Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nội Dung

20/04/202111:33(Xem: 7666)
Nội Dung

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


 

NỘI DUNG TỔNG QUÁT

(Tổng luận Đại Bát Nhã Ba La Mật)

 

Giới thiệu tác phẩm và tác giả: TT Thích Nguyên Tạng

Mục lục

Tựa

I. Phần thứ I Tổng luận: (Các pháp mầu Phật đạo)

II. Phần thứ II Tổng luận: (Giáo lý Bát Nhã)

A. Bố cục Đại Bát Nhã

B. Sơ lược Đại Bát Nhã

- Hội thứ I: Từ quyển 01 đến quyển 400 (400 quyển)

- Hội thứ II: Từ quyển 401 đến quyển 478 (78 quyển)

- Hội thứ III: Từ quyển 479 đến quyển 537 (58 quyển)

- Hội thứ IV: Từ quyển 538 đến quyển 555 (18 quyển), 

                         còn gọi “Tiểu Bản Bát Nhã”

- Hội thứ V: Từ quyển 556 đến quyển 565 (10 quyển)

- Hội thứ VI: Từ quyển 566 đến quyển 573 (8 quyển), tương

                   đương với kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”

- Hội thứ VII: Từ quyển 574 đến quyển 575 (2 quyển),

                       có tên là: Phần “Mạn Thù Thất Lợi”

- Hội thứ VIII: Chỉ có 1 quyển (Q. 576), có tên là:

                        phần “Na Già Thất Lợi”

- Hội thứ IX: Chỉ một quyển (Q. 577) có tên là:

                        “Kim Cương Năng Đoạn”

- Hội thứ X: Chỉ có 1 quyển (Q. 578), nói về:

                         Phần “Lý Thú Bát Nhã”

- Hội thứ XI: Từ quyển 579 đến quyển 583 (5 quyển),

                         nói về “Bố thí Ba la mật”

 - Hội thứ XII: Từ quyển 584 đến quyển 588 (5 quyển),

                        nói về “Tịnh giới Ba la mật”

 - Hội thứ XIII: Một quyển (Q.589),

                        nói về “An nhẫn Ba la mật”

 - Hội thứ XIV: Một quyển (Q. 590),

                        nói về “Tinh tấn Ba la mật”

 - Hội thứ XV: Từ quyển 591 đến quyển 592 (2 quyển),         

                        nói về “Thiền định Ba la mật”

 - Hội thứ XVI: Từ quyển 593 đến quyển 600 (8 quyển),

                       nói về “Bát nhã Ba la mật”

 

III. Phần thứ III Tổng luận:

                     (Tánh Không với những nguyên lý chỉ đạo của nó)

LUẬN #1. VĂN TỰ, NGÔN THUYẾT  TRONG BÁT NHÃ

1. Danh tự Bát Nhã

2. Ngôn thuyết Bát Nhã

 LUẬN #2. BÁT NHÃ VỚI NHỮNG BIỂU THỊ hay

              NHỮNG PHÁP NGHĨA HIỂN HIỆN CỦA NÓ

1. Vũ trụ quan và Nhân sinh quan

1- Vũ trụ quan

1/. Vũ trụ và thế giới

2/.Phương hướng

3/. Thời gian

4/. Số lượng

 2- Nhân sanh quan

1/. Thân căn và Khí thế gian

1).- Uẩn Xứ Giới

2).- Các đại chủng

3).- Các pháp

2/. Tưởng và Tình

1).- Cảnh giới

2).- Cõi:

a/.- 25 thành phần hiện hữu

b/.- 10 dạng Tiên

c/.- Cõi Âm

2. Tâm & Tâm sở và Ngã & Ngã sở

 1- Tâm & Tâm sở

2- Ngã & Ngã sở

3. Phân biệt và vô phân biệt

1- Phân biệt

2- Vô phân biệt

3- Đoạn phân biệt

4. Chấp, chẳng chấp

 1- Trước, chẳng trước tướng

2- Bát Nhã lấy “vô trước” làm tướng

3- Đoạn chấp 

5. Pháp môn bất nhị

 1- Nhị pháp (pháp phân hai)

2- Bất nhị pháp (pháp không hai)

3- Nhị, Bất nhị đều bỏ nốt.

LUẬN# 3. CÁI THẤY TỪ BỜ KIA

1. Tất cả pháp không thật, hư ngụy… (nói về thực thể)

2. Thi thiết: Danh giả, pháp giả và thọ giả (nói về danh tướng).

3. Như huyễn như mộng

 1- Thế nào là như huyễn trong kinh điển thuộc hệ Bát Nhã

2- Giáo lý về như huyễn

4. Các pháp vốn trì độn, vô tri

5. Tánh không và 18 pháp không

 1- Một trào lưu mới trong việc hóa đạo

2- Mười tám pháp không

3- Vài thí dụ về 18 pháp không.

4- Giáo lý Tánh không trong Bát Nhã.

5- Tánh không: Tương đối hay tuyệt đối

 6. Như tướng (Chân như)

 1- Các pháp như thật trong Chân như thật tướng

2- Như Lai tùy sanh

3- Chân như quan Bát Nhã

7. Bình đẳng

8. Thanh tịnh

LUẬN #4. TỤC ĐẾ, THÁNH ĐẾ VÀ TRUNG ĐẠO ĐẾ  

1. Tục đế (tương đối)

2. Thánh đế (tuyệt đối)

3. Trung đạo đế (hay con đường giữa)

 1- Nhân duyên

2- Bát bất

3- Kết cấu của Trung đạo

4- Vai trò của Trung đạo trong việc giải thích Tánh Không

 4.Trung đạo, phương tiện tạm thời?

 5. Làm sao đưa cảnh giới chúng sanh đến gần cảnh giới Phật?


LUẬN #5. THẾ NÀO GỌI LÀ BÁT NHÃ BA LA MẬT?

1. Khái lược về Bát nhã Ba la mật:

 1- Sao gọi là Bát Nhã?

2- Sao  gọi là Ba La Mật?

3- Sao gọi là Bát nhã Ba la mật?

 2. Phải nắm bắt Bát Nhã như thế nào?

 3. Muốn nắm bắt đúng Bát Nhã thì phải tư duy quán tưởng như thế nào?

 4. Bát Nhã Trí siêu xuất làm sao nắm bắt được?

 

LUẬN #6. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THÀNH TỰU GIÁC NGỘ

                           (hay THÀNH ĐẠT BÁT NHÃ)

1. Phương tiện thiện xảo

2. Các giáo pháp hỗ trợ cho sự thành tựu Bát Nhã hay Giác ngộ

 1- Vô sở hữu, bất khả đắc và những dẫn xuất của chúng

1/. Giáo nghĩa Vô sở hữu & Vô sở đắc

2/. Giáo nghĩa Vô sở hữu trong kinh ĐBN

3/. Giáo nghĩa Vô sở hữu, Bất khả đắc

 2- Vô tướng

1/. Vô tướng

2/. Tướng & Vô tướng

3/. Tướng, Vô tướng đều ly

 3- Vô tánh

 4- Tự tánh & Vô tự tánh

 5- Vô tánh không, Tự tánh không & Vô tánh tự tánh không

 6- Vô trụ


LUẬN #7. MỤC TIÊU CỦA VIỆC TU HÀNH BÁT NHÃ

1. Ba mục tiêu của việc tu hành Bát Nhã

 1- Bác Nhã và Giác ngộ

2- Bát Nhã và Chánh giác

3- Bát Nhã và Nhất thiết trí trí

2. Phải cầu, phảỉ tín thọ phụng hành Bát Nhã như thế nào?

 1- Cầu Bát Nhã:

1/. Cầu Bát Nhã ở đâu?

1).- Chẳng cầu ở sở hành.

2).- Sở hành Bát Nhã phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện.

2/.Tín thọ phụng hành.

 2- Học hành Bát Nhã làhọc “Không”, hành “Vô Tướng”, “Vô tác”.


LUẬN #8. THẾ NÀO LÀ THÔNG ĐẠT BÁT NHÃ?

1. Thế nào là thông đạt Bát Nhã hay thông đạt tuệ?

2. Thông đạt Bát Nhã là thông đạt thật tánh tất cả pháp.

LUẬN #9.  CHỨNG HAY ĐẮC?

LUẬN #10. CÔNG hay TỘI TRONG VIỆC THỌ TRÌ BÁT NHÃ?

1. Công đức do việc thọ trì Bát Nhã

1- Thế lực, oai thần Bát Nhã

2- Công năng Bát Nhã

3- Bát Nhã là tối thắng, là tôn quý, cao siêu, vi diệu... không gì bằng

4- Bát Nhã là kho báu lớn

5- Bát Nhã là vua của tất cả c

6- Bát Nhã cảnh giới nhiệm mầu của chư Phật

7- Bát Nhã với sức mạnh “huyền bí” của nó.

8- Công đức thọ trì Bát Nhã

2. Tội lỗi do việc thọ trì Bát Nhã khiếm khuyết gây ra.

3. Tích tụ công đức thiện căn thì phải phát Bồ đề tâm.

LUẬN #11. BÁT NHÃ VÔ BIÊN 

1. Bát Nhã sâu xa

2. Bát Nhã không ngằn mé

 3. Bát Nhã vô biên

 

LUẬN #12. BÁT NHÃ KỲ CÙNG CÓ PHẢI LÀ  PHÁP TỐI CAO KHÔNG?

1. Tu hành Bát Nhã chớ quán các pháp có chút khá trụ, khá vượt

2. Bát Nhã không phải là thực tại cứu cánh

  

TOÁT YẾU

 

TỔNG QUAN BÁT NHÃ

 

ĐẠO VÀ ĐỜI

Nhìn chung, Tổng luận này quá dài, giáo lý lại khó. Nhưng khó khăn này có thể khắc phục được, chỉ cần có ý chí và nghị lực dũng mãnh là đủ. Cái khó khăn nhất đối với chúng tôi có lẽ ở lối diễn đạt văn cú và cách chuyển ngữ trong các bản dịch từ Hán sang Việt được trích dẫn ở đây. Đó chính là cái khó khăn, quan ngại lớn nhất của chúng tôi khi bắt đầu chiết giải thiên Tổng luận này, e rằng quý vị sẽ bỏ cuộc nữa chừng! Nhưng “vạn sự khởi đầu nan”. Một khi đọc hiểu rồi thì càng đọc càng thích! Kiên nhẫn tinh tấn lắm mới được. Đó là một trong sáu đặc tánh mầu nhiệm của Lục Ba la mật. Vì vậy, trước khi nhập Niết bàn Phật bảo các đệ tử: 

“Hỡi các người thân yêu của ta, hãy tinh tấn lên, tinh tấn lên để giải thoát!”

 

---o0o---


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2012(Xem: 9092)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
25/12/2011(Xem: 11816)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 9584)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 19303)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 8428)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 10888)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 9620)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 12552)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 13518)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]