Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Phẩm “Tùy Thuận” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

12/08/202021:16(Xem: 9400)
22. Phẩm “Tùy Thuận” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

2.22.Tuỳ Thuận-QT

 

PHẨM “TÙY THUẬN”
Phần giữa quyển 420, Hội thứ II. 

(Tương đương với phẩm “Tùy Thuận”(cùng một tên),

phần giữa quyển 61, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước




 

 

Gợi ý:

Phẩm “Tùy Thuận” của Hội thứ II, ĐBN so với phẩm “Hội Tông” (Hội Các Tông Chỉ) của Kinh MHBNBLMĐ giống nhau như hai giọt nước. Phẩm tựa có khác nhưng nội dung không khác. Quý vị độc giả có thể đọc song song với Hội này để hiểu rõ vấn đề hơn, nếu muốn.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Cụ thọ Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây, Như Lai bảo Tôn giả Thiện Hiện thuyết giảng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát mà sao hôm nay lại nói đến Đại thừa?

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây con đã nói các nghĩa của Đại thừa nhưng đâu có trái vượt với Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Trước đây ông đã thuyết giảng các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tuỳ thuận, không trái vượt với Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc Như Lai pháp. Như vậy, tất cả không có pháp nào là không thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm này.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc Như Lai đều thâu nhiếp vào trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm này.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hoặc sáu Ba la mật, hoặc ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả. Thiện Hiện! Tất cả các thiện pháp như vậy, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc Như Lai pháp, tất cả đều thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm này.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hoặc Đại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc 12 xứ, 18 giới, hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc ba mươi bảy Bồ đề phần pháp; hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc pháp thiện, hoặc pháp chẳng thiện, hoặc pháp hữu ký, hoặc pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi; hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian; hoặc Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc Dục giới, hoặc Sắc, Vô sắc giới; hoặc 18 pháp không (từ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh); hoặc pháp giới, hoặc chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... hoặc các Đà la ni, hoặc Tam ma địa, hoặc Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chư Như Lai pháp, hoặc pháp luật của Phật giác ngộ nói ra; hoặc Bồ đề, hoặc Niết bàn. Tất cả pháp như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận, không trái vượt với Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Đại thừa không khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật không khác Đại thừa. Đại thừa không khác tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát Nhã, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, tánh đó không hai, không hai phần.

Này Thiện Hiện! Đại thừa không khác 37 Bồ đề phần pháp, 37 Bồ đề phần pháp không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc ba mươi bảy Bồ đề phần pháp tánh đó không hai, không hai phần. Đại thừa cho đến Phật mười lực không khác, Phật mười lực không khác Đại thừa. Đại thừa không khác bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh đó không hai, không hai phần.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận không trái vượt Bát nhã Ba la mật. Nói Đại thừa tức là nói Bát nhã Ba la mật, nói Bát nhã Ba la mật tức là nói Đại thừa, bởi hai danh nghĩa này không khác vậy.

 

Lược giải:

 

Phẩm “Tùy Thuận” của Hội thứ II, này nằm trong câu nói của Phật: “Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận, không trái vượt với Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Đại thừa không khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật không khác Đại thừa. Đại thừa không khác tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát Nhã, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, tánh đó không hai, không hai phần”.

Trong câu nói này, Phật lấy sáu pháp Ba la mật để so sánh với Đại thừa: Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát Nhã, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, tánh đó không hai, không hai phần”.

Điều đó có nghĩa Đại thừa và lục Ba la mật” chỉ là một. Nên nói không hai không khác. Đó gọi là tương ưng hay tùy thuận không trái ngược nhau. Phẩm trước Phật so sánh Địa thừa với hư không. Phẩm này Phật so sánh Đại thừa với Bát nhã Ba la mật. Chúng ta có thể nói Bát Nhã có đặc tánh gì thì Đại thừa có đặc tánh đó hay ngược lại.

Đại thừa như hư không, Bát nhã Ba la mật cũng như hư không; Đại thừa nhiếp thọ tất cả pháp, Bát nhã Ba la mật cũng nhiếp thọ tất cả pháp; Đại thừa dung nạp tất cả hữu tình, Bát Nhã cũng dung nạp tất cả hữu tình, nên nói Đại thừa không khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật không khác Đại thừa, tánh đó không hai không khác, nên nói cả hai tùy thuận hay tương ưng với nhau.

Phẩm “Tùy Thuận”, quyển 61, Hội thứ I, ĐBN nói rằng:

“Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại thừa, hoặc Bát Nhã, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; hoặc sắc, hoặc thọ tưởng hành thức, hoặc 12 xứ, 18 giới; hoặc bốn Thánh đế; 12 duyên khởi; hoặc Dục, Sắc, Vô sắc giới; hoặc pháp thiện, pháp phi thiện; hoặc pháp hữu ký, vô ký; hoặc pháp hữu lậu, vô lậu; hoặc pháp hữu vi, vô vi; hoặc pháp thế gian, xuất thế gian; hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc 37 pháp trợ đạo; hoặc tam giải thoát môn; hoặc năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông; hoặc Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; hoặc các đức Như Lai, hoặc pháp mà đức Phật đã giác ngộ đã nói; hoặc 18 pháp không; hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn (nói khác là tất cả pháp Phật), tất cả các pháp như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng phải tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, vừa rồi, ông nói Đại thừa đối với Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái, vượt qua. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại thừa chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật, tánh nó không hai, vì không có hai phần”.

Phẩm “Tùy Thuận” của Hội thứ I còn nói thêm rằng không những lục Ba la mật mà tất cả Phật pháp, tất cả pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ Tát hay còn gọi là Bồ Tát đạo đều tương ưng với Đại thừa. Vì vậy, Kinh mới nói hoặc Đại thừa hoặc Bát Nhã hoặc tất cả pháp mầu Phật đạo không hai, không khác. Tất cả đều tương ưng, chẳng xa lìa nhau.

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 24, “Hội Tông” (Hội Các Tông Chỉ), tập 3, quyển 32, giải thích toàn bộ phẩm này như sau:

“Theo như ý Kinh ở trên đây thì ngài Phú Lâu Na chẳng còn có tâm nghi. Thế nhưng vì hạng người mới học Bát nhã Ba la mật, chỉ phân biệt các pháp theo danh tự mà chưa rõ nghĩa “không”, nên ngài Phú Lâu Na phải vì họ mà nêu câu hỏi. Ngài Tu Bồ Đề dựa nơi chỗ hỏi của ngài Phú Lâu Na mà bạch Phật, để thỉnh Phật giảng rộng thêm.

 

--o0o--

 

Phật bảo ngài Tu Bồ Đề rằng: Đúng như lời ông nói, Ma Ha Diễn (Đại thừa) tùy thuận Bát nhã Ba la mật, chẳng khác Bát nhã Ba la mật, chẳng ly Bát nhã Ba la mật.

Phật vì tùy thuận chúng sanh mà nói ba thừa đạo, nhưng hết thảy thiện pháp của ba thừa đạo đều nhiếp trọn vào trong Bát nhã Ba la mật, và đều dẫn đến Niết Bàn cả.

Muốn vào Niết Bàn, phải tu ba giải thoát môn (không, vô tướng và vô tác), nên nói ba giải thoát môn là cộng pháp của cả ba thừa đạo. Hành giả do trì giới, mà sanh thiền định; do thiền định mà sanh trí huệ; và khi được trí huệ viên mãn rồi, thì chẳng còn chấp thế gian nữa.

Hỏi: Vì sao nói ba thừa đạo pháp đều là trợ đao pháp, và đều nhiếp vào trong Bát nhã Ba la mật cả?

Đáp: Vì Bồ Tát hành đầy đủ các thiện pháp, mà chẳng hề chấp các thiện pháp ấy, Bồ Tát thường tu hạnh xả, nên chẳng còn chấp các pháp tướng vậy.

Nên biết rằng ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo và ba giải thoát môn là cộng pháp của cả ba thừa. Còn sáu pháp Ba la mật là pháp của Bồ Tát; mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại trí, đại từ, đại bi… mười tám bất cộng pháp thường dẫn đến hành xả, là pháp của Phật.

 

--o0o--

 

Có thuyết nói rằng tu sáu pháp Ba la mật có hai trường hợp:

- Đầy đủ (cụ túc) Ba la mật.

- Chưa đầy đủ (chưa cụ tức) Ba la mật.

Đầy đủ Ba la mật là pháp Bồ Tát; chưa đầy đủ Ba la mật là pháp Nhị Thừa.

Lại có thuyết nói Ma Ha Diễn là tánh không, Bát nhã Ba la mật cũng là tánh không. Bởi vậy nên hai pháp này là chẳng phải hai, chẳng phải khác.

Ngài Tu Bồ Đề nói về Ma Ha Diễn là tùy thuận Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật cũng như năm Bát nhã Ba la mật kia đều là tánh không, nên Ma Ha Diễn cũng là tánh không. Dẫn đến pháp như, pháp tánh, thật tế, bất khả tư nghì tánh, Niết Bàn tánh cũng đều là như vậy cả.

Lại nữa, chư đại Bồ Tát, khi hành Ma Ha Diễn, đã dùng lực phương tiện Bát nhã Ba la mật để tu các thiện pháp nhằm dẫn đến đạo Niết Bàn, mà vẫn biết rõ các pháp ấy đều chẳng có hợp, chẳng có tan, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối… vì đều chỉ là một tướng (nhất tướng), là chẳng có tướng (vô tướng) vậy”.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói Ma ha diễn tức là Bát nhã Ba la mật, vì hai pháp này chẳng phải hai, chẳng phải khác.

 

---o0o---  

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2012(Xem: 9046)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
25/12/2011(Xem: 11563)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 9535)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 18915)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 8356)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 10576)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 9512)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 12343)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 13430)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]