Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Phẩm "Hiện Hóa"

28/01/202109:48(Xem: 7992)
12. Phẩm "Hiện Hóa"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-542

 

XII. PHẨM "HIỆN HÓA".

Phần giữa quyển 572, Hội thứ VI, ĐBN:
(Tương đương với phẩm 11, Hiện Hóa, Kinh TTVBN:

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Bồ Tát Thiện Tư thưa với Thiên vương Tối Thắng:

- Hóa thân của Phật có thể biến hóa nữa không?

Tối Thắng đáp:

- Nay đối với việc đó lấy Thế Tôn làm minh chứng. Hóa thân của Phật lại có thể hóa làm hằng hà sa số vô lượng hóa thân Phật nữa, với vô lượng hình tượng thần thông để thuyết pháp làm lợi lạc hữu tình. Vì sao? Vì nguyện lực thuở xưa của chư Phật thanh tịnh nên mới được như vậy.

Bồ Tát Thiện Tư lại hỏi:

- Thiên vương thường thuyết pháp thâm sâu một cách khéo léo. Nếu gọi nguyện lực thuở xưa của Phật thanh tịnh thì cúi xin Thiên vương thỉnh thần lực Phật làm cho Bát Nhã thâm sâu tồn tại lâu dài trên thế gian, không bao giờ diệt mất.

Tối Thắng trả lời:

- Thiện Tư nên biết! Tất cả Như Lai thường cùng nhau hộ trì Bát Nhã thâm sâu. Vì sao? Vì văn tự để tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu, văn tự này chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, thường không ẩn mất. Ý nghĩa được hiển bày kia cũng chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, thường không ẩn mất. Do đó, Bát Nhã thâm sâu của chư Phật cũng không ẩn mất. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh. Nếu pháp không sanh thì cũng không diệt, tức là giáo lý bí mật của chư Phật. Diệu lý như vậy thì Như Lai ra đời, hoặc không ra đời, tánh tướng vẫn vắng lặng gọi là chơn như, cũng gọi là pháp giới, còn gọi là thật tế, thuận theo nhân duyên mà chẳng chống trái, đó là chánh pháp. Tánh nó thường trú vĩnh viễn không ẩn mất.

Bồ Tát Thiện Tư thưa:

– Đại vương! Những người nào có thể hộ trì chánh pháp?

Thắng Thiên vương đáp:

– Thiện nam tử! Nếu không trái nghịch với tất cả pháp, thì gọi là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì không có tranh luận và không trái đạo lý, nên gọi là hộ trì chánh pháp.

Lại hỏi:

– Thế nào không trái đạo lý?

Đáp:

– Nếu thuận theo văn tự là không trái đạo lý và không có chỗ để tranh luận thì gọi đó là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì phàm phu thế gian đều chấp trước các kiến, còn người thuận đạo lý thường nói không. Cho nên thế gian sinh ra tranh luận; như vậy phàm phu tham đắm vào pháp , còn người thuận theo đạo lý thì coi thường việc này. Thế gian nói có thường, lạc, ngã, tịnh; người thuận đạo lý nói: Vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, cho nên thế gian sinh ra tranh luận.

Thiện nam tử! Tất cả phàm phu đều thuận theo thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì ngược lại với thế gian, cho nên thế gian thường sanh tranh luận. Tất cả phàm phu đều chấp uẩn, xứ, giới, còn người thuận đạo lý thì nói tất cả pháp đều không có chấp trước, cho nên thế gian phát khởi tranh luận.

Thiện nam tử! Tất cả phàm phu thuận theo đời thì không thực hành đạo lý, còn người thuận theo đạo lý thì trái với đời.

Bồ Tát Thiện Tư lại hỏi Tối Thắng:

- Vậy hôm nay Thiên vương nên nắm lấy gì?

Tối Thắng đáp:

- Thiện Tư nên biết! Tôi chẳng nắm lấy ngã cũng chẳng nắm lấy pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Vì sao chẳng nắm?

Tối Thắng đáp:

- Tự tánh ngã là xa lìa. Tự tánh của pháp và hữu tình cũng là xa lìa. Các sự xa lìa này cũng bất khả đắc.

Tự tánh quá khứ là xa lìa. Tự tánh vị lai, hiện tại cũng là xa lìa. Các sự xa lìa này đều bất khả đắc.

Tự tánh chư Phật chẳng phải xa lìa, tự tánh chư Phật chẳng phải không xa lìa. Tự tánh quốc độ chư Phật chẳng phải xa lìa. Tự tánh của quốc độ chư Phật chẳng phải không xa lìa.

Tự tánh các pháp chẳng phải xa lìa, tự tánh các pháp chẳng phải không xa lìa. Thiện Tư nên biết! Hành được như vậy gọi là thuận chánh lý. Không có pháp để nắm, không nắm mới có thể hộ trì chánh pháp.

Bồ Tát Thiện Tư khen Thiên vương Tối Thắng:

- Hay thay! Đại sĩ chính là người có thể thuyết Bát Nhã thâm sâu này, không chấp, không đắm, không văn, không tự, diệt hý luận, lìa phân biệt và pháp bị phân biệt.

 

(Sao gọi là không phân biệt?)

 

Bấy giờ, trong chúng có một Thiên tử tên là Hiền Đức, từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quì chấm đất, chắp tay cung kính thưa với Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên vương Tối Thắng đã nói không có sự phân biệt, đó là pháp nào?

Phật bảo Hiền Đức:

- Thiên vương nên biết! Không có phân biệt ấy chính là pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được hay mất đều bất khả đắc, chẳng sanh chẳng diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy, gọi là pháp không phân biệt. Nếu đại Bồ Tát quán như thế ấy, năng hộ được Chánh pháp, chẳng thấy pháp năng hộ và sở hộ.

Khi nói pháp này mười ngàn Bí sô tâm được giải thoát, hai ngàn Thiên tử xa lìa trần cấu, phát sinh pháp nhãn thanh tịnh.

Bồ Tát Thiện Tư hỏi Thiên vương Tối Thắng:

- Những biện tài nào có thể thuyết pháp thâm sâu như thế?

Tối Thắng đáp:

- Bậc không còn tất cả tập khí phiền não, đã đạt được biện tài thì có thể nói pháp thâm sâu này. Đạo ngoài ngôn ngữ, không thể gọi tên, tuyên thuyết Đệ nhất nghĩa trí, biện tài như vậy mới có thể nói được pháp thậm thâm này.

Bồ Tát Thiện Tư hỏi Thiên tử Hiền Đức:

- Vì sao trong pháp không sanh đem biện tài mà nói?

Thiên tử Hiền Đức đáp:

- Đại Bồ Tát nếu là kẻ chẳng trụ pháp không sanh không diệt, thời có biện tài nói pháp sâu thẳm. Vì sao? Xa lìa hý luận, chẳng thấy sở duyên, chẳng thấy năng duyên, tâm không chỗ trụ, vậy có thể nói. Chẳng trụ ngã pháp, chẳng trụ đây kia, chỉ trụ Đệ nhất nghĩa đế thanh tịnh, cho nên có thể nói.

Bồ Tát Thiện Tư liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ lạ. Thiên tử Hiền Đức thật là hiếm có, chính Ngài mới có thể thông suốt pháp thậm thâm, biện tài vô tận.

Phật bảo Thiện Tư:

- Thiên Tử Hiền Đức từ chỗ Phật Bất Động của thế giới Diệu Hỷ, mà đến thế giới Kham Nhẫn này nghe Bát nhã Ba la mật thâm sâu. Các ông nên biết! Thiên tử Hiền Đức đã ở vô lượng trăm ngàn ức kiếp tu tập môn Đà la ni hiếm có, nhiều kiếp thuyết pháp cũng chẳng cùng tận.

 

(Thế nào là Đà la ni Chư pháp bất nhập?)

 

Bồ Tát Thiện Tư lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là môn Đà la ni hiếm có?

Phật dạy:

- Thiện Tư! Đấy gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Môn Đà la ni vượt qua các văn tự, nói không thể nhập, tâm không thể vào, các pháp nội ngoại đều bất khả đắc.

Thiện Tư nên biết! không có pháp nào có thể vào được pháp này nên gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Vì sao? Pháp đây bình đẳng không cao không thấp, không có vào ra, không một văn tự từ ngoài mà vào, không một văn tự từ trong mà ra, không một văn tự trụ trong pháp đây, cũng không văn tự chung thấy nhau được, cũng chẳng phân biệt pháp và phi pháp, các văn tự này nói cũng không giảm, chẳng nói cũng không tăng, từ xưa đến nay trọn không khởi tác và hoại diệt được.

Thiện Tư nên biết! Giống như các văn tự, tâm cũng như vậy. Giống như tâm, tất cả pháp cũng như thế. Vì sao? Vì pháp lìa ngôn ngữ, cũng lìa nghĩ lường, từ xưa đến nay không sanh không diệt, nên không vào ra. Đó gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Nếu kẻ thông suốt được pháp môn đây, biện tài vô tận. Vì sao? Vì thông đạt Pháp không đứt đoạn, không cùng tận. Người có thể vào hư không tức có thể vào cửa Đà la ni này.

Thiện Tư nên biết! Nếu đại Bồ Tát thông suốt được môn Đà la ni này, tâm được thanh tịnh, thân ngữ cũng thế, sự tu hành thuận theo lý Bát Nhã vững chắc thì các quân ma không thể quấy nhiễu. Tất cả ngoại đạo chẳng dám đối diện, các nghiệp phiền não làm gì hoại được, thần lực vững vàng, tâm lìa sự khiếp nhược, hễ có thuyết giảng thì biện tài vô tận, có thể tuyên thuyết các môn Thánh đế thậm thâm vi diệu. Trí tuệ đa văn tựa như biển cả. An trú tam muội ví như núi Diệu Cao (Tu di), như sư tử chúa giữa chúng không sợ. Pháp thế gian chẳng nhiễm, giống như hoa sen trong sạch. Lợi ích chúng sinh ví như đất liền; tẩy trừ cấu uế ví như nước lớn. Thành thục thế gian sánh với các lửa dữ. Tăng trưởng pháp lành đồng như gió mạnh. Mát mẻ vui lòng như ánh sáng hiền hòa của mặt trăng. Thường phá đi những sự tối tăm như ánh sáng mặt trời. Phá dẹp phiền não oán hại như dũng sĩ oai hùng. Tâm tánh điều phục như voi chúa lớn. Thường vang sấm pháp dụ như rồng lớn. Mưa pháp rưới khắp ví như đám mây lớn. Như đại lương y chữa bệnh phiền não, giống như đại quốc vương khéo ngự trị thế gian. Như Tứ Thiên vương ủng hộ hữu tình và hộ trì chánh pháp. Như trời Đế Thích giàu sang hơn hết, đối với trong trời, người. Tâm được tự tại, ví như Đại phạm vương, Tự tại vương, dẫn dắt thế giới Ta bà. Thân không ngăn ngại, như chim Ca lâu la. Chỉ dạy hữu tình, như người cha của thế gian; có thể ban báu pháp, giống như Tỳ sa môn vương có thể ban các báu. Được trang nghiêm bằng công đức, trí tuệ; hữu tình nhìn thấy, không ai không lợi ích. Được chư Phật Thế Tôn khen ngợi, các trời, rồng v.v... cùng nhau ủng hộ.

Thiện Tư nên biết! Các đại Bồ Tát nếu đắc môn Đà la ni này liền được tự tại, làm lợi ích hữu tình, phương tiện thuyết pháp chẳng cùng tận, tâm không mỏi mệt, chẳng màng lợi dưỡng tiếng khen, pháp thí bình đẳng không có bỏn sẻn, ganh tị. Thọ trì tịnh giới, 3 nghiệp không lỗi.

An nhẫn thanh tịnh lìa các sự giận dỗi, bực bội.

Tinh tấn thanh tịnh làm việc thành tựu.

Tĩnh lự thanh tịnh khéo léo điều phục tâm.

Trí Bát Nhã thanh tịnh vĩnh viễn không nghi ngờ.

Đủ bốn Vô lượng như Đại Phạm vương thường tu hành các đẳng trì, đẳng chí một cách khéo léo, vào ra tự tại, hơn hẳn các thế gian, tu nhân Đại Giác đủ các phước tuệ, nhận lãnh ngôi quán đỉnh được tự tại lớn.

Khi Phật thuyết môn Tổng trì này, trong chúng có sáu vạn bốn ngàn Bồ Tát được Bất thối chuyển, ba vạn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn. Hai vạn trời người xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Vô lượng, vô biên trời, người v.v... đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

Sơ giải:

 

Giáo pháp ở đây nhấn mạnh về các pháp nếu không sanh thì cũng không diệt, dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian này tánh tướng của các pháp vẫn thường trụ. Đó là giáo lý bí mật của tất cả chư Như Lai. Thâm ngộ các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà Đại Bát Nhã thường gọi là Không thì sẽ thấy đâu đâu cũng là đạo, đâu đâu cũng là chơn như, pháp giới, thật tế...!

Năm Hội trước đây Phật thường nói các pháp là giả thi thiết, các pháp là như huyễn như mộng, các pháp là trì độn, là không, là như như, là bình đẳng, và bình đẳng nên nói là thanh tịnh. Đó là một chuỗi dài tri nhận của Phật đối với bản tánh các pháp mà Phật bày tỏ trong toàn bộ Đại Bát Nhã này. Vì vậy, Phật thú nhận: Vì “các pháp như vậy, nên trong lòng vắng lặng không muốn nói pháp”.

Thắng Thiên Vương tự hội nhập giáo lý đó, nên nói với Bồ Tát Thiện Tư:

... Vì pháp chẳng sanh. Nếu pháp không sanh thì cũng không diệt, tức là giáo lý bí mật của chư Phật. Diệu lý như vậy thì Như Lai ra đời, hoặc không ra đời, tánh tướng vẫn vắng lặng gọi là chơn như, cũng gọi là pháp giới, còn gọi là thật tế, thuận theo nhân duyên mà chẳng chống trái, đó là chánh pháp. Tánh nó thường trú vĩnh viễn không ẩn mất”.

 

Pháp thoại giữa Thắng Thiên Vương và Bồ Tát Thiện Tư cho chúng ta thấy đâu cũng là đạo lý: “Thắng Thiên bảo:

- Thiện nam tử! Nếu không trái nghịch với tất cả pháp, thì gọi là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì không có tranh luận và không trái đạo lý, nên gọi là hộ trì chánh pháp.

Lại hỏi:

- Thế nào không trái đạo lý?

Đáp:

- Nếu thuận theo văn tự là không trái đạo lý và không có chỗ để tranh luận thì gọi đó là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì phàm phu thế gian đều chấp trước các kiến, còn người thuận đạo lý thường nói không. Cho nên thế gian sinh ra tranh luận; như vậy phàm phu tham đắm vào pháp , còn người thuận theo đạo lý thì coi thường việc này. Thế gian nói có thường, lạc, ngã, tịnh; người thuận đạo lý nói vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, cho nên thế gian sinh ra tranh luận.

Thiện nam tử! Tất cả phàm phu đều thuận theo thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì ngược lại với thế gian, cho nên thế gian thường sanh tranh luận. Tất cả phàm phu đều chấp uẩn, xứ, giới, còn người thuận đạo lý thì nói tất cả pháp đều không có chấp trước, cho nên thế gian phát khởi tranh luận.

Thiện nam tử! Tất cả phàm phu thuận theo đời thì không thực hành đạo lý, còn người thuận theo đạo lý thì trái với đời”.

Người thế gian thuận theo thế gian nói các pháp có không, sanh diệt, đoạn thường... Đó là lưỡng nguyên pháp, pháp đối nghịch hai đầu, nên phân biệt chấp đắm mà sanh ra tranh cãi, buông bỏ hay nắm bắt... Còn Thánh giả ngược dòng thế gian vì “không chấp, không đắm, không văn tự, diệt hý luận, lìa phân biệt...”.

Đến chỗ này, nên Phật bảo:

- “Không phân biệt ấy chính là pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được hay mất đều bất khả đắc, chẳng sanh chẳng diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy, gọi là pháp không phân biệt. Nếu đại Bồ Tát quán như thế ấy, năng hộ được Chánh pháp, chẳng thấy pháp năng hộ và sở hộ”.

Tất cả pháp phơi bày trước mắt bình dị tịch tĩnh, nhưng mấy ai thấy được dù có chỉ cho thấy, nói cho nghe, chứng cho biết nhưng ngoan cố tranh cãi, giận hờn. Vì sao? Vì ngã và ngã kiến tạo thành thân kiến, kiến thủ quá sâu đậm nên theo dòng thế gian mà phải chịu luân chuyển. Chỉ có những ai dám lội dòng nước ngược mới có thể uống được ngụm nước Cam lồ chảy ra từ đầu nguồn của cõi Thánh!

 

Trước khi chấm dứt phẩm này, xin Quý vị thẩm định câu nói sau đây: “Tất cả phàm phu đều thuận theo dòng thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì ngược lại với thế gian. Có phải như vậy không?

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2012(Xem: 9092)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
25/12/2011(Xem: 11816)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 9584)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 19303)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 8428)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 10888)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 9620)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 12552)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 13518)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]