Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Phẩm "Bạn Lành"

07/10/202007:55(Xem: 8059)
18. Phẩm "Bạn Lành"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-457


 

PHẨM "BẠN LÀNH"

Trọn quyển 512, Hội thứ III, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Sơ Nghiệp” hay “Bạn Lành Chân Thật”,

phần sau Q.445 cho đến phần đầu Q.446, Hội thứ II, ĐBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Gợi ý:

Phẩm “Bạn Lành” trong pháp hội thứ III này đề cập 2 vấn đề hoàn toàn khác nhau: 1. Nói về bạn lành chân thật hay còn gọi là thiện hữu tri thức và 2. Ai là người có thể thâm hiểu Bát Nhã? Vì vậy, chúng tôi cũng chia phẩm này làm hai phần để quý vị dễ theo dõi.

Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng: Trong rất nhiều trường hợp phẩm tựa đôi khi không phù hợp với nội dung của phẩm đó, nhất là các phẩm tựa của Hội thứ III. Vì như nhiều lần lưu ý, Hội thứ III thường gộp nhiều phẩm của các Hội khác vào thành một. Nên, đầu đuôi đôi xuôi ngược không ăn khớp với nhau!

 

Tóm lược:

 

1. Chơn thiện hữu:

(Đoạn Kinh sau đây tương đương phẩm “Chơn Thiện Hữu”, phần sau Q.313 đến đầu Q.316, Hội thứ I hay tương đương phẩm “Sơ Nghiệp”, phần sau Q.445 cho đến đầu Q.446, Hội thứ II, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tân học Đại thừa làm sao học được Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tân học Đại thừa muốn học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, trước hết phải gần gũi, phụng sự cúng dường bậc thiện hữu chơn tịnh (mà vị này) khéo thuyết giảng phân biệt Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nghĩa là khi thuyết Kinh Bát Nhã thậm thâm nên khuyên răn, dạy bảo hàng Bồ Tát tân học Đại thừa: Hãy đến đây, Thiện nam tử! Ông nên siêng năng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Khi siêng tu, ông nên dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng chung hưởng, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ông chớ dùng sắc uẩn cho đến thức uẩn mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng mười hai xứ cho đến mười tám giới mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng nhãn xúc cho đến ý xúc mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng địa giới cho đến thức giới mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng nhân duyên cho đến tăng thượng duyên mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng vô minh cho đến lão tử mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng Tứ đế cho đến tám chi Thánh đạo mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng năm loại mắt, sáu phép thần thông mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng tất cả hạnh Bồ Tát, và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đừng dùng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà giữ lấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Thiện nam tử! Nếu không chấp thủ sắc cho đến không chấp thủ Nhất thiết tướng trí liền đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện nam tử! Tuy hành sâu Bát Nhã, ông chớ tham trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì sắc cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng đáng để tham đắm. Vì sao? Thiện nam tử! Vì tất cả pháp tự tánh là Không.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Các đại Bồ Tát thường làm được việc khó, ở trong tất cả pháp tự tướng không mà mong cầu quả và muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Các đại Bồ Tát thường làm việc khó, ở trong tất cả pháp tự tướng không mà mong cầu và muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Tuy các đại Bồ Tát biết các pháp đều như huyễn hóa, nói rộng cho đến như thành Tầm hương tự tướng đều không, nhưng vì thế gian được nghĩa lợi nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn cho thế gian được lợi ích nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn cho thế gian được an lạc nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn cứu vớt các thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn làm cho thế gian quay về nương tựa nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn làm nhà ở cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn chỉ đường cứu cánh cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn làm hòn đảo cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì làm nhật nguyệt cho thế gian nên phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn làm đuốc sáng cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn làm đạo sư cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn làm tướng soái cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn làm chỗ tới cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn cho thế gian được nghĩa lợi nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! đại Bồ Tát vì muốn giải thoát các việc khổ não cho tất cả các hữu tình nên tu hành bố thí cho đến Bát Nhã, nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn cho thế gian được nghĩa lợi nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn cho thế gian được lợi ích nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì muốn cứu các hữu tình đang run sợ trong sáu đường, đưa họ đến bờ Niết bàn an ổn khỏi sợ hãi, nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn cho thế gian được lợi ích nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn cho thế gian được an lạc nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì cứu vớt hữu tình thoát khổ đau, sầu não để được an ổn nơi bờ Niết bàn kia, nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn cho thế gian được an lạc nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn cứu vớt các thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! đại Bồ Tát thấy các hữu tình đọa trong ba đường ác, vì muốn cứu vớt và khiến họ tu nghiệp lành, lần lần nương vào Tam thừa mà đi đến xuất ly, nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn cứu vớt các thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn làm chỗ quay về nương tựa cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì muốn hữu tình mau được giải thoát các khổ sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, buồn, lo, bức bách v.v..., an trụ cảnh giới Vô dư y Niết bàn, nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn làm chỗ quay về nương tựa cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn làm nhà ở cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn vì hữu tình nói tất cả pháp đều chẳng hòa hợp, nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn làm chỗ ở cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tất cả pháp đều chẳng hòa hợp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các sắc chẳng hòa hợp tức sắc chẳng lệ thuộc nhau. Nếu sắc chẳng lệ thuộc nhau tức sắc không sanh. Nếu sắc không sanh tức sắc không diệt. Nếu sắc không diệt tức sắc chẳng hòa hợp. Thọ, tưởng, hành, thức nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí cũng lại như vậy. Các đại Bồ Tát muốn vì hữu tình nói tất cả pháp đều có sự không hòa hợp này, nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát muốn chỉ rõ con đường cứu cánh cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Đại Bồ Tát hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì hữu tình mà thuyết pháp như vầy: Sắc bờ kia tức chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức bờ kia tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí bờ kia tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí bờ kia tức chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Thiện Hiện nên biết như tướng sắc thảy bờ kia, tất cả pháp cũng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Nếu tất cả pháp đều như tướng sắc, thọ, tưởng thảy bờ kia, vì sao đại Bồ Tát đối tất cả pháp cần phải hiện đẳng giác để làm gì? Vì sao? Vì chẳng phải trong sắc bờ kia có phân biệt rằng đây là sắc, đây là thọ tưởng hành thức, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí bờ kia có phân biệt như vầy rằng đây là sắc, đây là thọ tưởng hành thức nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như vậy! Chẳng phải trong sắc bờ kia có phân biệt rằng đây là sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Như vậy, cho đến chẳng phải trong Nhất thiết tướng trí bờ kia có phân biệt rằng đây là sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Vì tất cả pháp bản tánh không vậy.

Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát có thể làm việc khó làm. Nghĩa là mặc dù quán tướng tất cả pháp đều vắng lặng, thẳm sâu mầu nhiệm mà tâm chẳng chìm đắm, khởi nghĩ rằng: Ta đối pháp đây hiện đẳng giác rồi chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ pháp vắng lặng sâu mầu ấy. Đấy là đại Bồ Tát muốn chỉ đường cứu cánh cho thế gian nên phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát làm hòn đảo cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Thí như giữa biển, sông, hồ lớn hoặc nhỏ, có khoảng đất cao nổi lên có thể ở được, nước dứt chung quanh gọi là hòn đảo.

Như vậy, Thiện Hiện! Sắc cho đến thức dứt ngằn trước ngằn sau nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí dứt ngằn trước sau. Do vì dứt ngằn trước ngằn sau nên dứt tất cả pháp. Tất cả pháp đây dứt ngằn trước sau tức là như thật vắng lặng nhiệm mầu, nghĩa là Niết bàn không, vô sở đắc, đạo đoạn, ái hết, lìa nhiễm, dứt diệt rốt ráo. Thiện Hiện! Đại Bồ Tát cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề muốn vì hữu tình tuyên nói khai chỉ các pháp dứt ngằn mé trước sau như thế, là như thật sâu thẳm vắng lặng nhiệm mầu. Đấy là đại Bồ Tát làm hòn đảo cho thế gian nên phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát muốn làm nhật nguyệt cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì phá vô minh kéo dài từ lâu đã che khuất hữu tình nhiều lớp tối tăm, vì muốn trị bệnh mắt vô tri cho loài hữu tình, giúp cho họ sáng suốt, vì chiếu sáng cho tất cả hữu tình mịt mờ nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn làm nhật nguyệt cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn làm đuốc sáng cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Đại Bồ Tát muốn vì hữu tình tuyên thuyết sáu pháp Ba la mật và nghĩa lý Kinh điển chơn thật tương ưng bốn nhiếp sự, phương tiện dạy bảo, làm cho họ siêng năng tu học, diệt trừ các loại vô minh đen tối nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn làm đuốc sáng cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn làm đạo sư dẫn đường cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! đại Bồ Tát muốn làm cho những hữu tình đi theo tà đạo phải xa lìa bốn chỗ không nên đi, và chỉ cho họ con đường duy nhất để quay về nẻo chính(1), vì làm cho kẻ tạp nhiễm được thanh tịnh, kẻ sầu não được phấn khởi, kẻ buồn khổ được vui mừng, kẻ phi lý được đúng lý, kẻ lưu chuyển được hoàn diệt nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì muốn làm đạo sư dẫn đường cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nào là đại Bồ Tát vì làm tướng soái cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! đại Bồ Tát mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn vì hữu tình giảng giải, chỉ bày sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Đấy là đại Bồ Tát vì làm tướng soái cho thế gian nên phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Bồ Tát lấy chỗ nào để hướng đến?)

 

Thế nào là đại Bồ Tát vì muốn làm chỗ tới cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Đại Bồ Tát mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn vì hữu tình giảng giải, chỉ bày sắc nên lấy hư không làm chỗ hướng đến; thọ, tưởng, hành, thức lấy hư không làm chỗ hướng đến tới. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí lấy hư không làm chỗ hướng đến; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí lấy hư không làm chỗ hướng đến. Vì tất cả pháp đều như hư không, vô sở hữu nên đại Bồ Tát muốn vì hữu tình giảng giải, chỉ bày sắc chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chẳng có chỗ hướng đến. Vì sao? Vì tánh của sắc là Không. Trong Không chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải không có chỗ hướng đến. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chẳng có chỗ hướng đến. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là Không. Trong Không chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải không chỗ hướng đến. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chẳng có chỗ hướng đến. Vì sao? Vì tánh của Nhất thiết trí là Không. Trong Không chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải không có chỗ hướng đến. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải chẳng có chỗ hướng đến. Vì sao? Vì tánh của Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là Không. Trong Không chẳng phải chỗ hướng đến, chẳng phải không có chỗ hướng đến. Đó là đại Bồ Tát vì muốn làm chỗ hướng đến cho thế gian nên phát tới quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.512, ĐBN)

Vì sao? Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không, vô tướng, vô nguyện làm chỗ hướng đến (2). Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong không, vô tướng, vô nguyện, chỗ hướng đến cùng chẳng hướng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô khởi, vô tác làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong vô khởi, vô tác, hướng đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô sanh, vô diệt làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong vô sanh, vô diệt, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô nhiễm, vô tịnh làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong vô nhiễm, vô tịnh, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô sở hữu làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong vô sở hữu, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy như giấc mộng cho đến như thành Tầm hương làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong mộng cho đến như thành Tầm hương, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô lượng, vô biên làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong vô lượng, vô biên, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy chẳng cho, chẳng giữ làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong chỗ chẳng cho, chẳng giữ ấy, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy chẳng nâng lên, chẳng hạ xuống làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong chẳng nâng lên, chẳng hạ xuống, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không đến, không đi làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong không đến, không đi, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không tăng, không giảm làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy không thể vượt. Vì sao? Vì trong không tăng, không giảm, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không vào, không ra làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong không vào, không ra, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều không lấy không tụ, không tán làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong không tụ, không tán, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không hợp, không lìa làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy chẳng thể vượt. Vì sao? Vì trong không hợp, không lìa, đến cùng chẳng đến đều bất khả đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy ngã cho đến người thấy làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì ngã cho đến người thấy rốt ráo còn vô sở hữu, huống gì trong đây có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô ngã cho đến không người thấy làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì vô ngã cho đến không người thấy rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy thường, lạc, ngã, tịnh làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì thường, lạc, ngã, tịnh rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh còn rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy việc tham, sân, si làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy chẳng thể vượt. Vì sao? Vì việc tham, sân, si rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy việc thấy sở tác làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì việc thấy sở tác rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không động làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì tánh không động rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy năm uẩn làm chỗ hướng tới. Các đại Bồ Tát đối tới như thế chẳng thể vượt. Vì sao? Vì sắc cho đến thức rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy mười hai xứ, mười tám giới làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì mười hai xứ cho đến mười tám giới còn rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy nhãn xúc cho đến ý xúc làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì nhãn xúc cho đến ý xúc rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy sáu thọ làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy sáu giới, làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì địa giới cho đến thức giới rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy bốn duyên làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì nhân duyên cho đến tăng thượng duyên rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy mười hai duyên khởi làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy sáu pháp Ba la mật làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy mười sáu Không làm chỗ hướng đến (Kinh thường nói đến 18 pháp không). Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy bốn Thánh đế, Ba mươi bảy pháp trợ đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì bốn Thánh đế cho đến bốn định vô sắc rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt khỏi. Vì sao? Vì tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy ba môn giải thoát, các Đà la ni, Tam ma địa, năm nhãn, sáu thần thông làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì tam giải thoát môn cho đến lục thần thông rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy Tam thừa, thập địa làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy mười địa Bồ Tát làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt khỏi. Vì sao? Vì đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cho đến Nhất thiết tướng trí hoàn toàn vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, Bồ Tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề làm chỗ hướng đến. Các đại Bồ Tát đối chỗ ấy cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì quả Dự lưu cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề rốt ráo vô sở hữu, huống gì trong ấy còn có chỗ hay không có chỗ có thể đắc.

(Nói gọn, tất cả pháp kể cả pháp Phật rốt ráo vô sở hữu thì làm gì có chỗ hay không có chỗ có thể đắc. Nhưng ngược đời thay, khi nhận chân rằng tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc như thế thì có thể hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề)

 

Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ Tát vì muốn làm chỗ hướng đến cho thế gian, nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

2. Ai là người có thể thâm hiểu Bát Nhã?

(Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Trí Hướng Đến”,

phần sau Q.316 đến phần đầu Q.318, Hội thứ I, ĐBN)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Đối với Bát Nhã thậm thâm này, ai có thể tin hiểu sâu sắc?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đại Bồ Tát nào phát ý đã hằng mong cầu tinh tấn tu hành, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở chỗ chư Phật đã phát thệ nguyện rộng lớn, gieo trồng nhiều căn lành đều đã thành thục, được vô lượng bạn lành hộ niệm, thì mới có thể tin hiểu sâu xa đối với Bát Nhã thậm thâm này.

 

(Bồ Tát dùng tánh nào, tướng nào, trạng nào, mạo nào để tin hiểu Bát Nhã sâu xa?)

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Đại Bồ Tát này dùng tánh nào, tướng nào, trạng nào, mạo nào để tin hiểu sâu xa Bát nhã Ba la mật này?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này dùng tánh điều phục tham, sân, si làm tánh. Dùng tướng xa lìa tham, sân, si làm tướng. Dùng trạng xa lìa tham, sân, si làm trạng. Dùng mạo xa lìa tham, sân, si làm mạo.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này dùng tánh điều phục tham, sân, si và không tham, sân, si làm tánh. Dùng tướng xa lìa tham, sân, si và không tham, sân, si làm tướng. Dùng trạng xa lìa tham, sân, si và không tham, sân, si làm trạng. Dùng mạo xa lìa tham, sân, si và không tham, sân, si làm mạo.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát nào thành tựu tánh, tướng, trạng, mạo như thế mới có thể tin hiểu sâu xa Bát Nhã thâm sâu này.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu tin hiểu sâu xa Bát Nhã thậm thâm này thì đại Bồ Tát này sẽ đạt tới chỗ nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy sẽ đạt tới Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu đại Bồ Tát đạt tới Nhất thiết trí trí thì vị ấy thường làm chỗ quay về cho các hữu tình chăng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đối với Bát Nhã thậm thâm này, nếu đại Bồ Tát tin hiểu sâu xa thì đạt tới Nhất thiết trí trí. Nếu đạt tới Nhất thiết trí trí thì làm chỗ quay về cho các hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Đại Bồ Tát này thường làm việc khó. Gọi là mặc áo mũ kiên cố như vậy và nói rằng, ta sẽ độ thoát tất cả hữu tình, khiến họ chứng đắc Niết bàn cứu cánh. Mặc dù làm việc như vậy nhưng hoàn toàn không thấy có hữu tình để an lập?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này đã mặc áo, đội mũ không thuộc sắc cho đến thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều rốt ráo vô sở hữu, chẳng phải Bồ Tát, chẳng phải áo mũ, nên nói áo mũ kia không thuộc sắc cho đến thức. Như vậy, cho đến đại Bồ Tát này đã mặc áo, đội mũ không thuộc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đều rốt ráo vô sở hữu, chẳng phải Bồ Tát, chẳng phải áo mũ, nên nói áo mũ kia không thuộc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Đại Bồ Tát này đã mặc áo, đội mũ không thuộc ngã cho đến người thấy. Vì sao? Vì ngã cho đến người thấy đều rốt ráo vô sở hữu, chẳng phải Bồ Tát, chẳng phải áo mũ, nên nói áo mũ kia không thuộc ngã cho đến người thấy. Đại Bồ Tát này đã mặc áo, đội mũ không thuộc tất cả pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp đều rốt ráo vô sở hữu, chẳng phải Bồ Tát, chẳng phải áo mũ, nên nói áo mũ kia không thuộc tất cả pháp.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này tu hành Bát Nhã thâm sâu như thế nên thường mặc áo, đội mũ bền chắc này, và nói ta sẽ độ tất cả hữu tình khiến họ đều chứng đắc Niết bàn cứu cánh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu đại Bồ Tát năng mặc áo mũ bền chắc như thế, rằng ta sẽ độ tất cả hữu tình đều khiến chứng được Niết bàn ấy, chẳng rơi vào hàng Thanh văn và bậc Độc giác. Đại Bồ Tát này đối Thanh văn hoặc bậc Độc giác thảy không xứ, không dung đọa được. Sở dĩ vì sao? Đại Bồ Tát này đối hữu tình chẳng an lập phần hạn mà mặc áo mũ bền chắc như thế.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ông dựa vào đâu mà nói, nếu đại Bồ Tát mặc áo, đội mũ bền chắc như thế chẳng rơi vào hàng Thanh văn hoặc bậc Độc giác?

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này chẳng phải vì độ thoát một số hữu tình mà mặc áo, đội mũ bền chắc như thế, cũng chẳng phải vì mong cầu một ít trí mà mặc áo, đội mũ bền chắc như thế. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này cứu độ khắp tất cả hữu tình, khiến họ vào Niết bàn mà mặc áo, đội mũ bền chắc như thế; chỉ vì cầu được Nhất thiết trí trí mà mặc áo, đội mũ bền chắc như thế. Do nhân duyên này nên chẳng rơi vào hàng Thanh văn và bậc Độc giác.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Đại Bồ Tát này vì cứu vớt khắp tất cả hữu tình khiến họ vào Niết bàn, chỉ vì cầu được Nhất thiết trí trí mà mặc áo, đội mũ bền chắc như thế. Do nhân duyên này nên chẳng rơi vào hàng Thanh văn và bậc Độc giác.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Như vậy, Bát nhã Ba la mật rất là sâu xa, không người tu, không pháp để tu, cũng không chỗ để tu, cũng không phải do đây mà được tu tập. Vì sao? Vì chẳng phải trong ý nghĩa sâu xa của Bát Nhã thậm thâm này mà có một chút pháp thật nào để gọi là người tu và pháp để tu, hoặc chỗ tu tập, hoặc do đây mà tu. Bạch Thế Tôn! Như tu hư không là tu Bát nhã Ba la mật. Hoặc tu tất cả pháp là tu Bát nhã Ba la mật. Hoặc tu pháp không thật là tu Bát nhã Ba la mật. Hoặc tu vô sở hữu là tu Bát nhã Ba la mật. Hoặc tu không nhiếp thọ là tu Bát nhã Ba la mật. Hoặc tu trừ khiển là tu Bát nhã Ba la mật.

Phật hỏi:

- Thiện Hiện! Tu trừ khiển pháp nào là tu Bát nhã Ba la mật?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Tu trừ khiển năm uẩn là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển sáu nội xứ là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển sáu ngoại xứ là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển sáu nội giới là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển sáu ngoại giới là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển sáu thức giới là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển sáu xúc là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển sáu thọ là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển sáu giới là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ bỏ bốn duyên là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ bỏ mười hai duyên khởi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển ngã cho đến người thấy là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng ra, tu trừ khiển tất cả pháp Phật từ bốn Thánh đế v.v… cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là tu Bát nhã Ba la mật.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nếu đại Bồ Tát tu trừ khiển sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí là tu Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nên có thể dựa vào Bát Nhã thậm thâm này mà nghiệm biết đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật mà không chấp trước, thì phải biết đó là đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Nói rộng, cho đến nếu đại Bồ Tát tuy hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà không chấp trước thì nên biết đó là đại Bồ Tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các đại Bồ Tát Bất thối chuyển khi hành sâu Bát Nhã, không chấp nhận lời nói và sự chỉ dạy của người khác là quan trọng, chẳng tin vào lời người khác mà hành động, không bị tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn làm tạp nhiễm, cũng chẳng bị lôi kéo. Có đại Bồ Tát Bất thối chuyển chẳng lìa bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật khi hành sâu Bát Nhã. Có các đại Bồ Tát Bất thối chuyển khi hành sâu Bát Nhã, nghe thuyết về Bát Nhã thậm thâm này, tâm họ chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng sửng sốt, chẳng hoang mang, chẳng thối lui sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đối với Bát Nhã thậm thâm, hoan hỷ, ưa nghe, thọ trì, đọc tụng, thông suốt một cách rốt ráo, chú tâm suy nghĩ, như thuyết tu hành, thường không nhàm chán, mệt mỏi. Nên biết đại Bồ Tát Bất thối chuyển này đời trước đã nghe nhiều về nghĩa lý Bát Nhã thậm thâm, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, tinh tấn tu hành, tâm không chán mỏi. Vì sao? Vì do đại Bồ Tát này nghe thuyết Bát Nhã thậm thâm như thế, tâm chẳng kinh khiếp, chẳng khủng, chẳng sợ, nói rộng cho đến như thuyết tu hành thường không nhàm chán, mỏi mệt.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu đại Bồ Tát nghe thuyết Bát Nhã thậm thâm này, tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng sửng sốt, chẳng hoang mang, chẳng thối lui sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với Bát Nhã thậm thâm vui vẻ, ưa nghe, thọ trì, đọc tụng, thông suốt rốt ráo, chú tâm suy nghĩ, như thuyết tu hành thường không nhàm mỏi, thì đại Bồ Tát này làm sao tu hành Bát Nhã thậm thâm?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này liên tục tùy thuận hướng vào Nhất thiết trí trí, là tu hành Bát Nhã thậm thâm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Đại Bồ Tát này làm sao tùy thuận liên tục hướng vào Nhất thiết trí trí khi tu hành Bát Nhã thậm thâm?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Khi hành sâu Bát Nhã, nếu đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng không, vô tướng, vô nguyện, hư không, vô sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, không tạo, không tác, như giấc mộng cho đến như thành Tầm hương, thì đó là đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng vào Nhất thiết trí trí khi hành sâu Bát Nhã.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Như lời Thế Tôn dạy, nếu đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng vào không, vô tướng, vô nguyện, nói rộng cho đến như thành Tầm hương khi hành sâu Bát Nhã, thì đó là đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng vào Nhất thiết trí trí khi hành sâu Bát Nhã. Đại Bồ Tát này khi hành sâu Bát Nhã là hành năm uẩn cho đến Nhất thiết trí trí chăng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy không hành năm uẩn cho đến Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này liên tục tùy thuận hướng vào Nhất thiết trí trí, không người nào làm được, không kẻ nào phá hoại được, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không có chỗ trụ, không phương hướng, không bờ cõi, không số, không lượng, không qua, không lại. Đã không thể nắm bắt số lượng, qua lại, thì cũng không có năng chứng.

Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí như vậy không thể dùng năm uẩn chứng được, nói rộng cho đến không thể dùng Nhất thiết tướng trí chứng được. Vì sao? Vì năm uẩn tức là Nhất thiết trí trí, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí tức là Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì hoặc năm uẩn như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều là một như, không hai, không khác. Nói rộng, cho đến hoặc Nhất thiết tướng trí như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như đều là một như, không hai, không khác. Thế nên, Nhất thiết trí trí không thể đem năm uẩn chứng được, nói rộng cho đến không thể đem Nhất thiết tướng trí chứng được.

 

Thích nghĩa:

(1). “Thiện Hiện! Đại Bồ Tát muốn làm cho những hữu tình đi theo tà đạo phải xa lìa bốn chỗ không nên đi, và chỉ cho họ con đường duy nhất để quay về nẻo chính”. Cũng như trong Phẩm “Chơn Thiện Hữu”, quyển 311- 316, Hội thứ I. Đoạn kinh này dịch rất khó hiểu nếu không so với bản chữ Hán. Nguyên văn đoạn Kinh này bằng chữ Hán là: Thiện Hiện. Bồ Tát Ma Ha Tát. dục linh thú hướng đạo hữu tình. ly hành tứ chủng bất ưng/ứng hành xứ. vithuyết nhất đạo linh quy chánh cố”. Câu vì “Đại Bồ Tát muốn làm cho những hữu tình đi theo tà đạo phải “xa lìa bốn chỗ không nên đi”. Chữ Hán là ly hành tứ chủng.  Từ “bốn chỗ” dịch từ chữ Hán là tứ chủng, không được chỉnh lắm. Vì vậy, đoạn Kinh này khó giải thích, nếu không so chiếu với bản chữ Hán. Tứ chủng nói đây có nghĩa là tứ chủng chướng (四種障) là bốn thứ chướng đạo gồm: Duyên tướng, Nhân tướng, Sanh tướng và Hoại tướng. Có thể dịch là “Phật nói: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát thấy hữu tình sa vào tà đạo, khuyến hữu tình lìa tứ chủng chướng chẳng nên hành, nên thuyết nhất đạo khiến quay về nẻo chánh”. Dịch như vậy, đúng và dễ hiểu hơn?

(2). Tất cả pháp đều lấy không, vô tướng, vô nguyện “làm chỗ hướng đến”. Các bản dịch khác, dịch là tất cả pháp đều lấy không, vô tướng, vô nguyện “làm tới” hay “làm đích”.

 

Sơ giải:

 

1. Phần đầu của Phẩm này nói ai có thể là bạn lành chân tịnh?

Phẩm “bạn Lành” của Hội thứ III này tương đương với phẩm“Chơn Thiện Hữu”, phần sau quyển 313 đến phần đầu quyển 316, Hội thứ I hay tương đương với phẩm “Sơ Nghiệp”, phần sau quyển 445 cho đến phần đầu quyển 446, Hội thứ II. Phẩm này dễ hiểu. Kinh bảo: Các đại Bồ Tát thường làm việc khó làm, ở trong tất cả pháp tự tướng không, như huyễn như mộng cho đến như thành bằng hương khói mà mong cầu và muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đểvì thế gian được nghĩa lợi, vì muốn cho thế gian được lợi ích, vì muốn cho thế gian được an lạc, vì muốn cứu vớt các thế gian, vì muốn làm cho thế gian quay về nương tựa, vì muốn làm nhà ở cho thế gian, vì muốn chỉ đường cứu cánh cho thế gian, vì muốn làm hòn đảo cho thế gian, vì làm nhật nguyệt cho thế gian, vì muốn làm đuốc sáng cho thế gian, vì muốn làm đạo sư cho thế gian, vì muốn làm tướng soái cho thế gian, vì muốn làm chỗ tới cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Ai cũng có thể hiểu các lý do. Nên chúng ta không cần lặp lại.

Câu hỏi Bồ Tát lấy chỗ nào để hướng đến? Câu trả lời có vẻ nghịch đảo trong tư duy hữu ngã của con người trần tục, nhưng lại là câu có thể kích động tâm thức của những ai tu Bát Nhã muốn cầu muốn chứng. Tất cả pháp kể cả pháp Phật rốt ráo vô sở hữu thì làm gì có chỗ đắc hay không đắc. Nhưng ngược đời thay, khi nhận chân rằng tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc, phủi sạch hết tất cả, thì có thể hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, Phật bảo:

- “Thiện Hiện! Khi hành sâu Bát Nhã, nếu đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng không, vô tướng, vô nguyện, hư không, vô sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, như chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, không tạo, không tác, như giấc mộng cho đến như thành Tầm hương, thì đó là đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng vào Nhất thiết trí trí khi hành sâu Bát Nhã”.

 

2. Ai có thể tin hiểu Bát Nhã?

 

“Phật bảo Thiện Hiện:

- Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này dùng tánh điều phục tham, sân, si và không tham, sân, si làm tánh. Dùng tướng xa lìa tham, sân, si và không tham, sân, si làm tướng. Dùng trạng xa lìa tham, sân, si và không tham, sân, si làm trạng. Dùng mạo xa lìa tham, sân, si và không tham, sân, si làm mạo.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát nào thành tựu tánh, tướng, trạng, mạo như thế mới có thể tin hiểu sâu xa Bát Nhã thâm sâu này”.

Một khi tin hiểu Bát Nhã thì có thể hành sâu Bát Nhã để thành tựu Giác ngộ và chứng Nhất thiết trí trí, mới có cơ hội làm chỗ quay về cho các hữu tình.

Muốn được như thế Phật dạy rằng:

- (…) “Khi hành sâu Bát Nhã, nếu đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng đến không, vô tướng, vô nguyện, hư không, vô sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, không tạo, không tác, như giấc mộng cho đến như thành Tầm hương, thì đó là đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng vào Nhất thiết trí trí khi hành sâu Bát Nhã”./.

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15921)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 9801)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 15492)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 16228)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 12938)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 12005)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 18186)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 14810)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 11440)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 11345)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]