Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Phẩm “Giáo Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

19/06/202008:01(Xem: 9843)
24. Phẩm “Giáo Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 
Phẩm Giáo Thọ_CS Thiện Bửu_ Quảng Tịnh_photo

PHẨM “GIÁO THỌ”

 

Phần sau quyển 82 cho đến phần đầu quyển 84, Hội thứ I, ĐBN.

(Có thể nói phẩm này tương đương với phần sau quyển thứ 09,

phẩm “Ảo Nhân Thỉnh Pháp”, MHBNBLM)

Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước




 

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử, cụ thọ Đại Mục Liên, cụ thọ Chấp Đại Tạng, cụ thọ Mãn Từ Tử, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Ca Diếp Ba v.v… chư đại Thanh văn và vô lượng trăm ngàn đại Bồ Tát cùng lúc hỏi Thiện Hiện: Đã nói Bát nhã Ba la mật là thâm sâu khó thấy, khó biết, là đối tượng nghiên cứu, siêu vượt, vi diệu, tịch tịnh tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc cực Thánh mới tự nội chứng, chẳng phải người có tri thức thường tục có thể suy lường. Đối với pháp như vậy ai là người có khả năng tín thọ?

Cụ thọ Thiện Tiện đáp: Thưa quý vị có ba hạng người có thể tín thọ là: 1. Đại Bồ Tát bất thối, 2. Người đã thấy Thánh đế hay các lậu tận A La hán; 3. Các thiện nam tín nữ đã từng thân cận cung kính cúng dường vô lượng vô số chư Phật hay người đã phát thệ rộng lớn, gieo trồng căn lành, trí năng thông tuệ. Đó là những người có khả năng tín thọ Bát nhã Ba la mật. Vì những người như vậy hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt viễn ly, bất viễn ly. (Q.82, ĐBN)

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, mười tám pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế…, Ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao; cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật nói trên để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt tất cả pháp Phật; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt phàm phu và pháp của bậc phàm phu; Bồ Tát thập địa và pháp của bậc Bồ Tát thập địa; Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa và pháp của Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa; cũng không phân biệt cảnh hữu vi với vô vi là không hay bất không, là hữu tướng hay vô tướng v.v…, và cũng chẳng lấy không, bất không, lấy hữu tướng, vô tướng phân biệt Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa và pháp của Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa v.v…

Như vậy, Bát nhã Ba la mật đã nói là pháp sâu xa khó thấy, khó biết, là siêu vượt, vi diệu, tịch tịnh, tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc cực Thánh tự nội chứng, kẻ tri thức thế gian chẳng có thể suy lường; trong đó, thật không có kẻ có khả năng tín thọ. Vì sao? Vì trong đó, không có pháp có thể hiển thị, vì không có pháp có thể hiển thị nên kẻ thật tín thọ cũng chẳng thể nắm bắt được.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát nhã Ba la mật này, rộng nói giáo pháp ba thừa, đó là pháp của Thanh văn, Độc giác, Vô thượng thừa, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo. Đó là bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; hoặc cái không nội, cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế v.v…; hoặc tứ Thánh đế; hoặc tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định; 37 pháp trợ đạo; hoặc tam giải thoát môn; hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; nghĩa là rộng nói là tất cả pháp Phật bao gồm các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra thường thọ hóa sanh, không mất thần thông, có thể dạo chơi tự tại, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, tùy theo sở nguyện, ưa gieo trồng thiện căn, mau được viên mãn, ở chỗ các đức Phật nghe và thọ trì chánh pháp cho đến chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thường không quên mất cũng không biếng bỏ, thường trụ định thù thắng, xa lìa tâm tán loạn; do duyên này, nên được các biện tài vô ngại, biện tài không chấm dứt, biện tài không sai lầm, biện tài nhạy bén, biện tài thích ứng, biện tài có nghĩa lý phong phú ý vị khi diễn thuyết, biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.

Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói, ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, rộng nói pháp ba thừa; rộng nói Bồ Tát đạo, đó là bố thí Ba la mật cho đến tất cả pháp môn Tam ma địa; nghĩa là rộng nói tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra thường hóa sanh cho đến đắc biện tài tối thắng vi diệu trong tất cả thế gian. Giáo pháp thậm thâm như vậy, hễ có nói thì phải lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử hỏi: Pháp này (Bát Nhã) đối với pháp nào, lấy vô sở đắc làm phương tiện?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Pháp này đối với ngã lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng cho đến cái biết, cái thấy lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với sắc, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với thọ, tưởng, hành, thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Pháp này đối với mười hai xứ, mười tám giới hay nói rộng pháp này đối với tất cả pháp Phật lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói giáo pháp ba thừa? Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo, đó là bố thí Ba la mật cho đến tất cả pháp môn Tam ma địa? Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát? Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh cho đến được biện tài thù thắng tối diệu trong tất cả thế gian?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Do cái không nội nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp ba thừa. Do cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cho đến cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp ba thừa.

Xá Lợi Tử! Do cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo từ bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế v.v… cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc tứ Thánh đế, 12 nhân duyên; hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa.

Xá Lợi Tử! Do cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo, rộng nói bao gồm tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này, siêng năng tu hành, nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh cho đến được biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.

(Nói cách khác, là do hiểu biết sâu xa 18 pháp không này, Bồ Tát siêng năng tu hành tất cả pháp Phật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên tùy nơi sanh thường hóa sanh, luôn luôn được biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian).

 

Lược giải:

 

Phẩm này đặc biệt nói về ý thức phân biệt và hậu quả của nó. Có phân biệt là có chia chẻ, phân hóa. Có chia chẻ phân hóa nên rơi vào nhị nguyên đối đãi: Không-bất không, hữu tướng-vô tướng, hữu nguyện -vô nguyện v.v… Pháp Phật là pháp môn bất nhị! Vì vậy, chỉ những bậc cực Thánh, những La Hán lậu tận, những vị thường gần gũi, phụng sự cung kính cúng dường vô số vô biên chư Phật, siêng năng tu học chánh pháp mới có thể nhập Bát Nhã Tánh không và nhờ đó vào được đệ nhất nghĩa đế, rồi sống với nó thấy tất cả pháp đều bình đẳng, không còn chấp đắm nữa mới sanh trí tuệ mà có Bát Nhã Trí, Vô Phân Biệt Trí, Vô Trước Trí.

Tu Bát nhã Ba la mật muốn đắc Bát Nhã Trí, Vô Phân Biệt Trí, Vô Trước Trí phải lìa phân biệt, vì phân biệt đưa tới chấp trước! Phân biệt không đáng trách. Đáng trách chính là chấp trước. Chấp trước đi liền với phân biệt. Ở đâu có phân biệt thì ở đó có chấp trước hay ngược lại.

Ai là người phân biệt giỏi nhất thế gian, phải nói là Phật. Nhưng tại sao Phật phân biệt giỏi nhất mà thành bậc Thiên nhân sư. Còn chúng sanh lúc nào cũng phân biệt mà vẫn bị trầm luân khổ ải nhiều kiếp. Bởi vì, Phật và Bồ Tát sống trong phân biệt nhưng không phân biệt, không dính mắc! Có dính mắc là có quái ngại. Sống trong phân biệt mà không biệt, không dính mắc mới thật là khó!

Phẩm này một lần nữa khuyên hành giả Bát Nhã: Muốn tín thọ được Bát nhã Ba la mật, muốn được tất cả biện tài thù thắng tối diệu đối với thế gian, muốn được bậc hóa sanh phải lấy vô sở đắc làm phương tiện, lấy vô chấp, vô thủ, vô trụ, vô phân biệt mà tịnh tu các thiện pháp.

 

Đó là lời khuyên, lời dặn dò của người dạy bảo trao truyền Bát nhã Ba la mật tạm gọi là Giáo thọ. Vì vậy, phẩm này mới có tên là Giáo thọ./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2012(Xem: 9092)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
25/12/2011(Xem: 11816)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 9584)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 19303)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 8428)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 10888)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 9620)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 12552)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 13518)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]