Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

28. Phẩm “Trao Ký” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

15/08/202009:33(Xem: 7607)
28. Phẩm “Trao Ký” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


Phẩm Trao Ký_QT

 

PHẨM “TRAO KÝ” (1)

Phần đầu quyển 427, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phần đầu phẩm “Nhiếp Thọ”, tức cuối Q.99

cho đến hết Q.100, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước


 


 

 

Gợi ý:

Phẩm “Trao Ký” của hội thứ II, ĐBN, tương đương với phẩm “Tam Thán” của Kinh MHBNBLMĐ. Hai phẩm rất đồng nhau.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ trong chúng, chư Thiên cõi Dục như Thiên Đế Thích… chư Thiên cõi Sắc như Phạm Thiên Vương… và các Thiên nữ, Thần Tiên Y xá na(1) đồng thời ba phen khen ngợi cụ thọ Thiện Hiện: Tôn giả Thiện Hiện dùng oai lực Phật làm chỗ nương, khéo vì chúng con phân biệt khai thị Bát Nhã thậm thâm. Phật xuất hiện thế gian là do pháp yếu Vô thượng. Nếu Bồ Tát năng đối kinh Bát Nhã thậm thâm, như thuyết tu hành, chẳng xa lìa ấy, chúng con đối với các Bồ Tát ấy tôn thờ như Phật. Vì sao? Vì trong Bát Nhã đây không pháp khá được. Chỗ gọi trong đây không sắc khá được, không thọ tưởng hành thức khá được. Như vậy cho đến không Nhất thiết trí khá được; không Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khá được. Tuy không có các pháp như thế để được, nhưng vẫn thi thiết Thánh giáo Tam thừa là Thanh văn, Độc giáo, Vô thượng thừa.

Bấy giờ, Phật bảo các chư thiên rằng:

- Như vậy! Như các ngươi đã nói. Đối với Bát Nhã, tuy không có các pháp như sắc… khá được, nhưng vẫn thi thiết Thánh giáo Tam thừa. Nếu Bồ Tát đối Bát Nhã đây, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, năng như thuyết tu hành, chẳng xa lìa, chư thiên các ngươi nên tôn thờ như các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì Bát Nhã, tuy có Thánh giáo Tam thừa song nói chẳng tức bố thí Ba la mật Như Lai khá được, chẳng ly bố thí Ba la mật Như Lai khá được. Cho đến chẳng tức Bát Nhã Như Lai khá được, chẳng ly Bát Nhã Như Lai khá được. Chẳng tức nội không Như Lai khá được, chẳng ly nội không Như Lai khá được. Cho đến chẳng tức vô tánh tự tánh không Như Lai khá được, chẳng ly vô tánh tự tánh không Như Lai khá được. Chẳng tức bốn niệm trụ Như Lai khá được, chẳng ly bốn niệm trụ Như Lai khá được. Nói rộng cho đến chẳng tức mười tám pháp Phật bất cộng Như Lai khá được, chẳng ly mười tám pháp Phật bất cộng Như Lai khá được. Như vậy cho đến chẳng tức Nhất thiết trí Như Lai khá được, chẳng ly Nhất thiết trí Như Lai khá được. Chẳng tức Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí Như Lai khá được; chẳng ly Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí Như Lai khá được.

Các chư thiên! Nếu Bồ Tát Ma ha tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tinh siêng tu học bố thí Ba la mật như thế, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, Bồ Tát này đối Bát nhã Ba la mật đây, năng siêng tu hành thường chẳng lìa bỏ. Vậy nên các ngươi cần phải tôn thờ Bồ Tát này như các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Các chư thiên! Phải biết Ta ở thời Phật Nhiên Đăng thuở xa xưa, nơi thành Chúng Hoa, đầu ngã tư đường, thấy Phật Nhiên Đăng hiến năm hoa sen, trải tóc che bùn, cầu nghe pháp thượng diệu. Vì Ta lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên chẳng lìa bố thí Ba la mật cho đến Bát Nhã; chẳng lìa nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng lìa 4 niệm trụ cho đến 8 Thánh đạo chi; chẳng lìa 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 vô sắc định; chẳng lìa tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn; chẳng lìa Phật mười lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng; chẳng lìa vô lượng, vô số, vô biên các Phật pháp khác. Khi ấy, Phật Nhiên Đăng liền trao ký Vô thượng Chánh đẳng Đại Bồ đề cho Ta, và nói: “Thiện nam tử! Ngươi ở đời sau qua vô số kiếp, tức ở cõi đây trong thời Hiền kiếp sẽ được làm Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuyên nói Bát Nhã cho vô lượng chúng”.

Khi ấy, các chư thiên đều thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Hiếm có. Bạch Thiện Thệ! Hiếm có. Bát nhã Ba la mật như thế rất là hiếm có. Khiến chúng Bồ Tát chóng nhiếp thọ Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối tất cả sắc không lấy không bỏ, đối thọ tưởng hành thức không lấy không bỏ. Cho đến đối Nhất thiết trí không lấy không bỏ; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không lấy không bỏ.

Bấy giờ, Phật thấy bốn chúng hòa hợp là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ và các Bồ Tát, cùng Bốn đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều đến nhóm hội, đồng làm minh chứng. Lúc ấy Phật nhìn Thiên Đế Thích phán rằng:

- Kiều Thi Ca! Hoặc Bồ Tát, hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ, hoặc các Thiên tử, Thiên nữ, hoặc các thiện nam, thiện nữ… chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đây cung kính lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, vì người diễn nói, rộng khiến lưu bố. Phải biết hạng này, tất cả ác ma và quân ác ma chẳng nhiễu hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các thiện nam, thiện nữ này khéo trụ sắc không, vô tướng, vô nguyện; khéo trụ thọ tưởng hành thức không, vô tướng, vô nguyện. Như vậy cho đến khéo trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không, vô tướng, vô nguyện. Chẳng thể đem không để phá hại không, chẳng thể đem vô tướng phá hại vô tướng, chẳng thể đem vô nguyện phá hại vô nguyện. Vì sao? Các pháp như thế đều không tự tánh, năng sở phá hại đều chẳng khá được.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ, người phi người chẳng bị nhiễu hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này đem vô sở đắc làm phương tiện, đối các hữu tình khéo tu tâm từ bi hỷ xả vậy. Các thiện nam, thiện nữ này trọn chẳng bị các hiểm nguy làm não hại, cũng chẳng bị hoạnh tử. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tu hành bố thí Ba la mật, chính đem an lạc lợi dưỡng ban cho tất cả hữu tình vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ở Tam thiên đại thiên thế giới đây có bao trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Quảng quả, kẻ đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, đối Bát nhã Ba la mật đây, nếu chưa lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thời chẳng nên lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát Nhã đây, hết lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý.

Bấy giờ, ở Tam thiên đại thiên thế giới Kham Nhẫn này có bao trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh… cung kính chấp tay đồng thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, thường năng đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Chư thiên chúng con thường theo bảo hộ chẳng để cho tất cả tai hoạnh não hại. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Các thiện nam thiện nữ này tức là đại Bồ Tát vậy.

Bạch Thế Tôn! Do đại Bồ Tát này nên khiến các hữu tình dứt hẳn: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la. Do đại Bồ Tát này nên khiến các trời, người, dược xoa, rồng thảy lìa hẳn tất cả khổ hoạnh, tật dịch, bần cùng, đói khát, lạnh nóng. Do đại Bồ Tát này nên khiến các trời, người, A tu la thảy lìa hẳn các sự việc bất như ý; ở nơi chỗ nào không có chiến tranh, tất cả hữu tình thương mến lẫn nhau. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, hoặc bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không, hoặc bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cho đến hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Bạch Thế Tôn! Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ, các tiểu Quốc vương, chuyển luân Thánh vương, phụ thần quan liêu giúp nước. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có các trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng cho đến trời sắc cứu cánh, trời Không vô biên xứ cho đến trời phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có Dự lưu và quả Dự lưu, cho đến A la hán và quả A la hán, hoặc Độc giác và Độc giác Bồ đề. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có các Bồ Tát thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng. Do đại Bồ Tát này nên thế gian bèn có Phật bảo, Pháp bảo, Bí sô Tăng bảo, lợi ích an vui tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên đây, Thiên chúng chúng con và A tu la, các rồng, dược xoa cùng người, phi người… có thế lực lớn, thường theo dõi cung kính bảo hộ các đại Bồ Tát đây, chẳng cho tất cả tai hoạnh não hại, khiến đối Bát nhã Ba la mật lóng nghe thọ trì, đọc tụng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả thường không gián đoạn.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiên Đế Thích và các thiên, long, A tu la… rằng:

- Như vậy, như vậy. Như lời các ngươi đã nói. Do đại Bồ Tát này nên khiến các hữu tình dứt hẳn ác thú, cho đến Tam Bảo xuất hiện thế gian cùng các hữu tình làm đại nhiêu ích. Vậy nên các ngươi chư thiên long thần và người, phi người có thế lực lớn, thường nên theo dõi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ Bồ Tát này, chớ cho tất cả tai hoạnh não hại. Các ngươi nếu năng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, cần bảo hộ các Bồ Tát này, phải biết tức là cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ Ta và 10 phương tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vậy nên các ngươi thường nên theo dõi Bồ Tát này, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ chớ được nới bỏ.

Các ông nên biết: Giả sử Tam thiên đại thiên thế giới chư Phật đầy rẫy Thanh văn, Độc giác nhiều như mía, lau, lách, tre, rừng, lúa, mè, lùm, bụi… không trống hở, có các thiện nam, thiện nữ đối với ruộng phước kia, đem vô lượng các th vi diệu nhất, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen trọn cả cuộc đời. Lại có người trong chừng giây lát cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen một Bồ Tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu Ba la mật. Đem công đức trước sánh nhóm phước sau trăm phần chẳng kịp một, ngàn phần chẳng kịp một. Vì sao? Vì chẳng do Thanh văn và Độc giác nên có Bồ Tát và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác xuất hiện ở đời, nhưng do Bồ Tát nên thế gian mới có Thanh văn, Độc giác và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vậy nên, các ngươi tất cả thiên, long và A tu la, người, phi người… thường nên thủ hộ cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen đại Bồ Tát này, chớ cho tất cả tai hoạnh não hại. Các ngươi do đây sẽ được nhóm phước ở trong người trời thường được an vui. Cho đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phước đã được đây hằng không dứt diệt.

 

Thích nghĩa:

 (1). Y xá na: Chư thiên trong cõi trời Dục giới thứ sáu.

 

Sơ giải:

 

Đức Thế Tôn thuật lại việc Thế Tôn lấy vô sở đắc làm phương tiện tu hành Bát Nhã cùng vô lượng vô biên các pháp Phật khác, nên được Phật Nhiên Đăng trao ký tại thành Chúng Hoa. Đối với các Bồ Tát siêng tu tập tất cả các thiện pháp nhất là lục Ba la mật, lóng nghe, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, thơ tả thường không gián đoạn. Thế Tôn sẽ trao ký cho những Bồ Tát nào cũng hướng đến Nhất thiết chủng trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện tu hành Bát nhã Ba la mật. Đồng thời Thế Tôn nhắn nhủ tất cả Thiên chúng, A tu la, các rồng, dược xoa, trời người, phi người thường theo dõi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, bảo hộ các Bồ Tát này, như bảo hộ Thế Tôn.

Các Bồ Tát này là ruộng phước của tất cả trời người… Vì sao? Vì nhờ có Bồ Tát này mà thế gian có nhiều phúc lợi. Nhờ Bồ Tát này mà có tất cả thiện pháp xuất hiện trên thế gian, có các dòng đại tộc, có các Thanh văn, Độc giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác… Vì các duyên cớ đó, Thế Tôn trao ký. Các thiên chúng trời, rồng, A tu la v.v… nên theo dõi và bảo hộ các đại Bồ Tát thọ trì Kinh này.

 

Phẩm này ai đọc cũng có thể hiểu, nên không cần giải thích dong dài. Trong Đại trí Độ Luận có một đoạn nói về Bát nhã Ba la mật rất đáng lưu ý. Nên trích ra đây để cùng học:

“Kinh nói: Nếu trong đại thiên thế giới, có vị Thiên Tử nào đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, mà chưa nghe Bát Nhã Ba La Mật, thì nay phải nghe, phải thọ trì, phải chánh ức niệm, phải tu tập, thì mới có được đại công đức.

Lời kinh trên đây cho thấy rằng, khi đã phát Vô Thượng Bồ Đề Tâm, thì phải nghe, phải thọ trì Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật, thì mới vào được Phật đạo. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là nền tảng của Phật đạo vậy”./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 12075)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 8236)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 12281)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 12680)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 11148)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 9445)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 13120)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 11572)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 9116)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 9043)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567