Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

28. Phẩm “Trao Ký” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

15/08/202009:33(Xem: 7609)
28. Phẩm “Trao Ký” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


Phẩm Trao Ký_QT

 

PHẨM “TRAO KÝ” (1)

Phần đầu quyển 427, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phần đầu phẩm “Nhiếp Thọ”, tức cuối Q.99

cho đến hết Q.100, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước


 


 

 

Gợi ý:

Phẩm “Trao Ký” của hội thứ II, ĐBN, tương đương với phẩm “Tam Thán” của Kinh MHBNBLMĐ. Hai phẩm rất đồng nhau.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ trong chúng, chư Thiên cõi Dục như Thiên Đế Thích… chư Thiên cõi Sắc như Phạm Thiên Vương… và các Thiên nữ, Thần Tiên Y xá na(1) đồng thời ba phen khen ngợi cụ thọ Thiện Hiện: Tôn giả Thiện Hiện dùng oai lực Phật làm chỗ nương, khéo vì chúng con phân biệt khai thị Bát Nhã thậm thâm. Phật xuất hiện thế gian là do pháp yếu Vô thượng. Nếu Bồ Tát năng đối kinh Bát Nhã thậm thâm, như thuyết tu hành, chẳng xa lìa ấy, chúng con đối với các Bồ Tát ấy tôn thờ như Phật. Vì sao? Vì trong Bát Nhã đây không pháp khá được. Chỗ gọi trong đây không sắc khá được, không thọ tưởng hành thức khá được. Như vậy cho đến không Nhất thiết trí khá được; không Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khá được. Tuy không có các pháp như thế để được, nhưng vẫn thi thiết Thánh giáo Tam thừa là Thanh văn, Độc giáo, Vô thượng thừa.

Bấy giờ, Phật bảo các chư thiên rằng:

- Như vậy! Như các ngươi đã nói. Đối với Bát Nhã, tuy không có các pháp như sắc… khá được, nhưng vẫn thi thiết Thánh giáo Tam thừa. Nếu Bồ Tát đối Bát Nhã đây, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, năng như thuyết tu hành, chẳng xa lìa, chư thiên các ngươi nên tôn thờ như các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì Bát Nhã, tuy có Thánh giáo Tam thừa song nói chẳng tức bố thí Ba la mật Như Lai khá được, chẳng ly bố thí Ba la mật Như Lai khá được. Cho đến chẳng tức Bát Nhã Như Lai khá được, chẳng ly Bát Nhã Như Lai khá được. Chẳng tức nội không Như Lai khá được, chẳng ly nội không Như Lai khá được. Cho đến chẳng tức vô tánh tự tánh không Như Lai khá được, chẳng ly vô tánh tự tánh không Như Lai khá được. Chẳng tức bốn niệm trụ Như Lai khá được, chẳng ly bốn niệm trụ Như Lai khá được. Nói rộng cho đến chẳng tức mười tám pháp Phật bất cộng Như Lai khá được, chẳng ly mười tám pháp Phật bất cộng Như Lai khá được. Như vậy cho đến chẳng tức Nhất thiết trí Như Lai khá được, chẳng ly Nhất thiết trí Như Lai khá được. Chẳng tức Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí Như Lai khá được; chẳng ly Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí Như Lai khá được.

Các chư thiên! Nếu Bồ Tát Ma ha tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tinh siêng tu học bố thí Ba la mật như thế, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, Bồ Tát này đối Bát nhã Ba la mật đây, năng siêng tu hành thường chẳng lìa bỏ. Vậy nên các ngươi cần phải tôn thờ Bồ Tát này như các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Các chư thiên! Phải biết Ta ở thời Phật Nhiên Đăng thuở xa xưa, nơi thành Chúng Hoa, đầu ngã tư đường, thấy Phật Nhiên Đăng hiến năm hoa sen, trải tóc che bùn, cầu nghe pháp thượng diệu. Vì Ta lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên chẳng lìa bố thí Ba la mật cho đến Bát Nhã; chẳng lìa nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng lìa 4 niệm trụ cho đến 8 Thánh đạo chi; chẳng lìa 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 vô sắc định; chẳng lìa tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn; chẳng lìa Phật mười lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng; chẳng lìa vô lượng, vô số, vô biên các Phật pháp khác. Khi ấy, Phật Nhiên Đăng liền trao ký Vô thượng Chánh đẳng Đại Bồ đề cho Ta, và nói: “Thiện nam tử! Ngươi ở đời sau qua vô số kiếp, tức ở cõi đây trong thời Hiền kiếp sẽ được làm Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuyên nói Bát Nhã cho vô lượng chúng”.

Khi ấy, các chư thiên đều thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Hiếm có. Bạch Thiện Thệ! Hiếm có. Bát nhã Ba la mật như thế rất là hiếm có. Khiến chúng Bồ Tát chóng nhiếp thọ Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối tất cả sắc không lấy không bỏ, đối thọ tưởng hành thức không lấy không bỏ. Cho đến đối Nhất thiết trí không lấy không bỏ; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không lấy không bỏ.

Bấy giờ, Phật thấy bốn chúng hòa hợp là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ và các Bồ Tát, cùng Bốn đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều đến nhóm hội, đồng làm minh chứng. Lúc ấy Phật nhìn Thiên Đế Thích phán rằng:

- Kiều Thi Ca! Hoặc Bồ Tát, hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ, hoặc các Thiên tử, Thiên nữ, hoặc các thiện nam, thiện nữ… chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đây cung kính lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, vì người diễn nói, rộng khiến lưu bố. Phải biết hạng này, tất cả ác ma và quân ác ma chẳng nhiễu hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các thiện nam, thiện nữ này khéo trụ sắc không, vô tướng, vô nguyện; khéo trụ thọ tưởng hành thức không, vô tướng, vô nguyện. Như vậy cho đến khéo trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không, vô tướng, vô nguyện. Chẳng thể đem không để phá hại không, chẳng thể đem vô tướng phá hại vô tướng, chẳng thể đem vô nguyện phá hại vô nguyện. Vì sao? Các pháp như thế đều không tự tánh, năng sở phá hại đều chẳng khá được.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ, người phi người chẳng bị nhiễu hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này đem vô sở đắc làm phương tiện, đối các hữu tình khéo tu tâm từ bi hỷ xả vậy. Các thiện nam, thiện nữ này trọn chẳng bị các hiểm nguy làm não hại, cũng chẳng bị hoạnh tử. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tu hành bố thí Ba la mật, chính đem an lạc lợi dưỡng ban cho tất cả hữu tình vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ở Tam thiên đại thiên thế giới đây có bao trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Quảng quả, kẻ đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, đối Bát nhã Ba la mật đây, nếu chưa lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thời chẳng nên lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát Nhã đây, hết lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý.

Bấy giờ, ở Tam thiên đại thiên thế giới Kham Nhẫn này có bao trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh… cung kính chấp tay đồng thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, thường năng đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Chư thiên chúng con thường theo bảo hộ chẳng để cho tất cả tai hoạnh não hại. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Các thiện nam thiện nữ này tức là đại Bồ Tát vậy.

Bạch Thế Tôn! Do đại Bồ Tát này nên khiến các hữu tình dứt hẳn: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la. Do đại Bồ Tát này nên khiến các trời, người, dược xoa, rồng thảy lìa hẳn tất cả khổ hoạnh, tật dịch, bần cùng, đói khát, lạnh nóng. Do đại Bồ Tát này nên khiến các trời, người, A tu la thảy lìa hẳn các sự việc bất như ý; ở nơi chỗ nào không có chiến tranh, tất cả hữu tình thương mến lẫn nhau. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, hoặc bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không, hoặc bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cho đến hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Bạch Thế Tôn! Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ, các tiểu Quốc vương, chuyển luân Thánh vương, phụ thần quan liêu giúp nước. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có các trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng cho đến trời sắc cứu cánh, trời Không vô biên xứ cho đến trời phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có Dự lưu và quả Dự lưu, cho đến A la hán và quả A la hán, hoặc Độc giác và Độc giác Bồ đề. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có các Bồ Tát thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có Phật bảo, Pháp bảo, Bí sô Tăng bảo, lợi ích an vui tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên đây, Thiên chúng chúng con và A tu la, các rồng, dược xoa cùng người, phi người… có thế lực lớn, thường theo dõi cung kính bảo hộ các đại Bồ Tát đây, chẳng cho tất cả tai hoạnh não hại, khiến đối Bát nhã Ba la mật lóng nghe thọ trì, đọc tụng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả thường không gián đoạn.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiên Đế Thích và các thiên, long, A tu la… rằng:

- Như vậy, như vậy. Như lời các ngươi đã nói. Do đại Bồ Tát này nên khiến các hữu tình dứt hẳn ác thú, cho đến Tam Bảo xuất hiện thế gian cùng các hữu tình làm đại nhiêu ích. Vậy nên các ngươi chư thiên long thần và người, phi người có thế lực lớn, thường nên theo dõi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ Bồ Tát này, chớ cho tất cả tai hoạnh não hại. Các ngươi nếu năng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, cần bảo hộ các Bồ Tát này, phải biết tức là cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ Ta và 10 phương tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vậy nên các ngươi thường nên theo dõi Bồ Tát này, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ chớ được nới bỏ.

Các ông nên biết: Giả sử Tam thiên đại thiên thế giới chư Phật đầy rẫy Thanh văn, Độc giác nhiều như mía, lau, lách, tre, rừng, lúa, mè, lùm, bụi… không trống hở, có các thiện nam, thiện nữ đối với ruộng phước kia, đem vô lượng các th vi diệu nhất, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen trọn cả cuộc đời. Lại có người trong chừng giây lát cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen một Bồ Tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu Ba la mật. Đem công đức trước sánh nhóm phước sau trăm phần chẳng kịp một, ngàn phần chẳng kịp một. Vì sao? Vì chẳng do Thanh văn và Độc giác nên có Bồ Tát và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác xuất hiện ở đời, nhưng do Bồ Tát nên thế gian mới có Thanh văn, Độc giác và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vậy nên, các ngươi tất cả thiên, long và A tu la, người, phi người… thường nên thủ hộ cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen đại Bồ Tát này, chớ cho tất cả tai hoạnh não hại. Các ngươi do đây sẽ được nhóm phước ở trong người trời thường được an vui. Cho đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phước đã được đây hằng không dứt diệt.

 

Thích nghĩa:

 (1). Y xá na: Chư thiên trong cõi trời Dục giới thứ sáu.

 

Sơ giải:

 

Đức Thế Tôn thuật lại việc Thế Tôn lấy vô sở đắc làm phương tiện tu hành Bát Nhã cùng vô lượng vô biên các pháp Phật khác, nên được Phật Nhiên Đăng trao ký tại thành Chúng Hoa. Đối với các Bồ Tát siêng tu tập tất cả các thiện pháp nhất là lục Ba la mật, lóng nghe, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, thơ tả thường không gián đoạn. Thế Tôn sẽ trao ký cho những Bồ Tát nào cũng hướng đến Nhất thiết chủng trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện tu hành Bát nhã Ba la mật. Đồng thời Thế Tôn nhắn nhủ tất cả Thiên chúng, A tu la, các rồng, dược xoa, trời người, phi người thường theo dõi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ các Bồ Tát này, như bảo hộ Thế Tôn.

Các Bồ Tát này là ruộng phước của tất cả trời người… Vì sao? Vì nhờ có Bồ Tát này mà thế gian có nhiều phúc lợi. Nhờ Bồ Tát này mà có tất cả thiện pháp xuất hiện trên thế gian, có các dòng đại tộc, có các Thanh văn, Độc giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác… Vì các duyên cớ đó, Thế Tôn trao ký. Các thiên chúng trời, rồng, A tu la v.v… nên theo dõi và bảo hộ các đại Bồ Tát thọ trì Kinh này.

 

Phẩm này ai đọc cũng có thể hiểu, nên không cần giải thích dong dài. Trong Đại trí Độ Luận có một đoạn nói về Bát nhã Ba la mật rất đáng lưu ý. Nên trích ra đây để cùng học:

“Kinh nói: Nếu trong đại thiên thế giới, có vị Thiên Tử nào đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, mà chưa nghe Bát Nhã Ba La Mật, thì nay phải nghe, phải thọ trì, phải chánh ức niệm, phải tu tập, thì mới có được đại công đức.

Lời kinh trên đây cho thấy rằng, khi đã phát Vô Thượng Bồ Đề Tâm, thì phải nghe, phải thọ trì Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật, thì mới vào được Phật đạo. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là nền tảng của Phật đạo vậy”./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2012(Xem: 8410)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua. Nội dung chủ yếu nói về nhân cách của bậc Đạo sư, giáo pháp của Ngài và lợi ích thiết thực khi thực hiện những lời dạy ấy. Tất cả các bài viết được trình bày một cách giản dị, mạnh lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu nội dung Phật học cơ bản được trích dẫn từ một số kinh điển Bắc truyền và Nam truyền.
25/12/2011(Xem: 9198)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 8485)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 15850)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 7648)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 7816)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 8588)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 9945)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 12332)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567