Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Phẩm “Khen Ngợi”

17/11/202007:33(Xem: 8040)
09. Phẩm “Khen Ngợi”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-480

 

IX. PHẨM “KHEN NGỢI”

Phần giữa quyển 545, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Gợi ý:

Rất tiếc phẩm “Khen Ngợi” in thiếu trên Website Tuvienquangduc.com do HT Thích Trí Nghiêm phiên dịch. Chúng tôi phải lấy hai bản dịch là Thuvienhoasen.org và Quangduc.com ghi vào Đại Bát Nhã Tổng luận của chúng tôi. Hai bản dịch trong Thuvienvienhoasen.org và quangduc.com dịch giống nhau, nên không có gì trở ngại trong việc bổ khuyết sự thiếu sót trên Website Tuvienquangduc.com.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này chỉ có danh tự. Danh tự như vậy cũng bất khả đắc, chỉ dựa vào lời nói vay mượn thi thiết mà có. Thế nên Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu, thật bất khả đắc. Hai pháp này triển chuyển tương tợ, đều vô sở hữu, bất khả đắc. Do đâu Phật nói, khi Từ Thị Bồ Tát chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì lấy danh hiệu này? Cũng ở chỗ này tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Từ Thị Bồ Tát sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khi ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ, tưởng, hành, thức Không. Không chứng sắc trói; không chứng thọ, tưởng, hành, thức trói. Không chứng sắc mở; không chứng thọ, tưởng, hành, thức mở, tức lấy các tướng hành như vậy. Từ Thị Bồ Tát sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề liền được danh này, cũng ở tại đây thuyết giảng Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật rất thanh tịnh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì hư không không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì tất cả pháp có nhiễm, không nhiễm đều bất khả đắc, nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát Nhã sâu xa này còn được lợi ích rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Các thiện nam, thiện nữ v.v... này không chết bất ngờ, cũng không bệnh đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày rằm của tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam, thiện nữ dù bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, thì sẽ được vô biên công đức lợi ích, thù thắng.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Các thiện nam, thiện nữ này đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, nên có vô lượng thiên thần thường đến cung kính vây quanh hộ trì. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa là ngọc báu vô thượng của các trời, người, A tu la v.v.... Do nhân duyên đây, nên các thiện nam, thiện nữ này sẽ được vô biên công đức và lợi ích.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi lắng nghe thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, tu học, thuyết giảng v.v... Bát Nhã sâu xa có nhiều tà ma làm cản trở. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa là ngọc báu lớn đối với các oán thù và trộm cướp. Thí như ở thế gian có ngọc quí báu, dù để chỗ nào cũng nhiều oán thù trộm cướp.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã sâu xa là của báu vô thượng, thường làm cho thế gian lợi ích an vui.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu xa không sanh-không diệt, không thành-không hoại, không hướng tới-không quay lui, không kéo-không duỗi, không lấy-không bỏ, không dơ-không sạch, không tăng-không giảm, không gần-không xa. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát Nhã sâu xa không có sự chứng đắc đối với tất cả pháp nên không thể ô nhiễm, không bị ô nhiễm. Thiện Hiện nên biết! Vì sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa cũng không nhiễm ô. Thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô, nên Bát Nhã sâu xa cũng không nhiễm ô. Bát Nhã sâu xa không nhiễm ô nên các pháp, sắc v.v... cũng không nhiễm ô. Nếu đối với như vậy mà không có sự phân biệt tức là hành Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát Nhã sâu xa không có sự phân biệt nên đối với tất cả pháp không lấy-không bỏ, không nói-không dạy, không có-không được.

Khi ấy, có vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở giữa hư không vui mừng hớn hở, đồng thanh xướng:

- Hôm nay, ở châu Thiệm bộ này, chúng con được thấy Phật chuyển pháp luân vi diệu lần thứ hai.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Xe pháp này chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu xa chẳng phải chuyển và chẳng phải hoàn mà xuất hiện ở thế gian. Chỉ vì pháp vô tánh tự tánh Không nên xuất hiện ở thế gian. Nếu đại Bồ Tát biết được như vậy, không còn phân biệt là hành Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa là Ba la mật rộng lớn, vì hiểu rõ tự tánh của các pháp là Không. Tuy hiểu rõ tự tánh của các pháp đều Không rồi, nhưng các đại Bồ Tát vẫn dựa vào Bát Nhã sâu xa không ràng buộc, không đắm trước vào các pháp để chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.

Tuy chứng Bồ đề nhưng không thấy chứng, vì chứng hay chẳng chứng pháp đều bất khả đắc. Dù chuyển xe pháp mà không thấy gì để chuyển, vì pháp chuyển pháp hoàn đều bất khả đắc. Mặc dù cứu độ hữu tình mà không thấy có gì được độ, vì pháp thấy hay không đều bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Trong giáo pháp thâm sâu Đại Bát Nhã Ba La Mật này việc chuyển xe pháp hoàn toàn bất khả đắc. Vì sao? Vì trong ấy không có pháp để hiện rõ, không có pháp để chỉ bày, không có pháp để chứng đắc, không có pháp chuyển, không có pháp hoàn. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo không sanh, cũng không diệt? Vì không sanh diệt nên không chuyển, không hoàn? (Q.545, TBBN)

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện có pháp chuyển-pháp hoàn, vì tánh của pháp chuyển pháp hoàn bất khả đắc. Nếu thường tuyên thuyết, khai thị như vậy thì gọi là sự thuyết giảng Bát Nhã hoàn toàn thanh tịnh. Trong đây hoàn toàn không có người nói, người nghe, pháp được nói và pháp lãnh thọ. Đã không có người nói, người nghe và người có thể chứng các pháp bất khả đắc. Vì không có người chứng, cũng không có người đắc Niết bàn, cũng không có người thuyết pháp làm phước điền. Vì phước điền không có nên tánh phước điền cũng không có. Sự biểu thị danh ngôn đều bất khả đắc, nên gọi là Ba la mật rộng lớn.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bát Nhã sâu xa chính là Ba la mật vô biên, vì như hư không không bờ bến.

Đây là Ba la mật không gì sánh bằng vì tất cả pháp đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật viễn ly vì rốt ráo Không.

Đây là Ba la mật khó chinh phục, vì tánh tướng của các pháp bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không để dấu vết vì không qua không lại, không hình thể.

Đây là Ba la mật vô tánh vì không qua không lại.

Đây là Ba la mật vô hành, vì tất cả pháp không thể chuyển động.

Đây là Ba la mật vô đoạt, vì tất cả pháp không thể giữ lấy.

Đây là Ba la mật vô tận cùng với pháp vô tận tương ưng.

Đây là Ba la mật vô sanh, vì tất cả pháp không thể sanh.

Đây là Ba la mật vô tác, vì các tác giả đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô tri, vì không có sự biết đối với tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô kiến, vì không có sự thấy đối với tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô chuyển, vì những kẻ sống chết đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô hoại, vì khoảng trước, sau và giữa đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật như huyễn, vì các pháp không sanh, không biểu thị được.

Đây là Ba la mật như mộng, vì tánh các ý thức bình đẳng.

Đây là Ba la mật không tạp nhiễm, vì tham, sân, si không tự tánh.

Đây là Ba la mật vô sở đắc, vì chỗ nương tựa bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không hý luận, vì tất cả pháp vượt khỏi sự nghĩ bàn.

Đây là Ba la mật vô tư lự, vì tất cả pháp không dao động.

Đây là Ba la mật không chuyển động, vì trụ vào pháp giới.

Đây là Ba la mật lìa nhiễm, vì tất cả pháp chẳng hư vọng.

Đây là Ba la mật vô đẳng khởi, vì tất cả pháp không có sự phân biệt.

Đây là Ba la mật tịch tĩnh, vì tất cả pháp tướng đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không lầm lỗi, vì tu các công đức để đến bờ kia.

Đây là Ba la mật không hữu tình, vì chứng thực tế.

Đây là Ba la mật vô đoạn, vì tất cả pháp vô đẳng khởi.

Đây là Ba la mật như thật, vì không phân biệt.

Đây là Ba la mật vô nhị, vì không chấp trước tất cả pháp.

Đây là Ba la mật không tạp hoại, vì tất cả pháp chẳng hòa hợp.

Đây là Ba la mật không chấp thủ, vì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.

Đây là Ba la mật không tầm tứ, vì đạt đến tánh bình đẳng của pháp tầm tứ.

Đây là Ba la mật vô lượng, vì vô lượng pháp.

Đây là Ba la mật vô khởi, vì lìa ngã pháp.

Đây là Ba la mật không phân biệt, vì tánh các sự phân biệt bình đẳng.

Đây là Ba la mật bất khả đắc, vì đạt đến tánh chơn thật của tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô trước, vì không chấp trước tất cả pháp.

Đây là Ba la mật không nương tựa, vì không chỗ nương tựa.

Đây là Ba la mật chẳng sanh, vì tất cả pháp đều không sanh.

Đây là Ba la mật vô thường, vì tất cả pháp thường không có tánh.

Đây là Ba la mật khổ, vì làm bức bách tánh bình đẳng.

Đây là Ba la mật vô ngã, vì đối với tất cả pháp không có sự chấp trước.

Đây là Ba la mật không, vì tất cả pháp bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô tướng, vì lìa các tướng của tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô nguyện, vì không sự thành tựu.

Đây là Ba la mật có lực, vì không chịu khuất phục tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô lượng Phật pháp, vì quá số lượng.

Đây là Ba la mật vô bố úy, vì nơi tâm rốt ráo không có sự sợ hãi.

Đây vì Ba la mật chơn như, vì tánh của tất cả pháp này không có biến đổi.

Đây là Ba la mật tự nhiên, vì tất cả pháp không có tự tánh.

Đây là Ba la mật Nhất thiết trí trí, vì biết tất cả pháp không tự tánh.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. (Q.545, TBBN)

 

Lược giải:

 

1. Học Bát Nhã không có nghĩa phải chứng Không

mới trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

 

Phải nói đây là một phẩm rất cô động, ngắn gọn chỉ có khoảng 7 trang sách, nên nêu ra một thắc mắc lớn. Làm sao tư duy để thâm nhập được Bát nhã Ba la mật khi Phật nói Bồ Tát Từ Thị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề  “khi ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ tưởng hành thức không”? Đây là câu hỏi lớn! Không chứng Không mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là điều khó hiểu? Kinh không giải thích chỗ này và liền sau đó thuyết về thanh tịnh.

Chúng ta thường hiểu khi nói thấy tất cả pháp là không thì liền thấy các pháp như (chơn như của các pháp). Thấy các pháp như là thấy bình đẳng. Khi tri giác cái bình đẳng này giữa các pháp thì tâm thể trở nên tịch lặng hay nói là được thanh tịnh. Đây là giác ngộ do chứng nhập không quán mà được thanh tịnh nên phát sanh trí tuệ.

Một câu hỏi thưòng thấy trong các phẩm nói về Bồ Tát Di Lặc khi giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác Bồ Tát Di Lặc chứng pháp nào, nói pháp nào? Kinh ĐBN thường trả lời là Bồ Tát Di Lặc chứng pháp thanh tịnh và thuyết pháp thanh tịnh, chứ không nói là Bồ Tát Di Lặc chứng pháp Không.

Để trả lời vấn nạn này chúng ta có thể nói rằng: Phật thuyết Đại Bát Nhã không có nghĩa là thuyết riêng chủ đề duy nhất là Không hay Tánh Không và xem pháp môn này như yếu tố chánh quyết định cho sự thành tựu Giác ngộ, chứng Chánh giác và đạt Nhất thiết trí trí. Chúng ta cũng biết rằng Giác ngộ không phải là yếu lẻ loi do Tánh Không tạo thành, mà giác ngộ là sự phối hợp nhịp nhàng giữa Trí và Bi, giữa phương tiện và cứu cánh của tất cả các pháp mầu Phật đạo.

- Phẩm “Thiên Tử”, quyển 556, Hội thứ V, ĐBN. Phật nói: “Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy nghĩ các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu sâu, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chứng, chẳng đắc. Khi Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy”.

Vậy, đừng lấy làm ngạc nhiên khi Phật bảo Bồ Tát Từ Thị khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng chứng sắc không, chẳng chứng thọ tưởng hành thức không mà chứng thanh tịnh và thuyết thanh tịnh.

Tuy ở đoạn kinh này nói như vậy, nhưng phần lớn Đại Bát Nhã thường nói là phải giác biết các pháp là như mà như tức là không, như cũng là bình đẳng. Vì giác biết là Không, là như, là bình đẳng nên tâm được thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh nên mới phát huệ. Vậy tiến trình có khác nhưng kết quả không khác.

 

2. “Khen Ngợi” Bát nhã Ba la mật.

 

1- Trong các phẩm trước chúng ta đã từng thấy các Thiên chúng, trời, người, A tu la v.v… các cõi trong khắp thế giới mười phương như cát sông Hằng tán tụng việc thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật. Trong phẩm “Khen Ngợi” này, Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát Nhã sâu xa này còn được lợi ích rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Các thiện nam, thiện nữ này không chết bất ngờ, cũng không bệnh đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày thứ mười bốn, ngày rằm của tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... dù bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, thì sẽ được vô biên công đức lợi ích, thù thắng”. (Q.545, TBBN)

 

2- Phẩm “Kim Cương Năng Đoạn”, tức Kinh “Kim Cương Bát nhã Ba la mật”, quyển 577, Hội thứ IX, trích từ Đại Bát Nhã, chúng ta sẽ có dịp khảo cứu sau này. Quyển 577 Phật tán tụng công đức trì tụng Bát Nhã tổng cộng đến 14 lần. Quyển 577 chỉ là 1 trong 600 quyển của Đại Bát Nhã mà thôi.

 

3- Nói về những vi diệu Ba la mật: Để thay đổi không khí cũng như để thay lời kết luận cho phẩm này, chúng tôi trích đoạn Kinh sau đây thuộc thuộc Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã”, phẩm 9 “Khen Pháp Vượt Trội” do Thí Hộ dịch, tương đương với phẩm “Khen Ngợi” này, thuộc quyển 545, Kinh Tiểu Bản Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch, để quý vị chiêm nghiệm thế nào là các Ba la mật của Bát Nhã: “Vô biên Ba la mật là Bát nhã Ba la mật. Vô đẳng đẳng Ba la mật; bất khả phá Ba la mật; vô cú Ba la mật; vô tánh Ba la mật; vô ngôn Ba la mật; vô lai Ba la mật; vô khứ Ba la mật; vô tập Ba la mật; vô tận Ba la mật; vô sinh Ba la mật; vô tác Ba la mật; vô tri giả Ba la mật la Bát nhã Ba la mật. Vô phiền não Ba la mật; vô xuất thế Ba la mật; vô nhiễm ô Ba la mật; vô hý luận Ba la mật; vô niệm Ba la mật; vô động Ba la mật là Bát nhã Ba la mật. Ly dục Ba la mật; vô khởi Ba la mật; tịch tĩnh Ba la mật; vô đoạn Ba la mật; nhị biên Ba la mật; vô dị Ba la mật; vô trước Ba la mật; bất phân biệt Ba la mật; vô lượng Ba la mật; như hư không Ba la mật; vô thường Ba la mật; khổ Ba la mật; không Ba la mật; vô ngã Ba la mật; vô tướng Ba la mật; Không tánh Ba la mật v.v… là Bát nhã Ba la mật, vì tánh, tướng của tất cả các pháp không thể có được, không thể biết”.

Nói tóm lại, bất hoại, bất khứ, bất lai, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất thất, bất đáo, bất khởi, bất động, bất niệm, bất phá, bất thủ, bất hý luận, bất phân biệt, vô tác, vô tri, vô dục, vô sân, vô si, vô phiền não, vô đoạn, vô nhị, vô tánh, vô tướng, vô lượng, vô biên, là mộng huyễn, bào ảnh, tiếng vang, quáng nắng v.v..., là bình đẳng, là tịch diệt, là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, chư pháp không, vô sở đắc không, tự tướng không, hữu pháp không, vô pháp không, vô pháp hữu pháp không, là chân như, là pháp giới, là pháp tánh, là bình đẳng, là thật tế, là bất khả tư nghì, là 37 pháp trợ đạo, là tam tam muội, là bát bội xả, là cửu thứ đệ định, là thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại giải v.v… là các Ba la mật của Bồ Tát hay nói khác là các pháp có thể đưa chúng sanh sang bờ kia. Có hàng trăm pháp như thế đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật mà khắp thế gian trời người thường tán tụng…Chúng ta không cần phải nhọc nhằn tìm kiếm ở đâu xa. Bất cứ Hội nào trong toàn bộ Đại Bát Nhã, chúng ta cũng có thể tìm thấy các giáo pháp công đức phước hạnh này.

Tại sao các Ba la mật này đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật và được gọi là công đức phước hạnh? Vì tri giác được tất cả các pháp có đặc tánh như trên là đạt được biên tế chung cùng của vạn pháp hay nói khác là đạt thật tướng các pháp nên giác ngộ, đạt Nhất thiết trí trí và chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi đạt đến chỗ đó thì có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, có thể đưa chúng sanh sang bờ bên kia, nên nói là được vô vàn công đức phước hạnh thù thắng. Đó là nội dung của phẩm “Khen Ngợi” Bát nhã Ba la mật.

 

Nhưng muốn nói gì thì nói Bát nhã Ba la mật là vô sở hữu, bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật chỉ là danh tự. Đừng quá tưởng tượng bốc cao mà lạc mất tâm đạo.

Kinh bảo: “Danh tự như vậy cũng bất khả đắc, chỉ dựa vào lời nói vay mượn thi thiết mà có. Thế nên Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu, thật bất khả đắc”.

Nếu hiểu câu nói này và vô chấp, vô phân biệt thì khi ấy sẽ thấy Bát nhã Ba la mật hiện tiền./.

 

---o0o---

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15921)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 9801)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 15492)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 16228)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 12938)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 12005)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 18186)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 14810)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 11440)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 11345)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]