(Tương đương với phẩm “Khen Thắng Đức”, đầu quyển 10, Hội thứ I, ĐBN
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước
Tóm lược:
Bấy giờ, các Tôn giả như Xá lợi Tử, đại Mục kiền Liên, Thiện Hiện, đại Âm Quang, Mãn Từ Tử là những vị mà mọi người đều biết, lại có các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam Cư sĩ, nữ Cư sĩ cùng các đại Bồ Tát, đều rời chỗ ngồi, cung kính chấp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đại Ba la mật, Quảng(1) Ba la mật, Đệ nhất Ba la mật, Tôn Ba la mật, Thắng Ba la mật, Thượng Ba la mật, Diệu Ba la mật, Cao Ba la mật, Cực Ba la mật, Vô thượng Ba la mật, Vô thượng thượng Ba la mật, Vô đẳng Ba la mật, Vô đẳng đẳng Ba la mật, Như hư không Ba la mật, Vô đối đãi Ba la mật, Tự tướng không Ba la mật, Cộng tướng không Ba la mật, Nhất thiết pháp không Ba la mật, Bất khả đắc không Ba la mật, Vô sanh không Ba la mật, Vô diệt không Ba la mật, Vô tánh không Ba la mật, Hữu tánh không Ba la mật, Vô tánh hữu tánh không Ba la mật, Xa ma tha(2) Ba la mật, Đàm ma tha(3) Ba la mật, Khai phát tất cả công đức Ba la mật, Thành tựu tất cả công đức Ba la mật, Không thể khuất phục Ba la mật, Hay phá trừ tất cả Ba la mật… là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể thực hành thí vô đẳng đẳng, có thể viên mãn thí vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ bố thí Ba la mật vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, chỗ gọi vô biên tướng hảo diệu trang nghiêm thân, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, chỗ gọi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể thọ trì giới vô đẳng đẳng, có thể viên mãn giới vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tịnh giới Ba la mật vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, chỗ gọi vô biên tướng hảo diệu trang nghiêm thân, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, chỗ gọi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể tu nhẫn vô đẳng đẳng, có thể viên mãn nhẫn vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ an nhẫn Ba la mật vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, chỗ gọi vô biên tướng hảo diệu trang nghiêm thân, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, chỗ gọi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể phát sanh siêng năng vô đẳng đẳng, có thể viên mãn siêng năng vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tinh tấn Ba la mật vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, chỗ gọi vô biên tướng hảo diệu trang nghiêm thân, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, chỗ gọi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể phát sanh định vô đẳng đẳng, có thể viên mãn định vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tịnh lự Ba la mật vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, chỗ gọi vô biên tướng hảo diệu trang nghiêm thân, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, chỗ gọi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể tu tập tuệ vô đẳng đẳng, có thể viên mãn tuệ vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ Bát nhã Ba la mật vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, chỗ gọi vô biên tướng hảo diệu trang nghiêm thân, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, chỗ gọi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Đối với các loại công đức thù thắng khác, tùy theo pháp tương ưng của chúng cũng lại như vậy.
Bạch Thế Tôn! Thế Tôn cũng do tu hành Bát Nhã, nên có năng lực tu tập, an trụ, viên mãn, đầy đủ công đức thù thắng, được sắc vô đẳng đẳng; thọ, tưởng, hành, thức vô đẳng đẳng, chứng Bồ đề vô đẳng đẳng, chuyển pháp luân vô đẳng đẳng. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cũng vậy.
Vì vậy, Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nào muốn đến bờ rốt ráo nhất thiết pháp thì nên tu tập Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều nên cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen các Bồ Tát tu hành Bát Nhã.
Bấy giờ, Phật bảo các đại đệ tử và các đại Bồ Tát:
Đúng vậy! Như lời các ông nói. Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều nên cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao? Vì nhờ đại Bồ Tát này, nên thế gian có trời, người xuất hiện, nghĩa là dòng họ Sát đế lợi, dòng họ Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ, Chuyển luân Thánh vương, trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Tha hóa tự tại. Trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh. Trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất hiện ở thế gian. Do đại Bồ Tát này, nên thế gian có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, chư Phật xuất hiện. Do đại Bồ Tát này, nên thế gian có các loại để sinh sống, vui chơi xuất hiện như: Thức ăn uống, y phục, đồ nằm, phòng, nhà, đèn đuốc, ngọc ma ni, chơn châu, lưu ly, vỏ ốc, ngọc bích, san hô, vàng bạc châu báu xuất hiện ở thế gian.
Tóm lại, tất cả thế gian, người vui, trời vui và xuất thế vui, không có gì mà không do đại Bồ Tát như thế mà có. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này tự mình bố thí rồi dạy người bố thí. Tự mình giữ giới rồi dạy người giữ giới. Tự mình nhẫn nhục rồi dạy người nhẫn nhục. Tự mình tinh tấn rồi dạy người tinh tấn. Tự mình tu định rồi dạy người tu định. Tự mình tu tuệ rồi dạy người tu tuệ. Vì vậy, do đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã này, tất cả hữu tình đều được lợi ích an vui.
Thích nghĩa:
(1). Quảng trong nghĩa quảng đại, rộng rãi, vô lượng.
(2). Xa ma tha: Chỉ.
(3). Đàm ma tha Ba la mật đa, nguyên văn chữ Hán cũng ghi như vậy: “曇đàm 摩ma 他tha 波Ba 羅La 蜜Mật 多Đa” là một trong các tam muội, nhưng danh từ này không được phổ thông lắm.
Lược giải:
Phẩm này tương đương với phẩm “Khen Thắng Đức”, đầu quyển 10, Hội thứ I, ĐBN: Đã thích nghĩa và lược giải xong, nên nay chỉ lược sơ về “tầm vóc” của việc tu học sáu pháp Ba la mật mà Phật tuyên dương trong pháp hội thứ II này. Bồ Tát nào tu học sáu đáo bỉ ngạn sẽ được xem làtối tôn, tối thắng, có đầy đủ oai lựchơn người. Vì sao? Vì theo Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ tư “Vãng Sanh”, tập 2, quyển 39, nói: “Sáu pháp Ba la mật nhiếp hết thảy các thiện pháp, nhiếp hết thảy pháp Thanh Văn, pháp Bích Chi Phật, pháp Bồ Tát và pháp Phật” đồng thời thành tựu năm nhãn, sáu thần thông. Nên có đủ sức phương tiên hóa độ chúng sanh.
Vì vậy, sáu pháp Ba la mật được xem là quảng đại, đệ nhất, tối thắng, vô thượng, vô thượng thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng, như hư không. Các pháp đáo bỉ ngạn vô đối, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô sanh không, vô diệt không, vô tánh không, hữu tánh không, vô tánh hữu tánh không. Vì được xem là vô đối, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không… nên mới thành tựu tất cả công đức, không thể bị khuất phục mà lại có thể khuất phục hay phá trừ tất cả các pháp khác mà không có pháp nào có thể phá trừ được nó. Tất cả pháp đáo bỉ ngạn… là hiện thân của tất cả Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Hiểu được “tận không” rồi thì được vô thúc, vô niệm, vô tâm mà chứng Thánh.
Vì vậy, tất cả chúng hội từ hàng Bồ Tát thượng thủ, hàng đệ tử Phật, cho đến Cư sĩ nam nữ, các Trời người, A tu la, người chẳng phải người… đồng thanh bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Thế Tôn cũng do tu hành Bát nhã Ba la mật, nên có năng lực tu tập, an trụ, viên mãn, đầy đủ công đức thù thắng, được sắc vô đẳng đẳng; thọ, tưởng, hành, thức vô đẳng đẳng, chứng Bồ đề vô đẳng đẳng, chuyển pháp luân vô đẳng đẳng. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cũng vậy”.
Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, đầy đủ bố thí vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tịnh giới vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, chỗ gọi vô biên tướng hảo diệu trang nghiêm thân, có thể đạtđến bờ rốt ráo nhất thiết phápvà chứng pháp vô đẳng đẳng, chỗ gọi Vô Thượng Bồ đề, không gì bằng.
Kinh mới nói: “Tóm lại, tất cả thế gian, người vui, trời vui và xuất thế vui, không có gì mà không do đại Bồ Tát như thế mà có. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này tự mình bố thí rồi dạy người bố thí. Tự mình giữ giới rồi dạy người giữ giới. Tự mình nhẫn nhục rồi dạy người nhẫn nhục. Tự mình tinh tấn rồi dạy người tinh tấn. Tự mình tu định rồi dạy người tu định. Tự mình tu tuệ rồi dạy người tu tuệ. Do đó, đại Bồ Tát tu hành Ba nhã Ba la mật này, tất cả hữu tình đều được lợi ích an vui”.
Do đó, Kinh bảo: Tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều nên cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật này./.
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi.
Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm.
Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông.
Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực.
Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.