TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRƯỜNG BỘ KINH
(Dìgha Nikàya)
Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ: Giới Lạc MAI LẠC HỒNG
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG PL. 2555 - DL 2010
10. Kinh SUBHA
(Subha Todeyyaputta – Kinh Tu Bà)
Như vậy, tôi nghe :
1. Một thời, A-Nan-Đa Tôn Giả (1)
Vị thị giả lúc Phật hiện tiền
Là bậc đa văn uyên nguyên.
Lúc này Phật đã mãn viên Niết Bàn
Tôn Giả trú tại nơi Kỳ Thọ (2)
Cấp-Cô-Độc vườn nọ (2), cũng là
Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na (2)
Tại thành Xá-Vệ (3), an hòa tịnh môn
Lúc bấy giờ, Bàn-môn danh giá
Su-Pha Tô-Đây-Giá-Pút-Tà
Đến Sa-Vách-Thi (3) ngụ qua
Vì vài công việc anh ta đang cần.
______________________________________________________
(1) : Đại Đức Ananda là con của Hộc Phạn Vương ( Sukodana )
cháu gọi Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) bằng bác ruột, tức là em
thúc bá với đức Phật ,cũng là vị thị giả thân tín hầu cận Phật.
(2) : Jetavanavihàra :Kỳ Viên hay Kỳ Hoàn Tinh Xá ,doTrưởng giả
Cấp-Cô-Độc ( Anathapindika - tên thật là SUDATTA –Tu-Đạt-Đa)
mua lại từ khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà ( Jeta ) gần Thành Xá Vệ
(Savatthi ) dâng cho Đức Phật .Tại đây đức Phật đã nhập hạ nhiều
lần và nhiều Kinh quan trọng đã được Phật thuyết ra tại đây .
Vì Trưởng Giả Cấp Cô Độc đã dùng vàng lót trên mặt đất để
mua cho được khu vườn theo lời thách của Thái Tử Kỳ Đà , nên
chùa này còn được gọi là Bố Kim Tự ( chùa trải vàng ).Cảm phục
tấm lòng nhiệt tâm vì đạo của Trưởng Giả ,Thái Tử hoan hỷ cúng
toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật vàTăng chúng nên ngôichùa
thường được gọi với danh xưng : Jetavana Anathapindikàràma
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên ( vườn Cấp-Cô-Độc , cây Kỳ Đà ).
(3) :Thành Xá Vệ tức Savatthi ( Thất-La-Phiệt ) một trung tâm
thương mại và chính trị quan trọng tại Ấn Độ đương thời .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 360
2. Bàn-môn (1) nhân nghe lời đồn lạ
Về Tôn Giả ; gọi một thanh niên
Bà-la-môn ở trong miền,
Su-Phá nói với thanh niên như vầy :
– “ Bạn thân mến ! Đến ngay chỗ ngụ
Của Sa-Môn ưu tú A-Nan
Thay ta ân cần vấn an
Ngài có ít bệnh, khinh an, dứt phiền ?
Hân hạnh thay ! Nhân duyên thù thắng
Được Tôn Giả từ mẫn thăm qua
Trú xá thanh niên Su-Pha (2)
Tức Tô-Đây-Giá-Pút-Tà (2) Bàn-môn ”.
3. Người thanh niên Bàn-môn (1) đồng ý
Nhắm Kỳ Viên trực chỉ đi sang
Khi gặp Đại Đức A-Nan
Nói lời chúc tụng vấn an thiện hiền
Rồi ngồi xuống một bên, thưa lại
Những thỉnh cầu được phái nhờ qua.
4. Nghe vậy, ngài A-Nan-Đa
Nói với chàng nọ, từ hòa an nhiên :
– “ Này thanh niên ! Nay không phải lúc
Ta mới vừa uống thuốc tức thì
Sáng mai bần đạo sẽ đi
Thời gian như vậy hợp nghi hợp thời ”.
Thanh niên từ nơi ngồi đứng dậy
Từ giã, về thưa lại Su-Pha :
– “ Tôi gặp Ngài A-Nan-Đa
__________________________________
(1) : Bàn-môn hay Phạm-chí tức là Bà-La-Môn .
(2) :Thanh niên Bà-la-môn tên Subha Todeyyaputta .
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 361
Thưa lại tất cả điều mà anh giao.
Nhưng rất tiếc gặp không đúng lúc
Ngài vừa mới uống thuốc hôm nay
Ngài đã hẹn đến sáng mai
Sẽ đến trú xá, không sai lời mời ”.
5. Khi đêm mãn, bầu trời tươi mát
Đức A-Nan mang bát, đắp y
Với vị Tỷ Kheo cùng đi
( Xứ Chê-Ti-Giá – quê vì Tỷ Kheo )
Đến trú xá thể theo lời thỉnh
Của Bàn-môn danh tính Su-Pha
Tức Tô-Đây-Giá-Pút-Ta
Đến nơi, ngồi chỗ soạn ra cho Ngài.
Bà-la-môn Su-Pha hoan hỷ
Nói những lời hoa mỹ xã giao
Chúc tụng thân hữu đón chào
Rồi lấy ghế thấp ngồi vào một bên.
Chàng Su-Phá hỏi lên lập tức :
– “ Thưa Đại Đức ! Lúc trước Ngài là
Thị giả đức Gô-Ta-Ma
Ngài biết Tôn Giả Thích Ca dạy gì
Những Pháp chi Phật thường tán thán
Đã khích lệ, khuyến tán mọi người
Y chỉ vào Pháp như lời
Sẽ được lợi lạc, nhiều đời vui an ? ”.
6. – “ Này Su-Phá ! Lời vàng Phật Bảo
Thường tán thán, khuyến đạo mọi người
Y chỉ vào Pháp như lời
Sẽ được lợi lạc. Pháp thời có ba :
Thánh Giới uẩn, hai là Định uẩn
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 362
Thánh Tuệ uẩn là pháp thứ ba ”.
– “ Thưa Tôn Giả ! Xin giảng qua
Về Thánh Giới uẩn cao xa ; điều mà
Đã được Gô-Ta-Ma Tôn Giả
Thường tán thán và cả răn khuyên
Y chỉ thánh uẩn, cần chuyên
Muôn phần lợi lạc, tâm hiền trí minh ? ”.
7. – “ Này Su-Phá ! Chúng sinh trôi nổi
Trong sáu đường ba cõi si mê
Tham sân, phiền não nặng nề
Vô minh, triền phược mọi bề phủ vây
Bỗng xuất hiện bậc Thầy quảng đại
Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,
Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,
Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh
Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,
Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,
Do sự chứng ngộ tự Ngài
Rồi lại tuyên thuyết, hoằng khai Pháp mầu
Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện
Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy
Truyền dạy Phạm hạnh từ đây
Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.
Có gia trưởng trong miền thôn ấp
Hoặc một người giai cấp tiện dân
Duyên lành nghe pháp thậm thâm
Sinh lòng ngưỡng mộ, kiếm tầm chân như
Tự suy nghĩ : ‘Đời như cát bụi
Sống dẫy đầy trói buộc não phiền
Luân hồi sinh tử triền miên
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 363
Đời sống xuất thế lụy phiền tránh xa
Ta nay phải xuất gia viên mãn
Đời xuất gia phóng khoáng hư không
Cuộc sống thế gian chất chồng
Phạm hạnh thanh tịnh thật không dễ gìn’.
Y trưởng dưỡng đức tin vững chắc
Cạo râu tóc, thân đắp ca-sa
Biệt gia quyến, bỏ cửa nhà
Ba y một bát, xuất gia tu hành.
*
Sống chế ngự, thực hành phạm hạnh
Giữ oai nghi, tự tánh sáng lòa
Giới bổn Pa-Tí-Mốc-Kha (1)
Thọ trì nghiêm mật, tránh xa điều tà
Thân, khẩu, ý từ hòa thanh tịnh
Giới cụ túc, thức tĩnh nhiếp tâm
Biết tri túc, giữ các căn
Là Sa-môn hạnh, pháp đăng soi đường.
Này Su-Phá ! Sao tường thuần thục
Là Tỷ Kheo cụ túc giới điều ?
Phải thấy nguy hiểm mọi chiều
Lỗi lầm nhỏ nhặt triệt tiêu dần dần
Bỏ trượng kiếm, sát sanh tránh hẳn
Đại từ tâm, bình đẳng, nhẫn kham
Có tâm hổ thẹn là Tàm,
Ghê sợ là Quý, không làm nghiệp sai
Hành phạm hạnh, bản lai thanh tịnh
Không trộm cướp, chẳng tính so đo
_______________________________
(1) : Patimokkhasanvarasìla : Biệt biệt giải thoát thu thúc giới
( trong Tứ Thanh Tịnh Giới của Luật Tỷ Kheo ).
*
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 364
Quyết không lấy của không cho
Đó là giới hạnh, thước đo Giới điều.
Vị Tỷ Kheo mong điều giải thoát
Không tà hạnh, dâm ác thấp hèn
Không nói dối trá đua chen
Không nói hai lưỡi chê khen dối lòng
Không lường gạt cũng không ly gián
Sống hòa hợp giữa nạn rẽ chia
Sống đời chân thật sớm khuya
Tránh lời độc ác nọ kia lỗi lầm.
Là giới hạnh trong tầm Giới Luật
Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì
Cả đến hạt giống, cỏ cây
Cũng đều thấm nhuận đức dày Sa-Môn.
Chỉ ăn ngọ, sống tồn tri túc
Không múa hát, trang sức, kịch ca
Sống thanh đạm, tránh xa hoa
Không dùng hương liệu, dầu thoa thơm nồng.
.
Lại cũng không giường nằm cao rộng
Cũng không nhận thịt sống, bạc vàng
Nô tỳ trai, gái – từ nan
Đàn bà, con gái – không màng lưu tâm
Cừu, dê, heo, gia cầm, voi, ngựa,
Ruộng, đất, vườn, nhà cửa không cần
Từ bỏ gian lận bằng cân
Từ bỏ môi giới, không phần gian tham
Không áp bức, không làm thương tổn
Không câu thúc, vây khổn, cừu thù
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 365
Trong khi đó, hãy nhìn kẻ khác
Bà-la-môn hoặc các Sa-môn
Dù ăn tín thí cúng dường
Vẫn còn làm hại thường thường cỏ cây
Hạt từ rễ, hạt này từ đất
Từ chiết cây, hạt thật sinh ra
Tỷ Kheo chân chánh xuất gia
Không hề làm hại cỏ hoa, cây trồng.
*
Các Sa-môn, số đông Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn còn cất chứa khôn lường
Món ăn, đồ uống, vải, giường, ngựa xe
Chứa hương liệu, hoa hòe – thụ hưởng
Cốt sao mình sung sướng, hanh thông.
Tỷ Kheo chân chánh thì không
Chẳng hề cất chứa, chất chồng nợ them.
Là giới hạnh trong tầm Giới Luật
Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì.
*
Sa-môn ngoại đạo các vì
Bà-la-môn nọ trí tri không tường
Không hổ thẹn, dương dương đắc chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn còn sống rất phô trương
Múa hát, nhạc kịch, diễn tuồng thần tiên
Đấu bò đực, đấu chim cun cút
Đấu ngựa voi, vun vút đấu quyền
Diễn binh, dàn trận liên miên
Tụng chú, ngâm vịnh khắp miền trải qua
Vị chân chánh xuất gia không thế
Sống thanh tịnh, giới thể toàn chu
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 366
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
*
Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống giải trí du dương
Những trò cờ bạc chủ trương ăn tiền
Cờ trên không, cờ trên mặt đất
Tám hình vuông hoặc đặt mười hình
Trò chơi quăng thẻ cho tinh
Chơi banh, đoán chữ đoán hình trên lưng
Đoán tư tưởng, trông chừng bắt chước
Theo điệu bộ sao được giống bằng
Súc sắc, kèn lá, chơi khăng
Những trò tiêu khiển họ hằng mê sa
Thú giải trí sa đà thụ hưởng
Mất thì giờ, ngất ngưởng ngày qua.
Giải trí tà vạy tránh xa
Giới Luật của bậc xuất gia giữ gìn.
*
Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống phè phởn, cao lương
Giường cao, chăn ấm, trãi giường bằng len
Mền lông thú, hai bên đính ngọc
Tấm khảm quý che bọc đỉnh giường
Nệm bằng da của sơn dương
Ghế dài có gối chân, thường bằng da
Vị Tỷ Kheo xuất gia chân chánh
Không hưởng thụ lạc cảnh phù du
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
*
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 367
Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn còn sống rất vô lương
Thường dùng mỹ phẩm, xông hương, thoa dầu
Đeo trang sức với đầu tóc giả
Gậy cầm tay với cả lọng, gươm
Phất trần, vải trắng viền cườm
Đấm bóp, tắm, đập, soi gương cả ngày
Kem thoa mặt với đầy son phấn
Những kẻ này mê mẩn bướm hoa.
Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia
Tránh xa trang sức, lượt là cũng không.
Các Sa-môn, số đông Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn nói vô ích, tầm thường
Nói toàn những chuyện đế vương dông dài
Chuyện ăn trộm, gái trai, binh lính
Chuyện đại thần, bách tính, chiến tranh
Những chuyện làng xóm, thị thành
Đồ ăn, thức uống, xoay quanh vải, mùng
Về quốc độ, anh hùng tiêu biểu
Hoặc chuyện về hương liệu, hoa hương
Hiện trạng thế giới, đại dương
Câu chuyện tạp thoại, sự thường hay không.
Chân Tỷ Kheo thì không như thế
Hạnh Sa-môn giới thể toàn chu
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
Các Sa-môn, bất minh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 368
Vẫn sống bàn luận tranh đương
Như nói :“Ngươi biết chuyện thường này không ?
Pháp và luật ngươi thông không chứ ?
Ta rất rành những thứ luật này.
Ngươi phạm tà kiến tội dày
Ta thật chánh kiến, lời đầy tương ưng
Điều nói sau ngươi từng nói trước
Điều nói trước lại được nói sau
Chủ kiến ngươi bị phủ đầu
Ngươi bị thuyết bại, hãy cầu giải vây ”.
Những kẻ này luận bày tranh chấp
Quyết ăn thua cao thấp, gần xa.
Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia
Từ bỏ biện luận, tránh xa tranh tài.
Các Sa-Môn, lợi tài Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống rất đáng coi thường
Đứng làm môi giới đế vương, đại thần
Đưa tin tức, thân gần Phạm-Chí,
Sát-Đế-Lỵ, Gia chủ gần xa.
Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia
Không làm môi giới ngụy tà ô danh.
Các Sa-Môn, lợi tranh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống một cách bất lương
Lừa đảo, siểm nịnh muôn đường đáng khinh
Nói gợi ý, bất minh cầu lợi
Hoặc dèm pha cho tới phân ly
Tư cách ấy chẳng ra gì.
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 369
Tỳ Kheo chân chánh nhu mì trực ngôn
Với giới hạnh bảo tồn nghiêm cẩn
Trong Giới Luật, tinh tấn thọ trì.
Đời sống thanh tịnh ; trong khi
.
Sa-môn, Phạm-chí vô nghì bất lương
Không hổ thẹn, dương dương đắc chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống tà hạnh tầm thường
Xem tướng, đoán mộng, phô trương biệt tài
Phun hạt cải, tế khoai , tế lửa,
Tế thục tô, tế lúa, tế dầu,
Tế máu cho đến khoa cầu
Cầu thần ban phước hoặc cầu quỷ ma
Khoa xem mộng lẫn khoa địa lý
Khoa thuốc độc cho chí khoa chim
Khoa đoán số mạng, cầu tìm
Chiêm tướng, triệu tướng, khoa ngừa bắn tên
Khoa bồ cạp hay tên khoa rắn
Khoa chim quạ, chuột cắn… những là…
Chân chánh Tỷ Kheo xuất gia
Tránh xa ác hạnh ngụy tà ô danh.
*
Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống tà mạng vô lường
Xem tướng hòn ngọc, kiếm gươm, áo quần
Tướng mũi tên, cây cung, võ khí
Tướng đàn bà cho chí đàn ông
Thiếu nam, thiếu nữ, nhi đồng
Đầy tớ trai gái, tướng trong gia cầm
Tướng voi, ngựa ; sưu tầm tướng thú
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 370
Tướng dê, cừu, chim cú, cắc kè,
Tướng trâu, cun cút, gậy que,
Bò đực, bò cái, lập lòe tướng ma.
*
Vị chân chánh xuất gia thì khác
Có giới hạnh an lạc uy nghi
Nằm trong Giới Luật thanh quy
Tỷ Kheo chân chánh thọ trì tịnh thanh.
*
Các Sa-môn, lợi tranh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống tà mạng như thường
Đoán rằng : ‘Vua sẽ kiên cường tấn công
Vua ngoại bang thế cùng triệt thoái
Vua bản xứ rồi lại thu quân
Bên này thắng trận mấy lần
Bên kia đại bại, thất thần rút lui .
Những kẻ này không nguôi hiếu động
Cứ đoán mò, thực mộng chẳng sao !
Chân chánh Tỷ Kheo thanh cao
Tránh xa suy đoán ngụy tà đua tranh.
*
Các Sa-Môn, lợi tranh Phạm-chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống chẳng được thiện lương
Bằng những tà mạng, đủ phương thức tà
Lòng ham muốn xa hoa hưởng thụ
Nên tìm đủ mọi cách điêu ngoa
Tiên đoán sẽ có xảy ra
Nguyệt thực, nhật thực hoặc là sao băng
Đoán mặt trời, mặt trăng đi lệch
Hoặc đi đúng, không chệch bầu trời
Sẽ có lửa cháy các nơi
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 371
Sẽ có động đất, sấm trời : Thiên cơ
Các tinh tú sẽ mờ, sẽ sáng
Hay lặn, mọc ; có nạn nguy, an
Kết quả xảy trong không gian
Những kẻ hiếu sự lan man đoán mò.
Có giới hạnh, chẳng cho ác khởi
Vị Tỷ Kheo Luật Giới làm đầu
Không sống tà mạng lún sâu,
*
Như các Phạm-chí, hoạt đầu Sa-môn
Không hổ thẹn, lại còn đắc chí
Dù đã ăn tín thí cúng dường
Vẫn sống tà mạng bất lương
Đoán mưa, đại hạn, bất tường xảy ra
Sẽ được mùa hay là mùa mất
Sẽ có bệnh hoặc gặp họa tai
Các nghề như đếm ngón tay
Kế toán, cộng số, làm theo thế tình
*
Hoặc sắp đặt ngày lành tháng tốt
Để rước dâu, đón một rễ hiền
Hòa giải, chia rẽ, tiêu tiền
Đòi nợ, bùa chú người liền rủi ro.
Dùng bùa chú làm cho cóng lưỡi
Để phá thai, cứng dưới quai hàm
Khiến cho bị điếc, bị câm
Hỏi gương soi, hỏi nữ nam phù đồng
Thờ đại địa cầu mong có phước
Thờ mặt trời để được quang huy
Phun ra lửa, thỏa sân si
Bùa chú, cầu nguyện Si-Ri thần tài.
*
Hoặc tà mạng dùng ngay tà thuật
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 372
Để được yên, khỏi chuốc nạn tai
Các điều đã hứa, làm sai
Để được dương thịnh, trong nhà chở che
Tìm đất tốt, phước về nhà mới
Lễ rửa miệng, ca ngợi hy sinh
Làm cho mửa, xổ trong mình
Bài tiết nhơ bẩn, sạch tinh cả người
Thoa dầu tai, soi ngươi nhỏ mắt
Làm thầy thuốc mổ cắt bệnh nhân
Chữa bệnh con nít xa gần
Các loại cây rễ, lượng phân dùng bừa.
Chân Tỷ Kheo ngăn ngừa ác hạnh
Y Giới Luật, thanh thản thọ trì.
*
– Này Su-Phá ! Hãy tường tri
Vị Tỷ Kheo ấy uy nghi, vô cầu
Được hộ trì nhờ vào Giới Luật
Tâm kiên cương chẳng chút sợ gì
Như Sát-Đế-Lỵ một vì
Làm lễ quán đảnh, trị vì giang san
Đã hàng phục lân bang thù địch
Không còn sợ đột kích biên phòng.
Tỷ Kheo chân chánh cũng không
Sợ hãi tội lỗi, vì lòng thẳng ngay
Giới Luật ấy đủ đầy cao quý
Hưởng lạc thọ, hoan hỷ vững bền.
8. – Này Su-Phá ! Những điều trên
Là Thánh Giới uẩn làm nền tảng riêng.
Sự cao thượng, thắng duyên giải thoát
Mà Thế Tôn tán thán răn khuyên
Nhưng đây pháp uẩn đầu tiên
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 373
Còn Thánh uẩn khác cần chuyên hành trì ”.
– “ Thưa Tôn Giả ! Diệu kỳ hy hữu !
Vi diệu thay ! Thành tựu Pháp đây
Thật là viên mãn, tròn đầy
Chưa từng nghe thấy điều này từ nơi
Các Phạm-chí, Sa-môn ngoại giáo.
Nhưng nếu những ngoại đạo vị này
Được nghe thấy Thánh uẩn đây
Cũng sẽ thỏa mãn ; ý này tư duy :
‘Thật đầy đủ, hành trì như vậy
Chứng đạt vậy, đầy đủ vuông tròn
Là mục đích hạnh Sa-môn
Nên rất cao thượng, không còn gì hơn’.
Nhưng Thánh uẩn còn hơn pháp ấy
Xin Tôn giả giảng giải đủ đầy ”.
- “ Này Su-Phá ! Chính pháp đây
Là Thánh Định uẩn, pháp này cao minh
Mà Thế Tôn đinh ninh khích lệ
Thường tán thán, khuyên để thực hành
Này Su-Phá ! Nên hiểu rằng
Tỷ Kheo bảo hộ các căn thế nào ?
Mắt thấy sắc nhưng nào giữ tướng
Tướng chung, riêng chẳng nắm giữ gì
Mắt không chế ngự tại chi
Khiến bất thiện pháp ưu bi khởi vào
Nên tham ái dâng trào đủ thứ
Vị Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân
Hộ trì tích cực nhãn căn
Cũng như hộ trợ nhĩ căn cũng cần
Tai nghe tiếng hay thân cảm xúc
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 374
Mũi ngửi hương, nhận thức : Ý căn
Tỷ Kheo hộ trì các căn
Nên hưởng lạc thọ, nội tâm sáng ngời.
*
– Này Su-Phá ! Thời thời tỉnh giác
Giữ chánh niệm, an lạc tự tâm
Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm
Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền
Khi tới, lui ; biết mình lui, tới
Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm
Hay khi co duỗi tay chân
Mặc y, đi bát hay cần uống ăn
Khi nhai, nuốt, nói năng : Tỉnh giác
Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : Biết mình
Như vậy Tỷ Kheo tâm minh
Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thanh cao.
*
– Này Su-Phá ! Thế nào biết đủ ?
Hạnh Tri Túc luôn giữ chỉnh tề
Bằng lòng ba y để che
Bình bát khất thực dễ bề cúng dâng
Y và bát luôn gần bên cạnh
Cũng như chim, đôi cánh luôn mang
Đó là Tỷ Kheo giới toàn
Giữ hạnh Biết Đủ, không màng nhiều hơn.
*
Thánh Giới uẩn chánh chơn cao quý
Với các căn nhiếp kỹ, hộ trì
Chánh niệm tỉnh giác trí tri
Thêm hạnh tri túc, còn gì quý hơn.
Trang bị đủ những gì cao quý
Vị ấy lựa vị trí lặng yên
Như rừng tĩnh mịch, lâm viên
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 375
Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma
*
Thời ngọ thực đã qua, rửa bát
Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng
An trú chánh niệm, lâng lâng
Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham
Bỏ sân hận, từ tâm thương xót
Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng.
Từ bỏ hôn trầm, thụy miên
Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm
Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng
Cùng chánh niệm, tĩnh giác, tâm yên
Gột rửa chúng, được an nhiên
Từ bỏ trạo cử thì liền tịnh thân
Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự
Gột rửa hết trạo cử, hôn trầm
Gột rửa tham ái, hận sân
Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.
– Này Su-Phá ! Người nghèo mắc nợ
Liền chọn nghề, không sợ khó khăn
Nhờ sự nỗ lực, tinh cần
Nghề nghiệp phát đạt, tự thân nên giàu
Có tiền dư, nợ mau trả dứt
Nuôi vợ con, quả thực thanh nhàn
Người ấy nhờ vậy giàu sang
Sung sướng hoan hỷ, hoàn toàn an nhiên.
– Này Su-Phá ! Bệnh duyên người nọ
Rất đau đớn, lại khó uống ăn
Thể lực suy yếu dần dần
Cơn bệnh trầm trọng hành thân đêm ngày
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 376
Bỗng nhân duyên, gặp thầy gặp thuốc
Dứt hẳn bệnh, ăn uống tiêu thông
Thể lực khôi phục như mong
Hoan hỷ, sung sướng, sống trong an lành.
– Này Su-Phá ! Một anh bị nhốt
Trong ngục tù, ngục tốt khảo tra
Đau đớn, sợ hãi tối đa
Cầu mong thoát khỏi tai qua, nạn lùi
Bỗng duyên vui, gặp ngài Chánh án
Xét vô tội, xóa án thả mau
Tài sản không bị tổn hao
Thân vẫn khang kiện, ngục lao thoát rồi
Về lại nhà, bồi hồi nghĩ lại
Quá sung sướng, thanh thái hân hoan.
– Này Su-Phá ! Một thời gian
Có người nô lệ của hàng chủ nhân
Không tự chủ, bản thân lệ thuộc
Mất tự do, ràng buộc khó khăn
Bỗng một hôm, vị chủ nhân
Tuyên bố trả tự do thân người này
Quá hoan hỷ, lòng đầy sung sướng
Người nô lệ tận hưởng niềm vui.
– Này Su-Phá ! Có một người
Giàu, nhiều tài sản, là người lái buôn
Qua sa mạc mênh mông nguy hiểm
Thiếu lương thực, khan hiếm nước dùng
Sợ hãi trong bước đường cùng
Bỗng gặp ốc đảo, nước trong rất nhiều
Mấy hôm sau, lại điều may khác
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 377
Khỏi sa mạc, gần đến đầu làng
Vô sự, sung sướng, vui an,
Khỏi sự nguy hiểm lòng hằng ước mơ.
*
– Này Su-Phá ! Chính nhờ quán niệm
Vị Tỷ Kheo tự nghiệm, tự tri
Năm Triền Cái chưa xả ly
Như là món nợ, bệnh hay ngục đường,
Như nô lệ, con đường sa mạc,
Nay trả dứt hết các nợ nần
Khỏi cơn bệnh dữ hành thân
Ra khỏi sa mạc, thoát tầng ngục lao
Năm Triền Cái chừng nào chưa diệt
Vị Tỷ Kheo mãi miết tinh cần.
*
Chừng nào khi quán tự thân
Với năm Triền Cái đã cần xả ly
Do xả ly, tức thì hoan hỷ
Do hoan hỷ, tâm được khinh an
Lạc thọ sinh do khinh an
Đạt được như thế, tâm an định liền
Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục
Chứng và trú vào mục Nhất Thiền
Trạng thái hỷ lạc tự tâm
Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên
Đệ Nhất Thiền, Tỷ Kheo thấm nhuận
Như tẩm ướt, sung mãn, tràn nhanh
Hỷ lạc do ly dục sanh
Với Tầm, với Tứ thấm quanh tức thời.
*
– Này Su-Phá ! Như người hầu tắm
Thật lão luyện, lo sắm sửa mau
Rắc bột tắm vào trong thau
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 378
Rồi dùng bột ấy nhồi vào nước trong
Nhào trộn ướt, nhưng không chảy giọt.
Cũng như vậy, với một Tỷ Kheo
Tẩm nhuận, sủng ướt, thấm theo
Toàn thân không có chỗ nào còn khô
Cũng như thế, sanh do ly dục
Hỷ lạc cũng đẫm suốt tâm đây.
Thánh Định uẩn, thật lành thay !
Đó là hạnh nguyện của thầy Tỷ Kheo.
*
– Này Su-Phá ! Lại theo điều nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Diệt Tầm, diệt Tứ được yên
Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai
Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ
Do Định sinh, nội tỉnh nhất tâm
Tỷ Kheo ấy đã thấm nhuần
Tẩm ướt, sung mãn khắp thân của mình
Do Định sinh, tràn đầy hỷ lạc
Không chỗ nào hỷ lạc chẳng nhuần.
*
– Này Su-Phá ! Tại cội nguồn
Có một hồ nước, nước tuông dâng đầy
Cả nam, bắc, đông, tây các chỗ
Không có lỗ thoát nước chảy ra
Suối nước mát lạnh phun ra
Làm cho đẫm ướt, thấm qua dâng tràn
Thỉnh thoảng mưa, hồ càng tẩm ướt
Không chỗ nào không được tràn dâng.
Tỷ Kheo ấy đã thấm nhuần
Tẩm ướt, sung mãn khắp thân của mình
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 379
Do Định sinh, tràn đầy hỷ lạc
Không chỗ nào hỷ lạc chẳng đầy.
Thánh Định uẩn, thật lành thay !
Đó là hạnh nguyện của thầy Tỷ Kheo.
*
– Này Su-Phá ! Lại theo điều nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Ly hỷ trú xả, nhất tâm
Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền
Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ
Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên
Chứng và an trú Tam Thiền
Tỷ Kheo đẫm ướt, thấm nhuần tự thân
Sự lạc thọ, không cần có hỷ
Lạc thọ ấy thấm kỹ toàn thân
Không một chỗ nào trên thân
Mà Lạc thọ đó không phần thấm vô.
– Này Su-Phá ! Như hồ sen trắng
Cả sen hồng chen lẫn sen xanh
Những hoa sen ấy đều sanh
Từ trong hồ nước, lớn nhanh từng ngày
Nhưng chúng vẫn chưa ngoi khỏi nước
Từ gốc rễ đẫm ướt tới đầu
Toàn thân gốc ngọn thấm sâu
Tỷ Kheo vị ấy thấm nhuần giống y
Với lạc thọ, không đi với hỷ
Đã thấm kỹ, sung mãn tràn đầy
Thánh Định uẩn, thật lành thay !
Đó là hạnh nguyện của thầy Tỷ Kheo.
*
– Này Su-Phá ! Lại theo điều nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 380
Xả lạc, xả khổ ; tâm yên
Diệt hỷ, ưu, cảm thọ – liền trước đây
Chứng và trú vào Thiền Đệ Tứ
Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào
Thanh tịnh, an lạc tiêu dao
Như Tỷ Kheo ấy thấm sâu, ướt đầm
Được thấm nhuần với tâm thuần tịnh
Và trong sáng, trong chính thân này.
19. Này Su-Phá ! Những điều đây
Là Thánh Định uẩn đủ đầy chu viên
Rất cao thượng, thắng duyên giải thoát
Mà Thế Tôn tán thán răn khuyên
Thánh uẩn này không chỉ riêng
Còn Thánh uẩn khác cần chuyên hành trì.
– “ Thưa Tôn giả ! Diệu kỳ hy hữu !
Vi diệu thay ! Thành tựu Pháp đây
Thật là viên mãn, tròn đầy
Chưa từng nghe thấy điều này từ nơi
Các Phạm-chí, Sa-môn ngoại giáo
Nhưng nếu những ngoại đạo vị này
Được nghe thấy Thánh uẩn đây
Cũng sẽ thỏa mãn ; ý này tư duy :
‘Thật đầy đủ , hành trì như vậy
Chứng đạt vậy, đầy đủ vuông tròn
Là mục đích hạnh Sa-môn
Nên rất cao thượng, không còn gì hơn’
Nhưng Thánh uẩn còn hơn pháp ấy
Xin Tôn giả giảng giải đủ đầy ”.
– “ Này Su-Phá ! Chính pháp đây
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 381
Là Thánh Tuệ uẩn, pháp này cao siêu
Mà Thế Tôn nhiều điều khích lệ
Thường tán thá , khuyên để thực hành
Này Su-Phá ! Hãy tịnh thanh
Lắng tâm suy nghĩ ngọn ngành điều đây :
Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc theo Thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng ngay tâm tới
Chánh Trí với Chánh Kiến như vầy
Biết rằng : ‘Thân của ta đây
Chính là Sắc pháp, thân này do sanh
Do bốn đại tác thành hoàn hảo
Cha mẹ nuôi, cơm cháo, vô thường
Biến hoại, đoạn tuyệt ; đáng thương
Phấn toái, hoại diệt. Nhưng nương thân này.
Thức tánh ta bị giây trói buộc
Trong thân ấy, lệ thuộc như vầy’.
Thánh Tuệ uẩn thật lành thay !
Đó là hạnh nguyện của thầy Tỷ Kheo.
– Này Su-Phá ! Ta nêu thí dụ :
Một trại chủ cầm một cây lau
Rút lau ra khỏi vỏ lau
Rồi nghĩ : ‘Đây vỏ, đây lau ; khác rồi
Cây lau khác, vỏ thời khác đó
Nhưng cây lau từ vỏ rút ra.
Cũng như vỏ kiếm nạm ngà
Rút ra thanh kiếm sáng lòa, quý thay !
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 382
Thanh kiếm khác, vỏ này khác đó
Nhưng cây kiếm từ vỏ rút ra.
Hay như con rắn lột da
Đây là con rắn, đây là vỏ da
Vỏ da rắn không là con rắn
Nhưng rắn từ vỏ rắn lột ra
Đây những thí dụ thấy qua
Cái này từ cái kia mà có đây.
*
Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo Thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
Sự Hiện Hóa Thân mới khác vời
Do ý làm ra tức thời
Tạo một thân khác từ nơi thân này
Thân mới ấy cũng tày Sắc pháp
Do ý sinh, đủ các căn phần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, tay chân
Toàn thân không thiếu một căn chi nào.
– Này Su-Phá ! Như vầy thí dụ :
Thợ gốm hay đệ tử người này
Là người thợ rất khéo tay
Đất sét nhồi nhuyển, người này làm ra
Đồ gia dụng tùy qua sở thích
Hay thợ ngà thực đích lành nghề
Khéo đẻo chạm với tay nghề
Đồ ngà tùy thích mọi bề làm ra
Hay như là thợ vàng rất khéo
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 383
Dùng vàng ròng tạo chế nữ trang
Các loại trang sức bằng vàng
Thật là tinh xảo, đẹp sang như vầy.
Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
Các Thần Thông nhiều loại nhiệm mầu
Một thân hiện ra nhiều thân
Nhiều thân thu lại một thân dễ dàng
Hiện, biến hình, đi ngang qua vách
Xuyên qua núi như cách hư không
Độn thổ, trồi lên đất giồng
Đi được trên nước cũng không chìm nào
Ngồi kiết già trên cao vòi vọi
Bay trên không như loại chim bằng
Với tay chạm mặt trời, trăng
Có đại oai lực, oai thần uy linh
Hoặc có thể tự mình bay tới
Cõi Phạm Thiên vời vợi nơi này,
Với các loại thần thông đây
Vị ấy có thể đêm ngày triển khai.
*
– Này Su-Phá ! Như vầy thí dụ :
Có một người chăm chú qua đàng
Bỗng nghe tiếng trống rộn ràng
Trống lớn, trống nhỏ, muôn ngàn âm thanh
Tiếng xập xỏa, tiếng loa, tiếng kiểng
Người ấy nghe và hiểu tận tường
Âm thanh trầm bổng du dương
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 384
Tiếng trong, tiếng đục, âm vương vấn hoài.
Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm, không phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
THIÊN NHĨ THÔNG, nghe tới muôn phần
Với Tai thanh tịnh siêu nhân
Vị ấy có thể nghe gần nghe xa
Hai loại tiếng : Người ta và loại
Tiếng chư Thiên các cõi nghe rày.
Thánh Tuệ uẩn, thật lành thay !
Đó là hạnh nguyện của thầy Tỷ Kheo.
– Này Su-Phá ! Lại theo thí dụ :
Có một người thiếu nữ, hay là
Thanh niên, đàn ông, đàn bà
Tính ưa trang sức, nhìn vào trong gương
Thật sáng trưng, hay trong chậu nước
Thấy mặt mình, biết được thế này :
Có tỳ vết thì biết ngay
Nếu không tỳ vết, mặt mày sạch thay.
Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
THA TÂM THÔNG, dẫn tới biết ngay
Tâm của người khác hằng ngày
Tâm tham cũng biết, không tham biết liền
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 385
Tâm nổi Sân, biết liền sân hận
Tâm không sân không hận cũng tường
Tâm Si hay không Si thường
Chuyên chú, tán loạn biết dường tự tâm
Đại hành tâm, biết là như vậy
Hoặc không phải là đại hành tâm
Tâm vô thượng, biết rõ ràng
Tâm chưa vô thượng lại càng biết thông
Tâm thiền định hay không thiền định
Tâm giải thoát hay dính buộc ràng
Vị ấy đều biết rõ ràng
Tâm của người khác ; cả hàng trí, ngu.
– Này Su-Phá ! Ví như một gã
Từ làng mình đi quá làng bên
Từ làng bên lại đi lên
Đến một làng khác rồi bèn trở lui
Về làng mình, bùi ngùi nhớ lại
Cuộc hành trình đã trải đi qua
Đến làng bên, gặp người ta
Đủ cả lớn bé, người già, trẻ con
Tại nơi ấy, ta còn kỷ niệm
Ngồi nơi nào, chuyện phiếm ra sao.
Rời làng ấy, ta lại vào
Một làng khác nữa, biết bao chuyện còn
Gặp người lớn, trẻ con thôn ấp
Nói chuyện gì, cao thấp, đứng ngồi
Trở về làng cũ của tôi
Lại rất nhiều chuyện nổi trôi hằng ngày.
– Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 386
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
TÚC MẠNG THÔNG, nhớ tới nhiều đời
Quá khứ với một, hai đời
Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua
Một ngàn đời hay là hơn nữa
Một trăm ngàn đời chửa lâu xa
Hoại kiếp, thành kiếp trải qua
Vị ấy nhớ lại như là mới đây.
Tại nơi ấy, tên này ta có
Thuộc giai cấp, giòng họ thế này
Uống, ăn, thọ khổ, lạc rày
Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao
Ta tái sinh, nhằm vào làng đó
Có tên tuổi, giòng họ thế nào.
Cứ thế, nhớ lại biết bao
Tiền kiếp, tái kiếp không sao đếm rồi
Vị Tỷ Kheo nhờ nơi không vọng
Nhớ đến nhiều đời sống an bài.
Thánh Tuệ uẩn, thật lành thay !
Đó là hạnh nguyện của thầy Tỷ Kheo.
– Này Su-Phá ! Lại nêu thí dụ :
Một tòa lầu có đủ kiều phù
Lầu này ở giữa ngã tư
Một người mắt sáng đến từ phương xa
Lên thượng đài, anh ta thấy rõ
Người ra vào các ngõ bốn phương
Nhiều người qua lại trên đường
Leo lên đài thượng hay dừng ngã tư
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 387
Những người khác đến từ nhiều hướng
Đi giữa đường hoặc đứng nhìn chơi
Chỉ bằng đôi mắt sáng ngời
Người ấy thấy rõ mọi người dễ thay.
.
Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
THIÊN NHÃN THÔNG, dẫn tới tuệ minh
Xét về sinh tử chúng sinh
Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền
Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả
Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang
Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn
Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.
Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý
Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền
Người này thân hoại, tận duyên
Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh,
Các cõi dữ, như sinh địa ngục
Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.
* Còn bậc hiền giả, những ai
Làm những thiện hạnh ý và lời, thân
Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển
Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng
Sau khi thân hoại mạng chung
Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời
Do thiên nhãn, biết đời sống chết
Người hạ liệt hay kẻ giàu sang
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 388
Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn
Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may
Do hạnh nghiệp kẻ này hành động
Có kết quả chẳng giống nhau này.
Thánh Tuệ uẩn, thật lành thay !
Đó là hạnh nguyện của thầy Tỷ Kheo.
– Này Su-Phá ! Lại theo thí dụ :
Dãy núi lớn đầy đủ nước trong
Không cấu nhiễm, sạch trắng bong
Một người mắt sáng sẽ trông rõ đồ
Những hòn sạn, con sò, hòn đá
Những con hến, đàn cá tung tăng
Trong tâm vị ấy nghĩ rằng
Nhờ mắt sáng thấy vô ngần điều hay.
Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh
Tâm định tĩnh, không nhiễm não phiền
Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền
Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
LẬU TẬN THÔNG, dẫn tới biết rành
Lậu Tận Trí, biết ngọn ngành
Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào
Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ
Biết như thật lậu-hoặc loại này
Nguyên nhân lậu-hoặc là đây
Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường.
Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức
Tâm vị ấy rất mực sáng trong
Dục-lậu, hữu-lậu thoát xong
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 389
Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn
Liền hiểu rõ : Tự thân giải thoát
Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành
Việc cần làm, đã thực hành
Sau đời hiện tại, Vô Sanh hiển bày.
*
Này Su-Phá ! Pháp này cao thượng
Thánh Tuệ uẩn tư tưởng cao siêu
Thế Tôn tán thán rất nhiều
Ngài luôn khích lệ mọi điều tịnh thanh
Nên y chỉ, thực hành pháp ấy
Không pháp nào cần phải hành trì
Người thực hành nên thuận tùy
Vào ba Thánh Uẩn không chi hơn này ”.
– “ Bạch Tôn giả ! Lành thay ! Thành tựu
Hy hữu thay ! Trường cữu pháp đây
Thật là viên mãn , tròn đầy
Chưa từng nghe thấy điều này từ nơi
Các Phạm-chí, Sa-môn ngoại giáo
Không pháp nào hoàn hảo hơn đây.
Bạch Tôn Giả ! Vi diệu thay !
Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
Đem đèn sáng vào tối như bưng
Để ai có mắt mở bừng
Có thể thấy được sáng trưng sắc màu
Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp
Được Tôn Giả giải đáp, trình bày
Con xin quy ngưỡng từ nay
Quy y Đức Phật, nương ngay Pháp mầu
Trường Bộ (Tập 1) Kinh 10 : SUBHA (Tu-Bà) * MLH – 390
Quy y Tăng, thanh cao đức cả
Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
Mong Tôn Giả nhận cho con
Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
Kể từ nay đến lúc mạng chung ”.
Từ đó Su-Pha hết lòng
Thực hành Giáo pháp Đại Hùng Thế Tôn ./-
*
* *
( Chấm dứt Kinh 10 : SUBHA – Kinh Tu Bà )