Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Thứ IX

26/02/202110:00(Xem: 7760)
Hội Thứ IX

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

 

 

HỘI THỨ IX.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

(bố cục) 

 

9. Hội thứ IX: “Năng Đoạn Kim Cương” phần, 1 quyển. Tương đương với Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạm:Vajracchedikàprajĩàpàramità) tiếng Phạm. Nội dung đức Phật nói về việc phát tâm hướng tới Bồ Tát thừa, tu hành theo Bát Nhã và phương pháp nhiếp phục tâm cho tôn giả Thiện Hiện (Tu Bồ Đề) nghe. Các Kinh: Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật 1 quyển do các Ngài: Cưu ma La thập đời Diêu Tần, Bồ đề Lưu chi đời Nguyên Ngụy và Ngài Chân Đế đời Trần dịch, Kinh Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật 1 quyển, do Ngài Cấp Đa dịch vào đời Tùy và Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa 1 quyển, do Ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời Đường v.v... đều là đồng bản của hội này. Pháp Uyển Châu lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói bản tiếng Phạm của hội này có 300 kệ tụng.

 

---o0o---

 

 

“KIM CƯƠNG NĂNG ĐOẠN” PHẦN hay

KIM CƯƠNG BÁT NHÃ BA LA MẬT. 

(Quyển 577, Hội thứ IX, ĐBN)

 

Dẫn nhập:

 

Như trên có sơ thuật trong phần bố cục của Kinh ĐBN, tức trước và sau Ngài Huyền Trang tổng cộng có năm Bản Kinh Kim Cương xuất hiện đồng với Hội thứ IX này. Đó là:

1. Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, do Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajiva) dịch tại chùa Thảo Đường tại Trường An, đầu thế kỷ thứ V, tức năm 402 Tây lịch, thuộc đời Diêu Tần, ghi trong Đại tạng Kinh mang số 0235;

2. Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, do Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci) dịch, vào đời Nguyên Ngụy, đầu thế kỷ VI, tức vào khoảng 508 Tây lịch, Đại tạng Kinh, mang số 0235a và số 0236b;

3. Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, do Ngài Ba La Mật Đà (Paramàrtha), người Tàu gọi là Chân Đế dịch vào đời Trần, khoảng giữa thế kỷ thứ VI, Đại tạng Kinh mang số 0237;

4. Kinh Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, do Ngài Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta) dịch vào đời Tùy, khoảng cuối thế kỷ thứ VI hay đầu thế kỷ thứ VII, Đại tạng Kinh mang số 0238;

5. Kinh Phật Thuyết Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa, 1 quyển, do Ngài Nghĩa Tịnh đi Ấn Độ mang bản chữ Phạn về và dịch vào đời Đường, đầu thế kỷ thứ VIII, sau Ngài Huyền Trang, Đại tạng Kinh mang số 0239.

Như chúng tôi lưu ý trong bố cục của Kinh Đại Bát Nhã, do Ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường, khoảng giữa thế kỷ thứ VII: Trong 600 quyển của Kinh ĐBN thì chỉ có 481 quyển ở các Hội thứ 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15 và 16 (9 Hội) là do chính nhóm của Ngài Huyền Trang dịch, 119 quyển còn lại thuộc các hội thứ: 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 (7 hội) đã có các vị đi trước dịch rồi và nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ sao lại thôi. Hội thứ IX, chỉ có 1 quyển lấy tên là “Kim Cương Năng Đoạn” phần được nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại ở Q.577, ĐBN.

“Kim Cương Năng Đoạn” phần, nguyên tác văn từ thông suốt từ trên xuống dưới một mạch, không có phân đoạn. Về sau, Thái Tử Chiêu Minh chia kinh này làm 32 đoạn và đặt tên cho mỗi đoạn riêng rẽ để tiện việc kiến giảitu học. Các nhà kiến giải sau này rất tán dương lối phân đoạn và cách định danh các phân đoạn này và ghi lại trong các tác phẩm của họ hoặc thêm bớt chút đỉnh. Tiếc thay con người tài hoa nhưng bạc mệnh, Thái tử hưởng thọ chỉ có 31 tuổi đời.

Cũng nên nói trước, đây là một quyển kinh đặc biệt trong số 600 quyển ĐBN. Đặc biệt vì chỉ một quyển kinh nhỏ mà có thể diễn đạt đầy đủ về danh, thể, tông, tướng, dụng cũng như hầu hết giáo lý của Hệ Bát Nhã:

1. Danh: Kim Cương là dụ, Bát Nhã Ba La Mật là pháp.  Đây lấy thí dụ và pháp để lập danh;

2. Thể: Lấy kim cương để thí dụ về văn tự và quán chiếu Bát Nhã của kinh này. Chính vì kim cương là một khoáng chất cứng rắn có thể chặt đứt phiền não, sanh thật tướng. Ba chữ này là thể chủ yếu của Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật;

3. Tông: Tôn chỉ duy nhất của kinh này ở hai chữ vô trụ, tức quán, giải, hành, môn của kinh này đều nằm hết trong hai chữ đó;

4. Tướng: Phật thuyết kinh này vì muốn khai ngộ Như Lai trí tuệ giác tánh của chúng sanh vốn sẵn có, nhưng vì chúng sanh “hợp trần nên bội giác” mà kinh này là vô lượng thậm thâm pháp bảo để duy trì Phật chủng, truyền thụ tâm ấn. Chỉ riêng điểm này cũng đủ chứng tỏ Kinh này giáo phán cực viên cực đốn. Vậy, có thể nói kinh này lấy Đại thừa Viên và Đốn làm giáo tướng. Hết thảy các giáo nghĩa: Tạng, thông, biệt, viên, tiểu, thỉ, chung, đốn đều nhất loạt nhiếp hết;

5. Dụng: Là công dụng. Tu mà có tôn chỉ đàng hoàn tất sẽ đem lại diệu dụng. Diệu dụng không có chi khác là đoạn trừ chấp trước hư vọng. Kinh từ đầu tới cuối phá chấp triệt để cốt bứng gốc rễ của phiền não và sở tri để chúng sanh được an vui tự tại.

 

---o0o---

 

Gợi ý:

Để chiết giải Hội này chúng tôi chia Kinh làm hai phần chính:

- Phần thứ I: Trình bày chính văn của Kinh, tức viết lại toàn bộ chánh văn “Kinh Cương Năng Đoạn Phần”. Nhưng chúng tôi chia Kinh làm nhiều phân đoạn và mỗi phân đoạn đặt tên riêng tùy theo nội dung của từng giáo lý như công việc của Thái tử Chiêu Minh đã làm; và

- Phần thứ II: Chiết giải từng phân đoạn từ đầu cho đến hết quyển 577 để Quý vị độc giả dễ theo dõi, dễ nắm các giáo lý Phật thuyết trong toàn thể Hội này.

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2012(Xem: 9092)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
25/12/2011(Xem: 11816)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 9584)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 19303)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 8428)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 10888)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 9620)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 12552)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 13518)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]