Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

35. Phẩm “Khen Ngợi Thanh Tịnh” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

03/07/202016:33(Xem: 10667)
35. Phẩm “Khen Ngợi Thanh Tịnh” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)


39_Pham Khen Ngoi Thanh Tinh 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

PHẨM  “KHEN NGỢI THANH TỊNH”.

Quyển 285 đến phần đầu quyển 287, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với quyển thứ 13, phẩm “Thán Tịnh”, MHBNBLM)


Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le





 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế rất là thẳm sâu? Phật nói: Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.

Xá lợi Tử nói: Pháp nào rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu? Phật nói: Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu; thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Mười hai xứ rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Mười tám giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.

Xá Lợi Tử! Địa giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu; thủy hỏa phong không thức giới (ngũ đại chủng) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Vô minh hành, thức, danh, sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não (thập nhị nhân duyên) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không (18 pháp không) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.

Xá Lợi Tử! Chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới (thập nhị chân như) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Khổ Thánh đế, tập diệt đạo Thánh đế (tứ đế) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi (37 pháp trợ đạo) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn (tam giải thoát môn) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. (Q.285, ĐBN)

Xá Lợi Tử! Bồ Tát thập địa rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Năm nhãn, sáu thần thông rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tất cả Đà la ni môn, tất cả Tam ma địa môn rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.

Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. (Nghĩa là tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu).

Xá Lợi Tử! S thanh tịnh như vậy rất trong sáng(1). Vì 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Ngũ đại chủng, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá lợi Tử! Thập nhị chân như, Tứ đế, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá Lợi Tử! Bồ Tát thập địa, Năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ Đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng.

Xá Lợi Tử! S thanh tịnh như vậy không chuyển, không nối. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Ngũ đại chủng, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Xá Lợi Tử! Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn, năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối.

Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế vốn không tạp nhiễm. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngũ đại, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không, Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí rốt ráo tịnh nên nói sự thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai... cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm.

Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế bản tánh thanh khiết. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngũ đại, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không, Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy bản tánh thanh khiết. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai... cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy bản tánh thanh khiết.

Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế vô đắc, vô quán. Sự thanh tịnh như vậy không sanh khởi, không hiển hiện. Sự thanh tịnh như thế không sanh cõi Dục, cõi Sắc, hay vô Sắc vì tự tánh các cõi kia không thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri, vì tất cả pháp bản tánh trì độn, nên sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri.

Tánh của sắc vô tri tức là thanh tịnh. Tánh của thọ, tưởng, hành, thức, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc… tất c các thiện pháp vô tri tức là thanh tịnh. Vì tự tướng là không nên tánh của chúng vô tri tức là thanh tịnh.

Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí không ích, không tổn. Như vậy là rốt ráo tịnh. Vì pháp giới thường trú nên Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí không ích, không tổn.

Xá Lợi Tử! Vô nhị thanh tịnh nên vô đắc, vô quán. Vì không nhiễm không tịnh (tức không phải nhị pháp) nên rốt ráo tịnh.

Xá Lợi Tử! Vì ngã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì ngã vô sở hữu nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu là rốt ráo tịnh. Mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định, tứ đế, thập nhị nhân duyên, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết trí trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng vô sở hữu nên rốt ráo tịnh.

Ngã thanh tịnh nên Nhất thiết trí thanh tịnh. Vì ngã vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri nên Nhất thiết trí vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri là rốt ráo tịnh.

Ngã không biên giới nên sắc thọ, tưởng, hành, thức không biên giới. Mười hai xứ, mười tám giới… tất cả các thiện pháp không biên giới. Vì rốt ráo là không, không biên giới cũng không nên rốt ráo tịnh.

Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát có khả năng hiểu biết như vậy thì đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Vì rốt ráo là không, không biên giới là không, tức thành đạo tướng trí.

Bồ Tát tu hành Bát Nhã mà không trụ bờ này, không trụ bờ kia, không trụ giữa dòng thì đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Vì pháp tánh ba đời, bình đẳng, tức là thành đạo tướng trí.

 

Phẩm “Khó Tin Hiểu” vừa tụng trên, dài 103 quyển hơn 1.075 trang sách đánh máy cở lớn đã nói quá nhiều về thanh tịnh này rồi. Ở đây chỉ giải thích thêm thế nào là thanh tịnh và phẩm kế tiếp nữa là “Thuyết Tướng Bát Nhã” lại thuyết về thanh tịnh. Vì vậy, chúng tôi nói không những pháp môn thanh tịnh là pháp môn quan trọng trong việc tu tập Bát Nhã mà còn là pháp môn quan trọng trong việc tu Phật đối với tất cả các tông phái. Không có thanh tịnh không có đạo Phật. Vì vậy, thanh tịnh mới được xem là thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn, trí ấn của chư Như Lai. Nên nhiều chỗ chúng tôi  nói đạo Phật là Thanh-Tịnh-Đạo. Tất cả pháp tu rốt ráo cũng đưa đến chỗ này. Nếu hiểu biết như vậy mà tu hành thì có thể tháo gỡ tất cả mọi hệ lụy thế gian, không phải chạy đầu kia tìm kiếm nữa!

 

Thích nghĩa:

(1). HT Thích Trí Nghiêm dịch là minh liễu.

 

Lược giải:

 

1. Khen tịnh:

 

Sự thanh tịnh rất sâu xa, rất trong sáng, không chuyển không nối, vốn không tạp nhiễm, bản tánh thanh khiết. Sự thanh tịnh như thế vô đắc, vô quán. Sự thanh tịnh như vậy không sanh khởi, không hiển hiện. Sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri. Vì sao? Vì tất cả pháp vô tri, trì độn, nên chúng trơ lì ra đó. Các pháp không tự biết nó, các pháp cũng không biết các pháp khác, tự tướng rỗng không, nếu có thấy biết như vậy thì tâm được thanh tịnh.

Biết hay không là ở con người. Để phân biệt pháp này với pháp nọ, nên đặt tên cho nó. Từ khi có tên, có danh sắc, thì nó không còn là nó nữa. Bây giờ, nó trở thành lớn nhỏ, vuông tròn, đẹp xấu... Đó là lỗi của con người người, không phải ở pháp. Hãy trả lại cái bản nguyên của thuở ban đầu cho chính nó thì đâu đâu cũng toàn một màu xanh thanh tịnh như nhau.

 

2. Thế nào gọi là rốt ráo tịnh?

 

Ta có thể lấy cuộc đối thoại giữa Phật và Tu Bồ Đề ở phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã” quyển 293, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Di Lặc Bồ Tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng những pháp nào? Và nói những pháp nào?

Phật nói: “Thiện Hiện! Di Lặc Bồ Tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng pháp sắc rốt ráo tịnh, nói pháp sắc rốt ráo tịnh. Chứng pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nói pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh, nói pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập bát giới rốt ráo tịnh, nói pháp thập bát giới rốt ráo tịnh. Chứng tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh, nói tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh”.

Rốt ráo tịnh có nghĩa là đối với uẩn xứ giới và tất cả pháp “tâm như như bất động”. Tâm như như bất động là đối với trần cảnh không có sở đắc, không cảm thọ, không trụ, không chấp. Có trụ, có chấp... là có dính mắc, có trói buộc là có phiền não. Khi tâm không còn phân biệt, vô sở đắc, vô sở trụ... đó là tâm không hay còn gọi là vô tri, vô thức, vô niệm, vô tâm. Bát nhã Ba la mật còn gọi là Tánh Không, chủ trương tâm không tức dùng diệu quán “vô sở đắc”, diệu huệ “vô sở trụ” làm phương tiện để sanh tâm thanh tịnh. Mục đích là quét sạch tất cả những dây mơ rễ má, những thói quen, tập tục còn vướng bận trong tâm thức để con người được rỗng rang tự tại.

Khi đạt đến trình độ nầy thì tâm thể hoàn toàn vắng lặng. Lúc đó không có nghĩa là người tu biến thành gỗ đá. Thiền sư Khuê Phong tức tôn giả Tông Mật nói: “Tâm có lặng thì linh chi mới mở”. Khi tâm thể tuyệt đối vắng lặng, người ta tin tưởng là huệ (trí Bát Nhã trong sạch, nhiệm mầu) xuất hiện, một thứ ánh sáng vi diệu phát chiếu sau cái “trống không” đó.

Vì vậy, Ngũ đạo pháp môn của Kinh Đại thừa Bắc Thiền nói rằng:

1- Phật giác ngộ và giác ngộ là không móng tâm.

2- Khi tâm bất động, các giác quan yên lặng và trong trạng thái tĩnh lặng đó cánh cửa trí tuệ vô thượng sẽ hé mở.

3- Trí tuệ vô thượng khai mở dẫn đến khai phóng một cách vi diệu thân và tâm. Tuy nhiên đây không phải là Niết bàn tịch tĩnh của Tiểu thừa, bởi vì trí tuệ vô thượng do chư Bồ Tát chứng đắc đòi hỏi các cảm thức tuy có hoạt động nhưng không dính mắc.

4- Tính hoạt động không dính mắc nầy nghĩa là không kẹt vào nhị nguyên đối đãi giữa thân và tâm, nơi đó hội được thật tướng các pháp.

5- Rốt cuộc đây là con đường của Nhất tính, dẫn đến giới sự của Như thị không ngăn ngại, không sai biệt. Đó là giác ngộ.(1)

Nên, kinh nói: “Ngã không biên giới nên sắc thọ, tưởng, hành, thức không biên giới. 12 xứ, 18 giới… tất cả các thiện pháp không biên giới. Vì rốt ráo là không, không biên giới cũng không nên rốt ráo tịnh.

(...) Nếu đại Bồ Tát có khả năng hiểu biết như vậy thì gọi đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Vì rốt ráo là không, không biên giới là không, tức thành đạo tướng trí”.

Nhưng đó chỉ là những din tả có tính cách khuôn sáo. Nói một cách đơn giản và ngắn gọn hơn như Huyền Sa “Bản nhiên thanh tịnh tức là cái tịch lặng an nhiên trong hiện tại”. Vậy, thanh tịnh ngoài sắc trần không nhiễm ô, không sanh diệt, không trụ chấp, không trói buộc, không dính mắc… còn có một ý nghĩa tuyệt đối là chân, một siêu thức được coi là trí tuệ vô thượng phát chiếu.

Tới đây không còn phân biệt, chấp trước nữa. Mọi hiện hữu bây giờ được phơi bày “như thị”, tất cả tánh tướng thể dụng đều bình đẳng, và cái bình đẳng đó chính là cái tịch lặng an nhiên trong cuộc sống hiên tại. Bình đẳng đó Bát Nhã gọi là thanh tịnh và người đạt được thanh tịnh cũng chính là Như Lai. Vì Như Lai là giải thoát, Như Lai là Niết bàn. Giải thoát và Niết bàn cũng gọi tịch tĩnh, cái tịch lặng an nhiên. Tất cả các từ đó đều ẩn dụ về cái thanh tịnh này!

 

Kết luận:

 

Tu hành là gì nếu không phải là luyện tâm, luyện trí? Luyện tâm là kỹ thuật hành trì để đưa tâm thể đạt đến chỗ an nhiên tịch lặng: Giới là hàng rào ngăn chận tội lỗi từ ngoài vào, nếu giữ được giới thì tâm được thanh tịnh; Định là ngăn chận những dao động bên trong tức gạt bỏ vọng niệm, tâm sẽ như như bất động. Tới đó thì linh chi sẽ mở, linh chi tức là Huệ, một khi Huệ khai mở thì chứng đạo, được giải thoát hay đạt Niết bàn! Tam vô lậu học đó chính là kỹ thuật luyện tâm luyện trí tối cao của Phật đạo từ khi nó mới khai sáng, ngoài kỹ thuật đó không còn kỹ thuật nào khác!

Thích nghĩa cho phần lược giải phẩm “Khen Ngợi Thanh Tịnh”:

(1). Trích trong tác phẩm “Vô Niệm” của Thiền sư D.T. Suzuki do Thuần Bạch dịch./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2012(Xem: 9047)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
25/12/2011(Xem: 11563)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 9535)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 18916)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 8356)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 10577)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 9512)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 12343)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 13430)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]