Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Phẩm “Thắng Ý Lạc”

08/01/202107:54(Xem: 9327)
20. Phẩm “Thắng Ý Lạc”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-526

 

XX. PHẨM “THẮNG Ý LẠC”

Phần đầu quyển 564, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

Quyển thứ 564

 

(Ai là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát với ý muốn thù thắng, cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì thường nên gần gũi cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi bạn lành chơn tịnh.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những ai là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Chư Phật đều là bạn lành của Bồ Tát. Nếu người nào có thể tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa, dạy bảo truyền trao cho các chúng Bồ Tát, làm cho ngộ nhập pháp môn sâu xa Bát nhã Ba la mật, cũng được gọi là bạn lành của Bồ Tát. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nên biết cũng là bạn lành của Bồ Tát. Như vậy, sáu pháp Ba la mật là thầy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là bó đuốc, là sự rực rỡ, là sự sáng soi, là nhà cửa, là sự hộ trì, là chỗ quay về, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cồn bãi, là cha lành, là mẹ hiền của các Bồ Tát. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương sáu pháp Ba la mật mà được thành tựu sự nghiệp công đức. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật như thế có khả năng thu nhiếp, hộ trì khắp tất cả Phật pháp.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên học sáu pháp Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát muốn học sáu pháp Ba la mật thì nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, quán sát nghĩa lý, kinh điển Bát Nhã sâu xa, cầu xin xác quyết điều nghi ngờ. Vì sao? Vì kinh điển Bát Nhã sâu xa này làm tôn chỉ, làm người dẫn đường, làm mẹ sinh mẹ dưỡng cho sáu pháp Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ Tát muốn được hạnh không theo người khác chỉ, muốn trụ bậc không theo người khác dạy, muốn dứt nghi cho tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện tất cả hữu tình, thì nên học Bát Nhã sâu xa như thế.

 

(Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa lấy gì làm tướng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát Nhã sâu xa lấy vô ngại làm tướng.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có nhiều nhân duyên nên Bát Nhã sâu xa có vô ngại tướng; tất cả các pháp khác cũng có tướng đó chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có nhân duyên nên Bát Nhã sâu xa có vô ngại tướng, các pháp khác cũng có thể nói là có. Vì sao? Vì tất cả pháp như Bát Nhã đều là ly, là không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều là ly, là không, thì tại sao hữu tình có nhiễm, có tịnh? Vì sao? Vì chẳng phải pháp ly pháp không có thể nói có nhiễm có tịnh, chẳng phải pháp ly pháp không có thể chứng Bồ đề, chẳng phải lìa pháp ly pháp không, riêng có pháp có thể đắc. Làm sao con hiểu được nghĩa như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Hữu tình thường có ngã ngã sở và tâm chấp ngã ngã sở không?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Vì hữu tình do chấp ngã và ngã sở mà có ly, có không chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Hữu tình do chấp ngã, ngã sở nên lưu chuyển sanh tử phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hữu tình lưu chuyển sanh tử như thế nên tạo ra tạp nhiễm và thanh tịnh. Do các hữu tình chấp trước sai lầm về ngã và ngã sở nên nói có tạp nhiễm, nhưng ở trong đó chẳng có tạp nhiễm. Do các hữu tình không chấp trước về ngã và ngã sở một cách sai lầm nên nói có thanh tịnh, nhưng ở trong đó chẳng có thanh tịnh.

Thế nên, này Thiện Hiện! Mặc dù tất cả pháp đều ly, đều không mà các hữu tình có thể thi thiết có nhiễm, có tịnh. Nếu các Bồ Tát năng biết như thế gọi hành Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Tuy tất cả pháp đều ly, đều không nhưng các hữu tình có nhiễm, có tịnh. Nếu các Bồ Tát biết như thế thì chẳng hành sắc, thọ, tưởng, hành, thức; thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều chẳng thể chế phục, hơn tất cả hạnh tu hành của Thanh văn và Độc giác, đạt đến chỗ không gì hơn.

Các đại Bồ Tát này do tác ý tương ưng với Bát nhã Ba la mật này, nên ngày đêm an trú phương tiện thiện xảo, hướng thẳng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy!

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm bộ này đồng một lúc đều được thân người, rồi đều phát Bồ đề tâm, trọn đời bố thí; lại đem việc bố thí này hồi hướng Bồ đề. Do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Rất nhiều! Bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu có Bồ Tát dù chỉ một ngày an trụ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật, thì đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Bồ Tát như thế, đúng như thật an trụ tác ý tương ưng Bát Nhã sâu xa, như thế thì có thể làm ruộng phước cho tất cả hữu tình. Do Bồ Tát này phát sanh tâm từ nên các loài hữu tình không ai bằng, chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Bồ Tát như thế đầy đủ trí tuệ thù thắng vi diệu. Do trí tuệ thù thắng vi diệu nên thấy các hữu tình chịu khổ não lớn như bị hình phạt chém giết, sanh lòng đại bi. Lại dùng thiên nhãn thấy loài hữu tình lãnh thọ nghiệp vô gián, đọa chốn vô gián, chịu các khổ não, hoặc bị lưới tà kiến phủ che, chẳng thấy được đường chánh. Thấy xong thương xót, càng sanh lòng nhàm chán, sợ hãi duyên khắp tất cả hữu tình ở thế gian, khởi tác ý tương ưng với đại từ bi: Ta phải làm bậc thầy dẫn đường lớn để cho tất cả hữu tình thoát khỏi các khổ. Mặc dù nghĩ như thế nhưng không an trú tưởng này, cũng chẳng an trú tưởng khác. Như thế gọi là Bồ Tát có ánh sáng trí tuệ lớn.

Do an trú trên sự an trú này nên có thể làm ruộng phước cho tất cả thế gian. Tuy chưa chứng đắc Nhất thiết trí trí, nhưng đối với Bồ đề không còn thối chuyển, có thể thọ nhận tất cả sự cúng dường của thí chủ. Bồ Tát như thế là an trú Bát nhã Ba la mật, đã có thể đền ơn thí chủ một cách trọn vẹn, cũng gần gũi Nhất thiết trí trí.

Thế nên, Bồ Tát muốn chẳng nhận lãnh sự cúng dường của tín thí thế gian một cách hư dối, muốn chỉ dạy con đường chơn tịnh cho hữu tình, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, muốn làm ánh sáng lớn cho thế gian, muốn giải thoát cho hữu tình ra khỏi lao ngục sanh tử, muốn ban cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh, thì thường nên an trú tác ý tương ưng với Bát Nhã sâu xa. Do tác ý này nên nói ra điều gì cũng đều tương ưng với nghĩa thú của Bát Nhã. Các tác ý khác không bao giờ khởi lên. Vì sao? Vì Bồ Tát tác ý tương ưng Bát Nhã như thế, tiếp nối lưu chuyển.

Ví như có người trước kia chưa từng có ngọc báu mạt ni, nay có được, hoan hỷ vui mừng, nhưng chẳng may bị mất, lòng rất buồn khổ, luôn nhớ nghĩ than tiếc khôn nguôi, suy nghĩ nên tìm phương kế gì để tìm được ngọc ấy. Do đó người kia luôn nhớ nghĩ đến ngọc báu này không lúc nào quên. Bồ Tát cũng thế, thường an trú tác ý tương ưng Bát Nhã sâu xa. Nếu chẳng an trú tác ý như thế thì làm tiêu tan tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp và các tác ý đều lìa tự tánh thì vì lẽ gì Bồ Tát chẳng lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí của Bát Nhã?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát biết tất cả pháp và các tác ý đều lìa tự tánh thì các Bồ Tát chẳng lìa Nhất thiết trí trí của Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí của Bát Nhã và các tác ý, tự tánh đều Không, không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát Nhã sâu xa tự tánh thường là Không, không tăng, không giảm thì làm sao Bồ Tát tăng trưởng Bát Nhã Trí để có thể gần gũi Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, biết tất cả pháp không tăng, không giảm thì đối với Bát Nhã sâu xa cũng không tăng, không giảm. Nếu các Bồ Tát có thể nghe biết tất cả pháp không tăng, không giảm như thế mà chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm, thì các Bồ Tát này hành Bát nhã Ba la mật sâu xa đã đạt đến rốt ráo, an trụ địa vị Bồ Tát Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Có phải chính Bát Nhã có thể hành Bát Nhã chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Bát Nhã có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải ngay nơi Không của Bát Nhã có thể hành Bát Nhã chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Không của Bát Nhã, có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi Không, có thể hành Bát Nhã chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!                           

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Không, có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi Không mà có thể hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Không, có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi Bát Nhã có thể hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Bát nhã Ba la mật có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải chính nơi Không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải!

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như thế thì Bồ Tát dùng những pháp nào để có thể hành Bát Nhã và hành Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có pháp có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có Bát Nhã và thấy Không là chỗ hành của các Bồ Tát chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Pháp mà ông không thấy, pháp này có thể đắc được chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Pháp chẳng thể đắc đó có sanh chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thật tướng của pháp mà ngươi chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp nhẫn(1) của Bồ Tát. Bồ Tát thành tựu nhẫn như thế thì được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng gọi là đạo Vô sở úy của Như Lai. Nếu các Bồ Tát siêng năng hành đạo này mà chẳng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đại trí, diệu trí, tự nhiên trí, Nhất thiết trí trí và Như Lai trí thì không có lẽ đó.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát vì các pháp vô sanh mà được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật chăng?

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải vậy.

- Bạch Thế Tôn! Nếu thế thì làm sao các Bồ Tát có thể được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có pháp để thọ ký quả vị giác ngộ của Phật chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không! Con chẳng thấy có pháp có thể được thọ ký quả vị giác ngộ của Phật, cũng chẳng thấy có người có thể chứng đắc quả vị giác ngộ của Phật, thời chứng, nơi chứng và do đây chứng, hoặc có pháp được chứng cũng đều chẳng thấy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì tất cả pháp bất khả đắc nên chẳng nên nghĩ: Đây là năng chứng, đây là sở chứng quả vị giác ngộ của Phật.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trí như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết, rốt ráo xa lìa, chẳng phải với chút ít căn lành mà các loài hữu tình có thể đối với Bát Nhã sâu xa như thế biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng.

Bấy giờ Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi nói. Kiều thi ca! Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm bộ này đều thành tựu mười thiện nghiệp đạo, phước như thế so với phước đạt được của người có thể biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng kinh điển Bát Nhã sâu xa thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, cho đến vô số cực phần cũng không bằng một.

Khi ấy có Bí sô bảo với trời Đế Thích:

- Nếu có người biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật thì đạt được công đức hơn Ngài?

Trời Đế Thích thưa:

- Các loài hữu tình kia chỉ cần khi mới phát tâm đầu tiên, còn hơn tôi, huống là biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát nhã Ba la mật. Bí sô nên biết! Loài hữu tình đó chính là Bồ Tát. Bồ Tát ấy đạt được lượng phước hơn khắp tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... Lượng phước mà Bồ Tát ấy đã đạt được cũng hơn tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác; cũng hơn tất cả Bồ Tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật tu hạnh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật và các công đức khác.

Bí sô nên biết! Nếu các Bồ Tát đúng như lời dạy dùng phương tiện thiện xảo tu hành Bát Nhã sâu xa, thì các Bồ Tát này hơn khắp tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... Thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều nên cúng dường. Vì sao? Vì các Bồ Tát này có thể đúng theo như lời dạy mà tu hành viên mãn Bát Nhã sâu xa, các Bồ Tát này có thể tiếp nối chủng tánh Nhất thiết trí trí không mất, thường chẳng xa lìa chư Phật Thế Tôn, thường không xa lìa tòa Bồ đề vi diệu, thường có thể cứu vớt các loài hữu tình chìm đắm trong bùn sanh tử.

Các Bồ Tát này khi tu học như thế, thường học pháp cần nên học của Bồ Tát, chẳng học pháp của Nhị thừa. Các thiên thần v.v... thường theo ủng hộ, bốn Đại Thiên Vương đi đến chỗ của người đó cung kính, cúng dường, đồng thưa: “Lành thay Đại sĩ! Nên siêng năng tinh tấn tu học pháp cần nên học của chúng Bồ Tát, sẽ mau được an tọa tòa Bồ đề vi diệu, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như Thiên vương xưa kia dâng bốn bát, con cũng sẽ dâng”.

Bí sô nên biết! Đối với các Bồ Tát này, Thiên Đế chúng con còn đi đến chỗ của vị ấy cung kính, cúng dường, huống là các thiên thần khác.

Bí sô nên biết! Các Bồ Tát này khi học như thế, tất cả Như Lai và các Bồ Tát, chư thiên, rồng v.v... thường theo hộ vệ. Do nhân duyên này, tất cả hiểm nạn nguy khốn ở thế gian chẳng thể làm tổn hại, cũng chẳng có thể phát sanh các thứ bệnh.

Bí sô nên biết! Các Bồ Tát này đạt được những lợi ích thù thắng hiện tại cũng như công đức ở đời sau vô lượng vô biên.

Khi ấy, A Nan Đà thầm nghĩ: Thiên chủ Đế Thích tự mình có biện tài khen ngợi công đức của Bồ Tát như thế, hay là nhờ oai thần của Như Lai gia bị?

Trời Đế Thích nương oai thần của Phật, biết được ý nghĩ của A Nan Đà, nên bạch:

- Thưa Đại đức! Chẳng phải biện tài của tôi mà chính là nhờ oai thần của Như Lai gia bị nên có thể nói như thế.

Bấy giờ, Phật bảo A Nan Đà:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Hôm nay trời Đế Thích nương oai thần của Phật nên có thể nói như thế.

Khánh Hỷ nên biết! Khi Bồ Tát tư duy tu học Bát nhã Ba la mật, tất cả ác ma ở Tam thiên đại thiên đều sanh nghi sợ, đều nghĩ rằng: Các Bồ Tát đây đang ở giai đoạn chứng thật tế, hay rơi bậc Nhị thừa, hay thẳng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, quay xe diệu pháp làm trống cảnh giới ta!

 

Thích nghĩa:

(1). Vô sanh pháp nhẫn: Pháp nhẫn nhục của hàng Bồ Tát do chứng đắc được lý vô sanh, không thấy có các hữu tình gây hại cho mình. Bồ Tát chứng đắc pháp nhẫn này thì tâm bình đẳng không phân biệt đối với tất cả chúng sanh. Vô Sanh tức chơn lý không sanh không diệt, Nhẫn, có nghĩa là tin chịu giữ gìn. Là nói dùng trú vô lậu an trú trong thể chơn lý bất sanh bất diệt, tâm không lay động. Đức nhẫn nhục của người tu học đắc đạo thể nhập chân lý: Các pháp không sanh không diệt. Bậc tu hành nếu hiểu các pháp không sanh, không diệt, tức là hiểu thật tướng sự vật vốn không Sanh Diệt. Hiểu như thế thì không còn lo rầu, phiền não, đối với chúng sinh, được vậy gọi là vô sanh pháp nhẫn. Đi đến chỗ không còn sinh tử luân hồi. Trong Đại Trí Độ luận quyển 50 nói: “Đối với thật tướng vô Sanh Diệt của các pháp, tin chịu thông suốt không ngăn ngại, không thối lui, gọi là Vô Sanh Nhẫn”. (Bộ từ điển: Chú Thích Phật Học - Pháp Thí Hội)

 

Sơ giải:

 

Phần đầu của phẩm này trước hết nói thế nào là bạn lành chơn tịnh hay thiện tri thức của Bồ Tát. Các phẩm trước tương đương với phẩm này của 4 Hội đầu đã thuyết quá rõ rồi. Ở đây chúng ta chỉ cần nhớ đoạn kinh ngắn này:

“Nếu người nào có thể tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa, dạy bảo truyền trao cho các chúng Bồ Tát, làm cho ngộ nhập pháp môn sâu xa Bát Nhã Ba la mật, cũng được gọi là bạn lành của Bồ Tát. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nên biết cũng là bạn lành của Bồ Tát. Như vậy, sáu pháp Ba la mật là thầy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là bó đuốc, là sự rực rỡ, là sự sáng soi, là nhà cửa, là sự hộ trì, là chỗ quay về, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cồn bãi, là cha lành, là mẹ hiền của các Bồ Tát. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương sáu pháp Ba la mật mà được thành tựu sự nghiệp công đức. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật như thế có khả năng thu nhiếp, hộ trì khắp tất cả Phật pháp.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên học sáu pháp Ba la mật”.

Chúng ta hoàn toàn thông suốt điểm này. Tu cần phải có bạn có thầy. Nếu may mắn được thầy giỏi, bạn tốt trợ lực thì mau tiến hơn và một khi có bạn có thầy tốt thì phải kính trọng như đại sư của mình, phải cung phụng cúng dường tôn trọng như cung kính cúng dường tôn trọng chư Phật. Câu nói này của Phật hơi quá đáng đối với chúng ta. Nhưng ngạn ngữ có câu “Kính thầy mới được làm thầy”. Đó là thật tế!

Sau đây là các điểm cần lưu ý ôn tập phẩm này:

 

1. Thế nào là nhiễm tịnh? Vì chúng sanh chấp ngã-ngã sở nên thấy có nhiễm có tịnh, thật ra chẳng có nhiễm tịnh. Đây có thể nói là quan niệm về cái thấy cái biết của chư Phật nói theo Đệ nhất nghĩa đế?

“Phật bảo Thiện Hiện:

- Hữu tình lưu chuyển sanh tử như thế nên tạo ra tạp nhiễm và thanh tịnh. Do các hữu tình chấp trước sai lầm về ngã và ngã sở nên nói có tạp nhiễm, nhưng ở trong đó chẳng có tạp nhiễm. Do các hữu tình không chấp trước về ngã và ngã sở một cách sai lầm nên nói có thanh tịnh, nhưng ở trong đó chẳng có thanh tịnh.

Thế nên, này Thiện Hiện! Mặc dù tất cả pháp đều ly, đều không mà các hữu tình có thể thi thiết có nhiễm, có tịnh. Nếu các Bồ Tát năng biết như thế gọi hành Bát nhã Ba la mật”.

Làm sao với tri kiến thường tục sẳn có trong máu mủ từ bao nhiêu đời kiếp của chúng ta có thể chấp nhận quan điểm này? Chúng tôi tạm gọi đây là “quan điểm” của Phật. Trong Phật đạo thường nêu hai vấn đề đối nghịch nhau: 1. Gọi là Bản hữu, và 2. Là Tu sanh.

- Bản hữu là cái gì tự có như Phật tánh. Ai sanh ra cũng có tánh này dù ở Nam hay Bắc, dù ở Đông hay Tây, dù ở chỗ nhiễm hay tịnh, nó vẫn không thay đổi ở kiếp này hay ở muôn vàn kiếp khác. Phật tánh là cái vô nhiễm vô tịnh. Bản lai vốn từ xưa đã vậy mà nay cũng chẳng có gì khác.

 - Còn thế nào là Tu sanh: Một quan niệm khác cho rằng do hoàn cảnh huân tập mà tánh con người thay đổi vì vậy mới thấy có tốt xấu, nhiễm tịnh... Giống như con thạch sùng (thằn lằn), sống trong nhà, tường vôi trắng sạch thì có màu trắng, sống trong hang núi dơ bẩn thì đen đúa, loan lổ. Con người muốn trở thành thánh thiện thì phải tu tập. Có tu tập mới trở thành thánh thiện. Môi trường như thế nào thì người vật như thế đó. Đó là huân tu.

 Phải thấu suốt hai vấn đề đó thì mới có những phán đoán đúng đắn về Tục đế hay Thắng nghĩa đế trong đạo Phật? Phật đạo không chia thế gian làm hai: Bản chất của xã hội loài người là chia chẻ phân hóa bất tận, nên mới thấy tội phước nhiễm tịnh. Nhưng Phật bảo không có nhiễm tịnh. Nhiễm tịnh là do con người chứ không do bản chất của xã hội. Chúng sanh bằng cái nhìn hữu ngã che mờ căn tánh, làm sao thấy được chỗ này? Bồ Tát, Phật vì diệt được tham ái, ngã chấp pháp chấp, nên chỉ thấy một màu thanh tịnh là bản hữu của chúng sanh vốn vô cấu bất nhiễm, không tội không phước. Đó là cái nhìn bất nhị của Đệ nhất nghĩa đế. Vì Thánh giả lìa tướng, không phân biệt, lấy vô chấp vô trước làm tướng nên nhập được chơn như, pháp giới, pháp tánh nên không thấy có nhiễm có tịnh.

 

2. Điểm vấn nạn khác được đặt ra của phẩm này là “Tức Không hay lìa Không, có pháp có thể đắc, có thể hành Bát Nhã hay hành Không chăng?”

Sau khi gạn hỏi hàng chục lần: Có phải chính nơi Không hay lìa Không, có pháp có thể đắc, có thể hành Bát nhã Ba la mật chăng? Có phải chính nơi Bát nhã Ba la mật có thể hành Không chăng? Có phải lìa Bát nhã Ba la mật có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng? Có phải chính nơi Không có thể hành Không chăng? Có phải lìa Không, có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng? Có phải chính nơi Bát nhã Ba la mật có thể hành Không chăng? Có phải lìa Bát nhã Ba la mật có pháp có thể đắc, có thể hành Không chăng? Với bao câu hỏi dồn dập của Thiện Hiện như thế, Phật đều trả lời là chẳng phải!

“Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như thế thì Bồ Tát dùng những pháp nào để có thể hành Bát Nhã và hành Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có pháp có thể hành Bát Nhã và hành Không chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có Bát Nhã và thấy Không là chỗ hành của các Bồ Tát chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Pháp mà ông không thấy, pháp này có thể đắc được chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Pháp chẳng thể đắc đó có sanh chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thật tướng của pháp mà ngươi chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát. Bồ Tát thành tựu nhẫn như thế thì được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng gọi là đạo Vô sở úy của Như Lai. Nếu các Bồ Tát siêng năng hành đạo này mà chẳng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đại trí, diệu trí, tự nhiên trí, Nhất thiết trí trí và Như Lai trí thì không có lẽ đó”.

Nếu Bồ Tát hành Bát Nhã và hành Không với Vô sanh pháp nhẫn này thì được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bởi vì Bồ Tát hiểu thật tướng của các pháp vốn không sanh diệt, thì không còn lo buồn, phiền não, chấp trước thì có cơ hội chứng trí vô ngại. Nên Đại Trí Độ luận quyển 50 nói: “Đối với thật tướng vô Sanh Diệt của các pháp, tin chịu thông suốt không ngăn ngại, không thối lui, gọi là Vô Sanh Nhẫn”. Nhờ nhẫn này mà Bồ Tát tu lục độ, hành Bồ Tát đạo, hạnh nguyên vuông tròn nên mới được thọ ký Vô Thượng Bồ đề.

Đó là điểm khó thấy khó chứng, phải tu đến giai vị Bát địa hay Bất động địa Bồ Tát (địa vị tu chứng thứ 8 trong Thập địa Bồ Tát) mới có thể nhập được pháp môn này. Nên Phật bảo Thiện Hiện:“Thật tướng của pháp mà ngươi chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát”. Đó là pháp quá cao mà bậc A la hán thành tựu đạo nghiệp như Thiện Hiện mà còn không thấy, không đắc hiến chi những chúng sanh sơ cơ như chúng ta. Vậy, nên cần ghi nhớ Vô sanh pháp nhẫn là gì để tìm tòi học hỏi nếu có cơ hội.

 

3. Phần cuối của phẩm này trời Đế Thích nói với Tỳ kheo trong pháp hội về công đức của người thọ trì kinh Bát Nhã như sau:

“Bí sô nên biết! Nếu các Bồ Tát đúng như lời dạy dùng phương tiện thiện xảo tu hành Bát Nhã sâu xa, thì các Bồ Tát này hơn khắp tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... Thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều nên cúng dường. Vì sao? Vì các Bồ Tát này có thể đúng theo như lời dạy mà tu hành viên mãn Bát Nhã sâu xa, các Bồ Tát này có thể tiếp nối chủng tánh Nhất thiết trí trí không mất, thường chẳng xa lìa chư Phật Thế Tôn, thường không xa lìa tòa Bồ đề vi diệu, thường có thể cứu vớt các loài hữu tình chìm đắm trong bùn sanh tử”.

(…) “Bí sô nên biết! Các Bồ Tát này đạt được những lợi ích thù thắng hiện tại cũng như công đức ở đời sau vô lượng vô biên”.

Chúng ta đã từng nghe những câu táng tụng Bát Nhã như thế rất nhiều lần. Đó là cơ hội của những người hành trì Bát Nhã, không còn nghi ngờ gì nữa. Vậy, phải chấp hành nghiêm chỉnh thôi./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16693)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 9989)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 15987)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 16835)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 13226)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 12279)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 18802)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 15269)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 11642)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 11490)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]