Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Bước vào Cửa Phật

22/02/201115:45(Xem: 5024)
24. Bước vào Cửa Phật

PHÁP NGỮLỤC
ThíchĐức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

24. BƯỚC VÀO CỬA PHẬT

Saunhững năm tù đày dưới bàn tay bạo quyền ác nghiệt của cộng sản, rồi sau đó tôiđã phải sáu lần lặn lội chui nhủi mới trốn thoát được đến đảo tỵ nạn và nayđịnh cư ở Mỹ.

Sáunăm sống trên đất Mỹ, tôi đã dời đổi gia đình đi khắp bảy tiểu bang. Từ tiểubang ấm Cali đến tiểu bang lạnh Minnesota và giờ đây là Chicago. Nơi nào tôicũng thấy xa lạ thiếu vắng tình quê hương, thiếu cả tình người.

Hômnay rằm tháng mười, gia đình người bạn đến rủ tôi đi chùa lễ Phật. Nghe đichùa, vợ con tôi vui mừng thúc dục tôi. Thế rồi, chúng tôi cùng lên xe. Chẳngmấy chốc từ xa tôi đã thấy cờ Phật giáo phất phới bay trên nóc cao của mộtbuilding lớn. Lòng thầm nghĩ rằng nơi đó có lẽ là chùa. Quả thật, đúng như tôiđoán, ba chữ Chùa Quang Minh màu đỏ tiếp tục lớn hiện ra trên mặt tiền của mộtbuilding. Chúng tôi cho đậu xe rồi cùng bước vào chùa.

Đâylà lần đầu tiên trên đất Mỹ tôi đến chùa. Chùa Quang Minh Chicago không giốngnhư chùa ở quê nhà có vườn cây hoa lá. Nhưng chùa khá rộng và khang trang.Chúng tôi vào đúng lúc buổi lễ bắt đầu. Chánh điện phía sau còn nhiều chỗtrống. Tôi nghĩ lạ, tại sao ngày rằm tháng mười lại ít người về chùa. Nhưngkhoảng 15 phút sau, tôi quay lại nhìn phía sau thì thấy người ngồi đầy chậtchánh điện. Ừ, té ra người ta đi chùa, làm việc phước thiện ít sốt sắng hănghái. Nhưng đi nhảy, đi coi hát, tiệc tùng thì lúc nào cũng đi đúng giờ khắc,nhiều khi đi trước giờ nữa là khác. Thế thì bảo sao cuộc đời không đầy dẫy tộicác phiền khổ.

Từđó suy ngẫm, có lẽ người Việt mình vụng tu, nên phải chịu kiếp tha hương chăng?

Tôiđang miên man suy nghĩ, thì ba hồi chuông trống Bát Nhã chấm dứt, vịxướng ngôn viên kêu gọi mọi người trang nghiêm im lặng một phút để tưởng niệmnhững vị đã vì pháp vong thân, những anh hùng tử sĩ đã vì nước hy sinh và nhữngđồng bào vì lý tưởng tự do mà đã bỏ mình trên khắp nẻo.

Ôi!Thật là giờ phút trang nghiêm và đầy ý nghĩa. Dù sống ở đâu và phương trời nào,chúng ta cũng nhớ đến những người đã hy sinh để chúng ta được sống còn. Ý nghĩanày, lần đầu tiên sau sáu năm trên đất Mỹ, tôi thấy sống lại trong ngôi chùa.Ngôi chùa ôm ấp hồn dân tộc. Với lời giới thiệu chững chạc của bác xướng ngônviên, tôi được biết vị thầy đang đứng nơi điện Phật trước mặt chúng tôi làThượng Tọa Thích Đức Niệm. Cái tên nghe rất quen thuộc, từ mấy mươi năm trưóc,khi còn ở quê nhà, tôi đã từng nghe đến danh của Thượng Tọa Thích Đức Niệm, vànếu không lầm, thì tôi cũng đã từng đọc những bài của Thầy đăng trong các báoBách Khoa và Thông Thiên Học Sàigòn. Trong khi tâm trí tôi đang miên man sống vềnhững kỷ niệm của thời dĩ vãng nơi quê hương, thì giọng nói Thầy đĩnh đạc cấtlên:

NamMô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính thưa quý Phật tử và quý đồng hương ... VàThầy mở đầu bài thuyết pháp. Đây cũng là lần đầu tiên tôi đi chùa nghe thuyếtpháp trên đất Mỹ. Lời giảng của Thầy thật trầm hùng bình dị thực tế, nhưng thậtsâu sắc. Nếu nghiệm kỹ ra thì những lời giảng đó đem áp dụng vào đời sống sẽđem lại kết quả hạnh phúc lợi ích vô cùng. Tôi còn nhớ một trong những đoạn củabài Thầy giảng hôm ấy, nay xin lược kể ra đây:

"...Sau thời 1963, tôi (tức Thầy Đức Niệm) đã có được phước duyên thường hầu cậnĐức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết ở chùa Ấn Quang. Những lúc thanh thản tôi quạthầu, Ngài kể cho tôi nghe những chuyện cung miếu triều vua và những chùa việncùng các bậc cao tăng ở đất thần kinh cố đô Huế. Trong lúc đó, Ngài có kể mộtcâu chuyện về ông quan tri huyện kiêu mạn tự cao như thế này:

Cómột ông tri huyện hán học uyên thâm chữ viết rồng bay phượng múa, nhưng có cáitật cậy tài thông minh, ỷ mình con nhà quyền thế, nên tánh tình cao ngạo, manhtâm gian ác lấy việc hãm hại người làm thú vui đắc chí. Tuy có tài, nhưng thiếuphẩm hạnh, dù luồn cúi khắp phương, nhưng trên đường quan lộ, ông huyện khôngthăng tiến thêm được bước nào. Bạn bè ông huyện, tuy tài không bằng ông, họ lạicũng không phải xuất thân từ nhà quyền thế, nhưng ai nấy đều tiến thân, cóngười được dân chúng mến trọng.

Nhìnlại thân phận, ông huyện buồn đời, nên có ý muốn tìm nơi an ủi tâm hồn. Từ lâu,ông đã nghe nói đến kinh Kim Cang là bộ kinh ý nghĩa thâm thúy trong Phật giáo.Ông cũng đã nghe nói đến Lục Tổ Huệ Năng cũng nhờ câu kinh Kim Cang "Ưngvô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" mà ngộ đạo đắc Tổ. Ông huyện tự nhủ: Lục Tổ HuệNăng không biết chữ, chỉ nhờ nghe một câu kinh Kim Cang mà ngộ đạo. Huống chimình thâm nho bác học như thế này chắc phải thông suốt lý kinh đạt đạt đạo mauhơn.

Nghĩvậy, ông huyện nhờ người tìm kinh, bắt đầu lập bàn thờ Phật, sớm hôm chuyêntụng kinh Kim Cang. Suốt gần 15 năm ông huyện trì tụng kinh Kim Cang không mấykhi bê trễ. Và cũng nhờ vậy mà ông vơi nhẹ đi tủi thân phiền muộn, vợ con ngườiở trong nhà cũng nhờ đó mà đỡ bớt bị ông cau có la rầy đay nghiến đánh mắng. Từấy, trong nhà vợ con ai nấy đều lấy làm mừng.

Vợông huyện thấy ông cũng đã hơn năm mươi tuổi, kinh kệ cũng nhiều năm, nên đãnhiều lần thừa lúc ông vui, bà huyện khuyên ông nên tìm thầy quy y để nương tựatinh thần, tu học đạo cho mau có kết quả. Cứ mỗi lần bà huyện khuyên như vậy,là bị ông huyện gạt phăng: "Đàn bà biết gì. Bà có biết cả xứ Huế ni khôngcó ông thầy nào thông hiểu kinh Kim Cang bằng tui. Tui còn dạy những ông thầyấy được nữa là khác. Đâu có ông nào xứng đáng để cho tôi bái làm thầy cầu đạo.Tôi không cần quy y tăng. Tôi chỉ quy y Phật pháp nhị bảo mà thôi" Có đôilúc bạn bè cũng khuyên ông huyện nên tìm bậc cao tăng theo lời Phật dạy để màquy y Tam Bảo. Nhưng ông nói cười xã giao cám ơn lòng tốt của họ và từ chốikhéo. Tánh tình ngạo mạn của ông huyện ngày một đồn lan xa.

Đểcảm hóa người sa cơ vào đường tội lỗi vì mạn tâm khinh tăng, Đức Tăng ThốngThích Tịnh Khiết vốn là bậc cao tăng trụ trì chùa Tường Vân Huế. Ngài là bậccao tăng đức trọng được trong từ vua cho đến ngoài dân gian kính phục. Ngài đếnnhà ông huyện thăm, nhằm lúc ông huyện đang bận tụng kinh Kim Cang, miệng tụngđọc theo tiếng chuông mõ gõ đều. Đức Tăng Thống lặng lẽ đứng phía sau cửanhìn nghe thấy tiếng chuông mõ của ông huyện, Ngài lắc đầu thầm than: Chưađược! Chưa được!

Bàhuyện thấy thế chấp tay kính cẩn thưa : Bạch Ôn, như thế nào?

ĐứcTăng Thống lại lắc đầu nói: Chưa được! Chưa được!

Bàhuyện không hiểu ất giáp gì, chỉ biết thành tâm chấp tay thưa: Xin thỉnh Ônngồi chứng nước. Chút nữa ông nhà con tụng kinh xong ra hầu Ôn.

ĐứcTăng Thống lắc đầu: Chưa được! Chưa được! Thôi, tôi xin cáo từ. Xin gửi lờithăm ông huyện.

Khiông huyện tụng kinh xong, bà huyện kể lại đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra. Ônghuyện nổi cơn thịnh nộ lôi đình nạt bà huyện, rồi to tiếng quát: Ông Thầy TườngVân này dám nói ta tụng kinh chưa được. Dám cả gan thật! Hôm nay để ông thầynày biết tay ta! Ông huyện giận dữ vội vã kêu người hầu gọi xe đưa ông lên chùagấp để gặp Hòa Thượng Tăng Thống ăn thua đủ một phen. Thấy ông huyện quá nóng,sợ sẻ xảy ra việc không hay, nên bà huyện khúm núm đến chấp tay bái xá ônghuyện lia lịa miệng khẩn nài: Tôi van xin ông! Việc có chi nà! Việ đâu còn đó!Nhưng bị ông huyện dùng tay hất mạnh làm bà phải văng ra xiểng liểng suýt ténhào xuống bực thềm tam cấp. Ông hấp tấp lên xe, không ngớt thúc dục người đánhxe chạy gấp gấp.

Vừađến cửa chùa, ông huyện vội nhảy phóc xuống xe, xông thẳng vào chùa, miệng quátto: Có ông thầy Tường Vân ở chùa không? – Nghe có tiếng quát lớn, chú điệu liềnchạy ra chắp tay: A Di Đà Phật, bẩm ông có việc chi cần gấp?

Ônghuyện lớn tiếng nạt: Phật Phật gì? Có thầy mi ở chùa không, bảo có quan huyệnđến cần việc gấp. Mau lên!

Thấythái độ giận dữ của ông huyện, chú điệu hoảng hốt vội chạy thẳng vào liêu phòngthỉnh bạch Đức Tăng Thống.

Ngàichậm rãi khoan thai bước ra. Ông huyện vừa thấy Đức Tăng Thống, cơn thịnh nộcực độ liền chỉ tay lớn tiếng hằn học:

-Vừa rồi thầy đến nhà tôi, nói tôi tụng kinh chưa được, có phải thế không?

-Mô Phật đúng thế.

-Tại sao chưa được, nói, nói mau?

-Mô Phật! Nếu đã được thì quan huyện đâu cần phải gấp rút đến tìm tôi như thế này?Nơi cửa Phật thanh tịnh, quan huyện đã thấy lòng mình được thanh tịnh chưa?Bình thản vô sở trụ chưa?

Trướcphong thái bình thản an nhiên uy nghiêm từ hòa của Đức Tăng Thống, ông huyệnlại càng thêm bực tức.

ĐứcTăng Thống từ hòa nói: Kinh dạy vô nhơn, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả! Vừanghe Đức Tăng Thống nói đến câu này, ông Huyện như tỉnh ngộ, hổ thẹn xá chào,quỳ xụp lạy, rồi xin kiếu lui.

Vềsau, khi ông huyện chết, mắt mở trân tráo, máu miệng trào ra, thân xác bị hànhhạ dẫy dụa đau đớn vô cùng, không làm cách nào hết được. Người nhà phải thỉnhĐức Tăng Thống đến tụng kinh khấn nguyện, ông huyện mới nhắm mắt êm ái trút hơithở cuối cùng vĩnh biệt!

Kếtluận câu chuyện trên, Thượng Tọa Đức Niệm nói: Tài trí mà không đạo đức chẳngkhác nào con dao bén nhọn trong tay kẻ trộm cướp. Người tu học Phật chỉ biếtchú trọng hình thức tụng kinh hay, lý thuyết giỏi, mà tâm tham lam, sân hận, simê, đố kỵ, không đoạn trừ thì chẳng khác nào nấu cát thành cơm, con dao trongtay kẻ ác. Nếu kẻ vào chùa mà không thật lòng tu tâm dưỡng tánh lại ý đồ lợidanh, thì chùa luôn luôn bị xáo trộn, thì chậm mau gì rồi cũng sẽ phải nhận lấyquả báo đau thương đen tối đời này và đời sau.

"Thamsân tật xấu không chừa,

Bobo mà giữ tương dưa làm gì?"

Xuyêntạc chùa chiền, mạ nhục Tăng bảo, lợi dụng chiếc áo Phật, có tâm phá hoạingười, thì nhất định không tránh khỏi quả báo đen tối. Bà Hy Thị vợ vua LươngVõ Đế xem thường Tăng mà làm thân mãng xà. Anh em Ngô Đình Diệm vì độc ác khinhchê phá Phật Pháp mà mạng họa đớn đau.

"Ngàyxưa quả báo còn lâu,

Ngàynay quả báo bất câu nhãn tiền".

Cổđức dạy: "Người ác hại người hiền như ngửa mặt lên trời phun nước miếng.Nước miếng chưa đến trời thì đã rơi vào mặt mình". Người Phật tử nên sốngchân thành, tu hạnh hỷ xả, cùng nhau lo cho chùa cho đạo để vun bồi cội phước."Nhứt nhựt tại thiền, nhứt niên tại ngoại". Nghĩa là: Người ở chùachơn chánh tu hành bằng người ở ngoài đời tu một năm.

Đểkết luận bài giảng rằm tháng mười hôm ấy, Thượng Tọa Đức Niệm nói: Tất cả mọingười không phân biệt thân sơ, có việc gì cần sự giúp đỡ của nhà chùa xin chochùa hay, thầy trải rộng lòng thương tuỳ khả năng chân tình đáp ứng. Chúng tamất hết tất cả, chỉ còn niềm tin và tình thương, nên đùm bọc lấy nhau, tình conPhật từ bi trong tình đồng bào ruột thịt, nên thông cảm gắn bó nhau trong nhữngngày còn sống tha hương.

NgườiPhật tử chớ nên để lợi danh khuynh đảo, chớ nên vì sự bất đồng ý kiến mà đố kỵhận thù để rồi tạo cho nhau đau lòng phiền khổ. Cổ đức dạy: "Ngậm máu phunngười, trước dơ miệng mình". Là đệ tử Phật, học theo tâm hạnh Phật, tậpsống đời vị tha hỷ xả:

Ngườicó lỗi lầm ta thứ tha,

Khoandung đại độ tánh ôn hòa,

Đãkhông buồn tức mà yên tĩnh,

Mởrộng lòng thương sống vị tha.

* * *

Taoán giận người, người không đau

Màtâm ta nổi sóng ba đào

Nhiềuđêm buồn tức, ta không ngủ

Tatự giam mình giữa vực sâu.

Xinqúy vị hãy về đây hòa vui trong ánh đạo từ bi, để cùng nhau xây dựng ngôi chùalàm nơi gửi gắm tâm hồn. Xin qúy vị hãy về đây đáp tiếng gọi của Đức Thích CaMâu Ni, để cùng xiết chặt tay nhau duy trì phát triển niềm tin truyền thống đạonhiệm mầu của tổ tiên dân tộc. Xin quý vị hãy về đây trong tình thầy trò huynhđệ, trong tình con Phật vị tha, để cùng chia xẻ cho nhau nổi vui buồn ngõ hầuxây dựng đời sống hạnh phúc, nung đúc ý chí, chờ ngày quang phục tổ quốc ViệtNam thân yêu:

Dùcho giông tố bão bùng,

Quêhương còn vững tượng đồng Thích Ca,

Àơi! Bến cũ cây đa,

Ngôichùa còn đó thì ta còn mình.

Trântrọng kính chào và cảm ơn liệt quý vị.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com