nơi đền ấy chúng ta cử hành
Lễ trà-tỳ Phật thân-xá-lợi
( Sau đó đợi thỉnh Xá-lợi xương ) ”.
– “ Kính bạch Tôn-giả được tường
Ý định Thiên chúng đề cương lộ trình
Để tôn vinh Phật thân-xá-lợi
Chúng con đồng ý với Chư Thiên ”.
16. Lúc ấy khắp cả toàn miền
Ku-Si-Na-Rá đều tuyền là hoa
Các đống hoa ngập qua đến gối
Gồm nhiều loại : hoa Mạn-đà-la,
Hay thiên hoa Mạn-thù-sa,
Cùng vô số các danh hoa cõi trần.
Chư Thiên chúng và dân Man-Lá
Lại cúng dường với cả lòng tin
Hương hoa, nhạc múa, trống chinh
Đoạn họ rước Phật lộ trình như trên
Vào trung tâm rồi lên Đông vị
Đến tại đền, tôn trí kim-thân.
17. Dân chúng gặp Ngài A-Nan
Bạch rằng : “ Xử sự Phật thân thế nào ? ”.
Đức A-Nan nhớ vào lời dạy
Của Thế Tôn đáp lại, chỉ rành
Khi ngài đã hỏi liên thanh
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 230
Việc xử sự Xá-lợi-thân Phật-Đà
Nên nói qua cho dân Man-Lá :
– “ Va-Sết-Tha tất cả mọi người !
Xử sự thân-xá-lợi thời
Chuyển Luân Thánh Chúa qua đời làm sao
Thì Phật thân cũng vào tương tự
Phải xử sự giống vị Thánh Vương ”.
– “ Bạch Tôn-giả ! Vậy Thánh Vương
Nhục thân xử sự thường thường ra sao ? ”.
– “ Này các vị ! Ngay sau Thánh Đế
Đã băng hà lìa thế, không còn
Nhục thân sẽ được vấn tròn
Bằng vải trắng mới, kính tôn thực hành
Rồi vấn quanh vải dày gai bện
Đoạn tiếp đến lại vấn vải mềm
Loại vải trắng mới như trên
Vấn vải gai bện tiếp liền quanh thân
Cứ như thế, vấn dần cho đến
Năm trăm lớp gai bện, vải mềm.
Với lòng tôn kính một niềm
Đặt thân Thánh Chúa vào liền kim-quan
Là hòm sắt chứa toàn dầu tất
Lại đặt vào hòm sắt khác ngoài
Để hòm lên giữa hỏa đài
Nổi lửa thiêu cháy thân ngài Thánh Vương
Ngã tư đường xây lên bảo tháp
Thờ xá-lợi của bậc Thánh Vương
Pháp táng Chuyển Luân Thánh Vương
Cũng giống pháp táng Pháp Vương Phật-Đà
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 231
Sau trà-tỳ, thu qua xá-lợi
Dựng bảo tháp sớm tối tôn thờ
Bốn phía có xây lề bờ
Ngã tư đường lớn bao giờ cũng đông.
Người có lòng tôn sùng, ngưỡng mộ
Đem lễ vật đến chỗ tháp này
Hoa, hương, đèn nến đặt bày
Đảnh lễ tháp ấy, khởi ngay tâm lành
Khi mạng chung, sẽ sanh Thiên cảnh
Còn tại thế, phúc hạnh, lợi an ”.
18. Các người Man-Lá vội vàng
Sai các gia bộc hãy mang đến liền
Tất cả vải trắng mềm, gai bện
Tại cả thành Ku-Sí-Na-Ra
Theo lời ngài A-Nan-Đa
Chỉ dẫn pháp táng Phật-Đà nhục thân.
Tám Tộc-trưởng được phân trách nhiệm
Châm lửa thiêu tại điểm hỏa đài.
Nhưng dù cố gắng châm hoài
Giàn hỏa không cháy, trong ngoài tịnh không.
Các vị đồng bạch ngài Tôn-giả
Là A-Nu-Rút-Thá Thánh Tăng :
– “ Bạch ngài ! Nhân duyên nào chăng
Mà lửa không cháy ? Chưa hằng thấy qua !
– “ Này các Vê-Sết-Tha ! Nên biết
Do ý định khác biệt Chư Thiên
Bởi vì do có sự duyên
Ngài Đại Ca-Diếp trên miền đến đây
Cùng theo ngài, năm trăm Phích-Khú (1)
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 232
Đang hướng về Kú-Sí-Na-Ra.
Giữa đường từ thành Pa-Va
Tôn-giả muốn nghỉ, rẽ qua bên đàng
Ngồi dưới tàn gốc cây rộng tán.
Một tà mạng ngoại đạo đi qua
Trên tay cầm một cành hoa
Manh-Đa-Ra-Vá ( Mạn-Đà-La hoa )
Ngài Tôn-giả Ma-Ha Ca-Diếp
Gọi người ấy, lịch thiệp hỏi ngay :
– “ Hiền-giả từ đâu đến đây ?
Có biết Đại Giác Như Lai thế nào ? ”.
– “ Thưa Tôn-giả ! Chính vào tuần trước
Gô-Ta-Ma Đại Đức Sa-Môn
Ngài đã diệt độ, không còn
Câu-Thi-Na, Đại Sa-Môn tịch rồi ”.
Nghe Thế Tôn lìa đời diệt độ
Những Tỷ Kheo còn có Ái tham
Chưa giải thoát hẳn tâm phàm
Nằm lăn dưới đất, khóc than ngút ngàn
Có vị đang duỗi cao tay, kể :
“ Ôi Thiện Thệ sao sớm Niết-bàn
Ánh sáng giác ngộ tắt ngang
Pháp nhãn biến mất hoàn toàn thế gian ”.
Nhưng trong hàng Tỷ Kheo lúc đó
Nhiều vị đã diệt bỏ tham sân
Diệt trừ ái dục phàm trần
An trú chánh niệm, tinh cần giác tri
_______________________________
(1) : Bhikkhu : âm là Tỷ-Khưu hay Tỷ Kheo, có nghĩa là vị Khất-sĩ .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 233
Nên nhẫn nại, chuyên vì suy tưởng :
‘Các hành luôn biến tướng, vô thường
Làm sao tránh được vô thường ?
Sự kiện như vậy, vô phương có rồi !’.
20. Lúc bấy giờ, đang ngồi phía kế
Vị Tỷ Kheo bán thế xuất gia
Tu hành khi tuổi đã già
Tên Sú-Phách-Đá, chưa qua tánh phàm
Còn sân tham, chưa thuần Luật giới
( Tên vị này giống với một người
Tỷ Kheo đệ tử cuối đời
Được Phật thu nhận đồng thời xuất gia
Báo Phật ân, thiền-na (1) tinh tấn
Đã chứng A-La-Hán không lâu ).
Sú-Phách-Đa chẳng buồn rầu
Nói với các vị đang sầu, khóc than :
– “ Các Hiền-giả ! Đừng than khóc quá !
Chớ buồn bả, sầu não ngưng thôi.
Chúng ta được giải thoát rồi !
Không bị phiền nhiễu với lời rầy la
Đại Sa-Môn Thích-Ca khó tính
Hay khiển trách ý định chúng ta,
‘Phải làm thế này mới là
Không được làm thế, điều tà tránh xa’.
Nay chúng ta làm gì tùy ý
Không muốn làm thì chỉ lặng thinh ”.
Nghe những lời nói vô minh
Của Su-Phách-Đá cố tình nói ra
_______________________________
(1) : Thiền định - Jhàna ; được phiên âm là Thiền-Na .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 234
Káp-Sa-Pá Ma-Ha (1) Tôn-giả
(Đại Ca-Diếp ) ngài đã nghĩ thầm :
“ Thôi rồi ! Giáo Pháp thậm thâm
Sẽ sớm hoại diệt với mầm mống đây ! ”.
Nghĩ rồi, ngài hướng về các vị
Đang than khóc bi lụy, bảo rằng :
– “ Này các Hiền-giả ! Hãy ngăn
Mọi sự buồn bả, khóc than, u sầu
Chớ bi ai, thương đau, phiền não
Khi vắng bóng Phật Bảo trên đời
Các Hiền-giả phải nhớ lời
Thế Tôn đã dạy ngay thời đầu tiên
Rằng mọi vật hiện tiền ưu ái
Mọi thân tình đều phải chia ly
Sanh biệt, tử biệt đến kỳ
Rồi thêm dị biệt chẳng chi còn hoài.
Làm sao sự kiện này được thấy :
‘Những gì sinh, tồn tại, hữu vi
Chịu sự biến hoại chuyển di
Lại mong đừng diệt, khỏi thì đổi thay’,
Sự kiện này hoàn toàn vô lý
Không đúng theo chân lý giáo truyền ”.
Ngài cùng Đại chúng đi liền
Ku-Si-Na-Rá, đến đền phía Đông
_______________________________
(1) : Ngài Mahà Kassapa (Đại Ca-Diếp ), một trong Thập Đại Đệ
Tử của đức Phật – Đầu Đà đệ nhất . Sau khi Phật nhập Niết-bàn
3 tháng, Ngài triệu tập 500 vị Thánh Tăng A-La-Hán,để cùng Kết
TậpTam Tạng lần thứ nhất tại Vương-Xá thành (Ràjagaha) trong
Động Sattapanni , do Ngài chủ tọa . Tôn-giả Upali trùng tuyên
về Luật Tạng và Tôn-giả Ananda trùng tuyên về Kinh Tạng .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 235
Vào đền xong, Đầu-Đà Tôn-giả
Ma-Ha Káp-Sa-Pá nghiêm hòa
Trịch y, vai phải bày ra
Chắp tay nhiễu Phật thiết tha ba lần
Rồi hướng đến phía chân Thiện Thệ
Ngài đảnh lễ di thể Như Lai.
Năm trăm Tỷ Kheo theo ngài
Đắp y vai trái, một vai để trần
Lần lượt nhiễu quanh thân Chánh Đẳng
Rồi nghiêm cẩn đảnh lễ dưới chân
Sau khi tất cả Chư Tăng
Đảnh lễ tử biệt kim thân Phật-Đà
Thì hỏa đài tự nhiên bốc cháy
Không cần phải châm lửa lệ thường.
23. Khi thân của đấng Pháp Vương
Đã cháy tiêu hết, cũng dường sanh-tô
Hay dầu thô đốt lên cháy cả
Không còn lưu một bả tro than
Khác thường hơn chuyện thế gian
Phật lưu Xá-lợi cho hàng nhân, thiên
Trong hòm sắt còn riêng một loại
Xương xá-lợi như ngọc kết tinh
Nhiều màu sắc ánh lung linh.
Một giòng nước tịnh thình lình trên không
Tuôn chảy xuống thành giòng, tưới tắt
Giàn hỏa thiêu thân Phật vừa xong
Dưới đất cũng phun một giòng
Nước tịnh tưới tắt lửa trong hỏa đài
Người Man-Lá dùng ngay nước tịnh
Hòa hương thơm của chính sen, lài
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 236
Tưới tắt lửa giữa hỏa đài
Thu nhặt xá-lợi-xương Ngài Thế Tôn.
Rồi xá-lợi được tôn trí tại
Giữa giảng đường, lễ bái cúng dường
Hàng rào làm bằng cây thương
Kết lại chắc chắn, vô phương lọt vào
Những cánh cung dùng rào nhiều lớp
Làm tường thành liên hợp canh phòng.
Nơi giảng đường ở bên trong
Người dân Man-Lá thiết xong lễ đài
Đặt xá-lợi-xương ngài Đại Giác
Để tôn thờ, dùng các hương hoa
Đồng thời trỗi nhạc, múa ca
Cúng dường trọng thể cùng là tán dương
Đảnh lễ xá-lợi-xương của Phật
Luôn bảy ngày, lễ thật trang nghiêm.
24. * Với lòng kính ngưỡng vô biên
Vua Ma-Ga-Thá một niềm đau thương
Khi nghe tin Pháp Vương tịch tịnh
Vua ngất đi, bất tỉnh hồi lâu
Tỉnh lại, áo não thảm sầu
Than sao Đại Giác nhập mau Niết-bàn !
Liền vội vàng, vua A-Xà-Thế (1)
Tức A-Cha-Sát-Tú (1) tự mình
Quyết định ‘tiên lễ, hậu binh’,
Nên cử sứ giả hành trình đi qua
Câu-Thi-Na, gặp dân Man-Lá
Để thưa rằng : “ Giác Giả Phật-Đà
_______________________________
(1) : Vua Ajàtasattu ( A-Xà-Thế ) nước
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 237
Giòng Sát-Đế-Lỵ Thích Ca
Ta, Sát-Đế-Lỵ cũng là như nhau
Ta đáng được phần nào xá-lợi
Để dựng tháp ca ngợi tán dương
Mọi người đảnh lễ, cúng dường
Sẽ được lợi ích, an tường càng tăng.
Nếu khăng khăng không chia xá-lợi
Ta đem binh sang tới kịp thời
Quyết chiến, ý chẳng đổi dời
Để thỉnh xá-lợi về nơi nước mình.
* Khi nghe tin Thế Tôn viên tịch
Thì những người dân Lích-Cha-Vi (1)
Tại đô thị Vê-Sa-Li (1)
Liền gởi sứ giả tức thì tới nơi
Họ điều đình với người Man-Lá :
“ Đức Thế Tôn, Thầy cả Thiên, nhân
Thuộc Sát-Đế-Lỵ giai tầng
Chúng tôi Sát-Lỵ, thành phần như nhau
Cũng đáng được phần nào xá-lợi
Để dựng tháp ca ngợi Pháp Vương
Hết lòng lễ bái tán dương
Kéo dài nghi lễ cúng dường trải qua ”.
* Vương quốc Ka-Pì-La-Vát-Thú (2)
Giòng Thích Ca uy vũ đương thời
Nghe Thế Tôn đã tịch rồi
Liền gởi sứ giả đến nơi cấp kỳ
Rồi ngỏ lời với người Man-Lá :
_______________________________
(1) : Đô thị Vesali của Vương-quốc Licchavi .
(2) : Giòng họ Sakya (Thích-Ca) của vương-quốc Kapilavatthu
(Ca-tỳ-la-vệ ).
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 238
“ Bậc Giác Giả giòng họ Sắc-Da,
Chúng tôi cũng giòng Thích-Ca
Thuộc Sát-Đế-Lỵ hoàng gia vương triều
Xin quý vị chia đều xá-lợi
Cho chúng tôi thỉnh lại một phần
Ca-Tỳ-La-Vệ hiện đang
Xây dựng bảo tháp để an vị vào
Sẽ tổ chức lớn lao lễ hội
Để tôn vinh xá-lợi Phật-Đà
Còn như quý vị lơ là
Không chia xá-lợi, can qua khó dừng ”.
* Người Bu-Li (1) vốn từng kính ngưỡng
Đấng Thế Tôn, vô lượng Trí, Bi
An-Lá-Káp-Pá (1) xứ ni
Cũng gởi sứ giả tức thì đi qua.
* Từ xứ sở Ra-Ma-Ga-Má (2)
Người Kô-Li (2) vội vả cử người
Làm sứ giả, kíp đến nơi.
* Một vị thủ lãnh toàn thời quyền uy
Bàn-môn Vê-Tha-Đi-Pá-Ká (3)
Cử người đòi Ma-Lá chia ra.
* Người Man-Lá ở Pa-Va (4)
Cử người đến Câu-Thi-Na chia phần.
25. Ý khăng khăng, vị Vua Man-Lá
Câu-Thi-Na, đã trả lời là :
– “ Thế Tôn chọn Câu-Thi-Na
_______________________________
(1) : Người Buli ở xứ Allakappa . (2) : Người Koli xứ Ràmagàma .
(3) : Bà-la-môn Vethadìpaka . (4) : Dân tộc Mallà sống ở 2 xứ
độc lập : một là xứ Kusinàrà và hai là xứ Pàvà .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 239
Làm nơi nhập diệt, đó là đặc ân
Nên nhất định không phân chia nhỏ
Xá-lợi quý hiện có của Ngài ”.
Với tình hình căng thẳng này
Nếu không giải quyết, xảy ngay tương tàn
Nên trong hàng Đại thần thân cận
Có Đô-Na, cố vấn quốc vương
Phân giải đại chúng tri tường :
“ Phật là Thầy cả muôn phương trời, người
Ngài dạy kham nhẫn mọi thời
Tranh dành xá-lợi tội đời khó dung
Xá-lợi tôn quý của chung
Phân chia làm tám để cùng tôn vinh
Cùng nhau đoàn kết thật tình
Kiến tạo bảo tháp giữ gìn, kính tôn
Đảnh lễ xá-lợi Thế Tôn
Mười phương tín-chúng bảo tồn niềm tin ”.
Các phái đoàn hoan nghinh ý kiến
Cùng quyết định thực hiện quân phân
Ủy nhiệm Đô-Na chia phần
Xá-lợi thành tám, đong cân cho đều.
Xong mọi điều, Đô-Na (1) Phạm-chí
Liền đề nghị xin lấy cái cân
Đã dùng trong việc chia phân
Đem về dựng tháp để năng phụng thờ.
Cả đại chúng bấy giờ đồng thuận
Nên Đô-Na được nhận cái cân.
26. Thời gian sau khi quân phân
_______________________________
(1) : Bà-la-môn Dona , là Quốc-sư của Vua Mallà xứ Kusinàrà .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 240
Người Mô-Ri-Dá (1), giai tầng hoàng gia
Tại Bíp-Pha-Li-Va-Na (1) xứ
Nghe Điều Ngự đã diệt độ rồi
Vội cử sứ giả kíp thời
Đến xin xá-lợi về nơi xứ mình
Vua Man-Lá tường trình mọi việc :
– “ Thật đáng tiếc ! Đến chẳng phải thời
Xá-lợi đã chia tám rồi
Sẽ xây bảo tháp tám nơi tôn thờ,
Xin hoan hỷ nhận tro còn lại ”.
Những người này đành phải nhận tro,
Thỉnh về xây tháp để thờ.
Như vậy Xá-Lợi nguyên sơ tám phần
Được tám nơi chí thành cung thỉnh
Xây tháp chính tại tám nơi cần
Một tháp thờ phụng cái cân
Một tháp kiến tạo dành phần thờ tro.
28. “ Hỏa đài bốc cháy bất ngờ
Không cần châm lửa, huyền cơ nhiệm mầu
[ Lưu lại xá-lợi đủ màu
[ Phân ra ba cỡ khác nhau cân lường :
Năm cân bằng hạt đậu tương
Sáng ngời như ngọc, kim cương tỏ tường
[ Cở hai đồng chạn khác thường
[ Lớn bằng hạt thóc, đã lường sáu cân
[ Pha lê màu sáng trong ngần
[ Thủy xoàn ngọc quý trong trần khó phân
[ Cở ba hạt cải, năm cân
_______________________________
(1) : Người Moriyà ở xứ Pipphalivana .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 241
[ Sánh dường bảo ngọc, trắng ngần như hoa
[ Chúng sinh khắp cõi Sa-Bà
[ Dễ nào gặp được để mà kính tôn
[ Duyên lành đưa đến Phật môn
[ Cúng dường xá-lợi Thế Tôn lưu truyền
[ Nhất tâm thệ nguyện quy nguyên
[ Ngưỡng cầu Phật Tổ chứng duyên tâm thành
[ Đầu tiên tám nước phân tranh
[ Công phân xá-lợi sử xanh ghi rành
[ Xây tháp ngưỡng bái đức lành
[ Tám nơi công cộng thị thành tám phương
Chúng sinh thôn dã, thị phường
[ Sớm chiều chiêm bái, cúng dường Thế Tôn.
[* Răng nhọn bốn cái di tồn
[ Bốn nơi tạo tháp kiền khôn lưu đời :
[ - Một là Đao Lợi cung trời (1)
[ - Hai là thánh địa đương thời Lăng-Ca (2)
[ - Xứ Găng-Tha-Rá (3) thứ ba
[ - Bốn là thủy điện nguy nga Chúa Rồng (2).
[ Chúng sinh ngưỡng mộ tâm đồng
[ Cúng dường xá-lợi viên thông Phật-Đà.
_______________________________
* Ngoài Xá-lợi xương cân được 16 cân , 3 cỡ ; còn có bốn cái
răng nhọn tôn thờ tại 4 nơi :
(1) : Cung trời Đao Lợi ( Tam thập tam thiên – Tavatimsa ).
(2) : Đảo quốc
(3) : Xứ Gandhàra ( không biết địa danh này ở đâu ! )
(4) : Long Vương thỉnh 1 răng nhọn tôn thờ tại Thủy Cung .
* Những câu trong dấu [ được trích từ bài “ Kệ tụng Xá-Lợi Phật ” trong quyển Nhật Hành của Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam ( những chữ in thẳng trong phần này do chúng tôi sửa đổi cho phù hợp ) .
Trường Bộ - (Tập 2 ) K. 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN * MLH – 242
[* Phạm Thiên thượng giới một tòa
[ Xương vai bên tả cùng là Tam Y (5)
[ Đền thờ cao vọi cực kỳ
[
* * *
Hào quang Xá-lợi tỏa ngời
Quả đất chói sáng, nơi nơi gội nhuần
Lễ phẩm thượng đẳng cúng dường
Xá-lợi của đấng Pháp Vương từ hòa
Ngàn năm muôn kiếp trải qua
Phước lớn chiêm ngưỡng Phật-Đà Thế Tôn ”./-
*
* *
( Chấm dứt Kinh 16 : ĐẠI BÁT NIẾT BÀN –
Mahà-Parinibbàna-sutta )
_______________________________
(5) : Cõi Trời Phạm Thiên thờ Xá-lợi Xương vai bên tả cùng
Tam Y của đức Phật lúc sinh tiền .