Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

63. Phẩm "Kiên Cố, Chẳng Kiên Cố"

05/09/202018:33(Xem: 10177)
63. Phẩm "Kiên Cố, Chẳng Kiên Cố"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-453



PHẨM "KIÊN CỐ, CHẲNG KIÊN CỐ"

Cuối quyển 456 đến đầu quyển 457, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm "Nguyện Dụ", phần sau Q.342 đến đầu Q.346, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu


Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật là thực hành pháp kiên cố(1) hay thực hành pháp chẳng kiên cố.

Thiện Hiện đáp:

- Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật là thực hành pháp chẳng kiên cố. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật cho đến bố thí chẳng phải là pháp bền chắc; pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không chẳng phải là pháp bền chắc; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải là pháp bền chắc; Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng phải là pháp bền chắc; nói chung cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng phải là pháp bền chắc; Nhất thiết trí trí cũng chẳng phải là pháp bền chắc. Vì sao? Vì lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu, đối với Bát Nhã thẳm sâu đại Bồ Tát không thấy có sự chẳng bền chắc nào có thể nắm bắt được huống gì thấy có sự bền chắc có thể nắm bắt. Như vậy, cho đến lúc thực hành Nhất thiết trí trí, đối với Nhất thiết trí trí sự chẳng bền chắc còn không thấy, huống gì là thấy có sự bền chắc có thể nắm bắt.

Khi ấy, có vô lượng trời cõi Dục, cõi Sắc đều khởi nghĩ này: Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thực hành nghĩa lý Bát Nhã thậm sâu đã nói chẳng chứng thật tế bình đẳng pháp tánh, không dừng lại ở địa vị Thanh văn và bậc Độc giác. Do nhân duyên này các thiện nam, thiện nữ đây rất là hiếm có, năng làm việc khó, đáng nên kính lễ.

Khi ấy, biết ý nghĩ của chư thiên, Thiện Hiện liền bảo họ:

- Thiện nam, thiện nữ này không chứng thật tế bình đẳng pháp tánh, không dừng lại ở địa vị Thanh văn, Độc giác thì chẳng phải hiếm có, cũng chưa phải là việc khó làm. Đại Bồ Tát nào biết tất cả pháp và các hữu tình đều bất khả đắc nhưng vẫn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc giáp bị tinh tấn, nguyện độ vô lượng, vô biên hữu tình giúp họ nhập vào cảnh giới Vô dư bát Niết bàn thì đại Bồ Tát này mới thật hiếm có, năng làm được việc khó làm.

Chư thiên nên biết! Đại Bồ Tát nào tuy biết hữu tình đều vô sở hữu nhưng vẫn phát tâm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc giáp bị tinh tấn, muốn giáo hóa các loài hữu tình như muốn điều phục hư không. Vì sao? Vì hư không viễn ly nên tất cả hữu tình cũng viễn ly, do hư không là không nên biết các hữu tình cũng là không, do hư không chẳng chắc thật nên biết các hữu tình chẳng chắc thật, do hư không vô sở hữu nên biết các hữu tình cũng vô sở hữu, do đó đại Bồ Tát này mới thật hiếm có, có thể làm được việc khó làm.

Chư thiên nên biết! Đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại bi vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình đều vô sở hữu giống như có người mặc giáp bị đánh nhau với hư không.

Chư thiên nên biết! Vì muốn làm lợi lạc tất cả hữu tình, đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại bi nhưng các hữu tình và giáp bị đại bi đều bất khả đắc. Vì sao? Vì hữu tình lìa nên biết được giáp bị đại bi cũng lìa, vì hữu tình là không nên biết áo giáp đại bi cũng không, vì hữu tình không chắc thật nên biết giáp bị đại bi cũng không chắc thật, vì hữu tình vô sở hữu nên biết giáp bị đại bi cũng vô sở hữu.

Chư thiên nên biết! Việc giáo hóa, làm lợi lạc hữu tình của các đại Bồ Tát cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hữu tình là lìa, là không, là chẳng chắc thật, là vô sở hữu, nên biết được việc giáo hóa, lợi lạc cũng là lìa, là không, là chẳng chắc thật, là vô sở hữu.

Chư thiên nên biết! Đại Bồ Tát này cũng vô sở hữu. Vì sao? Vì hữu tình là lìa, không, chẳng chắc thật, vô sở hữu nên biết được Bồ Tát cũng lìa, không, chẳng chắc thật, vô sở hữu. (Q. 456, ĐBN)

Chư thiên nên biết! Đại Bồ Tát nào nghe việc như vậy mà không kinh sợ, không buồn rầu, không hối hận, hoang mang, không thối lui thì nên biết đó là đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu. Vì sao? Vì sắc lìa tức là hữu tình lìa, thọ, tưởng, hành, thức lìa tức là hữu tình lìa; mười hai xứ cho đến mười tám giới lìa tức là hữu tình lìa; nhãn xúc cho đến ý xúc lìa tức là hữu tình lìa; các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra lìa tức là hữu tình lìa; địa giới cho đến thức giới lìa tức là hữu tình lìa; bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật lìa tức là hữu tình lìa; pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không lìa tức là hữu tình lìa; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì lìa tức là hữu tình lìa; nói rộng ra, tất cả pháp Phật lìa tức là hữu tình là.

Chư thiên nên biết: Các sắc viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly. Như vậy, cho đến sắc viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Mười hai xứ viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly. Mười tám giới viễn ly tức bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly. Như vậy, cho đến sáu trần, mười hai xứ, mười tám giới viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Nhãn xúc viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly. Như vậy, cho đến nhãn xúc viễn ly tức là Nhất thiết trí trí; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Thọ do nhãn xúc viễn ly tức là bố thí, cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly. Như vậy, cho đến các thọ do nhãn xúc viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Địa giới viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly; thủy, hỏa, phong, không, thức giới viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến địa giới viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly; thủy, hỏa, phong, không, thức giới viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Bố thí Ba la mật viễn ly tức là nội Không cho đến vô tính tự tính Không viễn ly; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật viễn ly tức là nội không cho đến vô tính tự tính không viễn ly. Như vậy, cho đến bố thí Ba la mật viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Pháp nội không viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly; pháp ngoại không, cho đến vô tính tự tính không viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly. Như vậy, cho đến pháp nội không viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly; pháp ngoại không cho đến vô tính tự tính không viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Chơn như viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly. Như vậy, cho đến chơn như viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Nói rộng ra, tất cả pháp Phật viễn ly tức là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật viễn ly. Như vậy, tất cả pháp Phật viễn ly tức là Nhất thiết trí trí viễn ly.

Chư thiên nên biết: Đại Bồ Tát nào nghe nói tất cả pháp đều viễn ly mà chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng buồn chẳng hối, chẳng thối, chẳng chìm… thì nên biết đó là Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, Thế Tôn hỏi Thiện Hiện:

- Do đâu mà các đại Bồ Tát chẳng buồn chẳng hối, chẳng thối, chẳng chìm… đối với Bát nhã Ba la mật?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp đều chẳng có vậy, đều xa lìa vậy, đều vắng lặng vậy, vô sở hữu vậy, chẳng sanh diệt vậy, nên các đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu chẳng thối, chẳng chìm… đối với Bát nhã Ba la mật.

Bạch Thế Tôn! Vì các lý do như vậy nên các đại Bồ Tát chẳng buồn, chẳng hối, chẳng thối, chẳng chìm… đối với Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Các Bồ Tát đối tất cả pháp, hoặc năng thối chìm, hoặc sở thối chìm, hoặc thời thối chìm, hoặc xứ thối chìm, hoặc kẻ thối chìm, hoặc do đây thối chìm đều bất khả đắc. Vì tất cả bất khả đắc vậy!

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng buồn chẳng hối, chẳng thối, chẳng chìm… thì nên biết đó là đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bồ Tát này quán tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng thể thi thiết đây năng thối chìm, đây sở thối chìm, đây thời thối chìm, đây xứ thối chìm, đây kẻ thối chìm, do đây thối chìm… Vì nhân duyên này các đại Bồ Tát nghe thuyết như thế, nơi tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng buồn chẳng hối, chẳng thối chẳng chìm…

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào có thể thực hành Bát Nhã thẳm sâu như vậy thì thường được chư Thiên, Đế Thích, Đại Phạm thiên vương, chúa tể của chúng sanh cùng nhau lễ kính.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào có thể thực hành Bát Nhã thẳm sâu như vậy thì chẳng những thường được chư Thiên, Đế Thích, Đại Phạm thiên vương, chúa tể của chúng sanh cùng nhau lễ kính, mà còn hơn thế nữa: Trời Cực Quang Tịnh, hoặc trời Biến Tịnh, hoặc trời Quảng Quả, hoặc trời Tịnh Cư và chư Thiên khác thường cùng nhau kính lễ vị ấy. Đại Bồ Tát này cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp ở mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới luôn luôn cùng nhau hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Do đại Bồ Tát này có thể thực hành Bát Nhã thẳm sâu như vậy nên khiến cho bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn; cũng làm cho nội không, cho đến vô tính tự tính không mau được viên mãn; cũng làm cho chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì mau được viên mãn; cũng làm cho tứ Thánh đế đến ba mươi bảy pháp trợ đạo mau được viên mãn; cũng làm cho bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc mau được viên mãn; cũng làm cho tám giải thoát cho đến mười biến xứ mau được viên mãn; nói chung   cũng làm cho Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mau được viên mãn; cũng làm cho tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật mau được viên mãn; cũng làm cho Nhất thiết trí trí mau được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát nào có thể thực hành Bát Nhã thẳm sâu này thì thường được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các vị đại Bồ Tát cùng nhau hộ niệm và có thể mau chóng viên mãn tất cả công đức. Đại Bồ Tát này sẽ đi đường chư Phật đã đi và hành đúng các hạnh mà chư Phật đã hành. Đại Bồ Tát này chẳng khác Phật Thế Tôn.

Thiện Hiện nên biết! Tâm hạnh của đại Bồ Tát này rất kiên cố. Giả sử tất cả hữu tình ở các thế giới chư Phật khắp mười phương nhiều như số cát sông Hằng đều là ác ma; mỗi mỗi ác ma lại hóa ra vô số ác ma; các ác ma này đều có vô lượng, vô biên thần lực và tất cả thần lực của các ác ma này cũng không thể làm chướng ngại việc thực hành Bát Nhã thẳm sâu và việc chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của đại Bồ Tát ấy. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đã đạt được phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, thông đạt tất cả các pháp đều bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thành tựu hai pháp sau đây thì tất cả ác ma không thể làm chướng ngại việc thực hành Bát Nhã thẳm sâu và việc chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hai pháp đó là:

- Một là quán các pháp đều tất cánh không (2);

- Hai là không xả bỏ tất cả hữu tình.

 

(Để giải thích chỗ này, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 65, “Độ Hư Không”, tập 4, quyển 78, nói rằng:

“Trong chúng hội có nhiều người khởi tâm nghi, chẳng hiểu vì nhân duyên gì mà Bồ Tát có đại lực, khiến chúng ma chăng phá hoại được, Phật nêu lên 2 nhân duyên làm cho Bồ Tát có đại lực, khiến các ác ma chẳng phá hoại được. Đó là:

- Bồ Tát thường quán các pháp không.

- Bồ Tát chẳng xả bỏ chúng sanh.

Phải có đủ mặt trời lẫn mặt trăng, thì vạn vật mới sanh trưởng được. Nếu chỉ có mặt trăng mà chẳng có mặt trời, thì vạn vật sẽ bị ẩm ướt, khiến phải bị hư hoại. Nếu chỉ có mặt trời mà chăng có mặt trăng, thì vạn vật sẽ bị thiêu cháy, khiến phải bị hư hoại.

Nếu mặt trăng và mặt trời hòa hợp, thì vạn vật mới được thâm nhuận lợi lạc.

Cũng như vậy, trong khi hành Bồ Tát đạo, Bồ Tát phải khéo hòa hợp “bi tâm” và “không tâm” mới đem lại đại lợi ích cho chúng sanh.

Có “bi tâm” mới lân mẫn chúng sanh, mới thệ nguyện độ hết thảy chúng sanh. Có “không tâm” mới diệt được tâm chấp có lân mẫn, có độ thoát chúng sanh. Vì sao? Vì nếu chỉ có “bi tâm” mà chẳng có “không tâm”, chẳng dùng trí huệ để xả tâm chấp có lân mẫn, có cứu độ chúng sanh thì sẽ rơi về đoạn diệt. Bởi vậy nên Phật dạy: “Phải song tu cả hai
tâm”, nghĩa là phải thường xuyên quán hết thảy pháp đều là không, mà chẳng rời bỏ chúng sanh. Tuy lân mẫn chúng sanh, mà chẳng rời bỏ hết thảy pháp không; tuy quán hết thảy pháp không, mà chẳng chấp không; vì chẳng chấp không, nên chẳng ngại việc lân mẫn chúng sanh.

Lại nữa, quán lân mẫn chúng sanh, mà chẳng chấp chúng sanh, chẳng chấp tướng chúng sanh, mà chỉ vì lân mẫn chúng sanh, muốn dẫn dắt chúng sanh vào nơi thật tướng pháp, vào nơi rốt ráo không.

Bởi vậy nên, tuy hành “bi tâm”, lân mẫn chúng sanh, mà chẳng ngăn ngại “không tâm”; tuy hành “không tâm” mà chẳng chấp “không”, nên chăng ngăn ngại “bi tâm”, chẳng ngăn ngại việc lân mẫn chúng sanh. Ví như mặt trăng và mặt trời hòa họp với nhau khiến vạn vật được sanh tồn và tăng trưởng vậy”).

 

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nếu thành tựu hai pháp sau đây thì tất cả ác ma không thể gây chướng ngại việc thực hành Bát Nhã thẳm sâu và việc chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hai pháp đó là:

- Một là có thể thực hiện tất cả những điều đã nói; và

- Hai là thường được chư Phật hộ niệm.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào có thể thực hành Bát Nhã thẳm sâu này thì các trời, thần… thường đến lễ lạy, thân cận, cúng dường, thưa hỏi, khuyến khích và nói: Lành thay Đại sĩ! Muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải siêng năng trụ ở pháp không, vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Đại sĩ! Vì đại Bồ Tát nào siêng năng trụ không, vô tướng, vô nguyện thì làm nơi nương tựa cho tất cả hữu tình không chỗ nương tựa, làm nơi nương về cho tất cả hữu tình không chỗ nương về, làm cứu hộ cho kẻ không được cứu hộ, làm nơi hướng đến cho người không nơi hướng đến, làm cồn bãi cho kẻ trôi nổi, làm nhà cửa cho kẻ vô gia cư, làm ánh sáng cho người tối tăm, làm tai mắt cho người đui điếc. Vì sao? Đại sĩ! Vì trụ pháp không, vô tướng, vô nguyện như vậy tức là an trụ trong Bát Nhã thẳm sâu. Người nào có thể an trụ trong Bát Nhã thẳm sâu thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào có thể an trụ Bát Nhã thẳm sâu này thì liền được vô lượng, vô số, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong đời hiện tại ở mười phương, lúc nói chánh pháp ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng ca ngợi, nêu tên tuổi dòng họ và công đức của đại Bồ Tát này, đó là công đức vi diệu của việc an trụ Bát Nhã thẳm sâu.

Thiện Hiện nên biết! Giống như hôm nay ta vì đại chúng tuyên thuyết Bát Nhã thẳm sâu, ở trước đại chúng tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên tuổi dòng họ và công đức của các đại Bồ Tát như đại Bồ Tát Bảo Tràng, đại Bồ Tát Đảnh Kế đang ở chỗ Phật Bất Động trong hiện tại tu phạm hạnh thanh tịnh, an trụ trong Bát Nhã thẳm sâu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở các thế giới chư Phật mười phương nhiều như số cát sông Hằng cũng vì chúng tuyên thuyết Bát Nhã thẳm sâu. Nơi đó cũng có các đại Bồ Tát tu phạm hạnh thanh tịnh, an trụ Bát Nhã thẳm sâu. Các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy đều ở trước chúng, tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên tuổi dòng họ và các công đức của đại Bồ Tát ấy. Đó là công đức vi diệu của việc an trụ Bát Nhã thẳm sâu. Vì sao? Thiện Hiện! Vì đại Bồ Tát này có thể làm việc khó làm, không đoạn mất giống Phật, làm lợi ích hữu tình.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lúc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói chánh pháp ở trước đại chúng, những đại Bồ Tát nào được các Ngài tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên tuổi, dòng họ và công đức, đó là những vị đã đạt được địa vị bất thối chuyển hay những vị chưa đạt được?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có đại Bồ Tát trụ nơi địa vị bất thối chuyển, tu hành Bát Nhã, được chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên tuổi, dòng họ và các công đức của họ khi các Ngài nói chánh pháp ở trước đại chúng. Lại có đại Bồ Tát tuy chưa được thọ ký nhưng thực hành Bát Nhã thì cũng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên tuổi, dòng họ và các công đức của họ.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Điều Ngài vừa nói là ám chỉ những Bồ Tát nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có đại Bồ Tát học tập theo những việc của Phật Bất Động đã làm khi Ngài còn là Bồ Tát và đạt được an trụ vào địa vị bất thối chuyển thì được các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên ca ngợi tán thán tên tuổi, dòng họ và các công đức khi các Ngài nói chánh pháp ở trước đại chúng. Lại có đại Bồ Tát học tập các việc làm của đại Bồ Tát Bảo Tràng, đại Bồ Tát Đảnh Kế, tuy chưa được thọ ký nhưng nhờ siêng năng thực hành Bát Nhã thẳm sâu nên cũng được các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên tuổi, dòng họ và các công đức.

Lại nữa Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh vô sanh của tất cả các pháp nhưng chưa chứng đắc vô sanh pháp nhẫn; tuy tin hiểu sâu sắc đối với Bát Nhã thẳm sâu nhưng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn; tuy tin hiểu sâu sắc tánh rốt ráo không, tánh hoàn toàn vắng lặng, tánh viễn ly, tánh hư vọng của tất cả các pháp nhưng chưa chứng đắc vô sanh pháp nhẫn; tuy tin hiểu sâu sắc tánh của tất cả pháp đều là không, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh vô sở hữu của tất cả pháp, tuy tin hiểu sâu sắc đối với tánh chẳng tự tại của tất cả pháp, đối với tánh không chắc thật của tất cả pháp nhưng chưa đạt được vô sanh pháp nhẫn. Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát như vậy cũng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên tuổi, dòng họ, các công đức.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên hoan hỷ ca ngợi tán thán tên tuổi, dòng họ và các công đức khi các Ngài thuyết chánh pháp ở trước đại chúng thì đại Bồ Tát đó vượt địa vị Thanh văn, Độc giác và chắc chắn đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thực hành Bát nhã Ba la mật được các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự nhiên vui mừng ca ngợi tán thán tên tuổi, dòng họ và các công đức khi các Ngài thuyết pháp trước đại chúng thì đại Bồ Tát đó chắc chắn sẽ an trụ ở địa vị bất thối chuyển. Sau khi đã an trụ ở địa vị đó sẽ mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Chẳng ai trụ trong như mà chứng Vô Thượng Bồ đề)

 

Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ Bồ Tát thừa khi nghe Bát Nhã thẳm sâu này không nghi ngờ, không mê lầm, tin hiểu sâu sắc, không sanh phỉ báng còn đạt được vô số thiện căn vi diệu huống gì thọ trì đọc tụng thông suốt, nương lý như buộc niệm suy nghĩ, an trụ như(3), tinh siêng tu học thì thiện nam, thiện nữ này sẽ mau an trụ địa vị bất thối chuyển và mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ chúng hữu tình.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật tánh của các pháp trọn không thể nắm bắt thì làm sao có thể nói các đại Bồ Tát an trụ như siêng năng tu học sẽ mau an trụ địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ chúng hữu tình?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như Phật sở hóa (hóa Phật) an trụ như Bồ Tát hạnh thì sẽ mau an trụ vào địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình; cũng lại như vậy. Các đại Bồ Tát an trụ vào như, tu Bồ Tát hạnh thì sẽ mau an trụ vào địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Như Lai hóa hiện đều vô sở hữu, pháp lìa như cũng bất khả đắc, vậy ai trụ như tu Bồ Tát hạnh, ai sẽ an trụ bậc Bất thối chuyển, ai chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ai quay xe pháp, thuyết những pháp gì, độ chúng sanh nào? Như còn không thể nắm bắt được, huống gì an trụ như tu Bồ Tát hạnh sẽ mau an trụ bậc bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ chúng hữu tình. Đây nếu thật có, tất không lẽ ấy?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy. Đúng như lời ông nói! Việc hóa hiện của Như Lai đều vô sở hữu, pháp lìa như cũng bất khả đắc, thì ai trụ như tu Bồ Tát hạnh, ai sẽ an trụ địa vị bất thối chuyển, ai chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ai chuyển pháp luân, nói những pháp gì và độ chúng sanh nào. Thiện Hiện! Như còn bất khả đắc huống gì việc an trụ vào như tu Bồ Tát hạnh để mau an trụ vào địa vị bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ chúng hữu tình thì điều này chắc chắn không thể có được. Vì sao? Thiện Hiện! Dù chư Phật có ra đời hay không ra đời thì các pháp vẫn như vậy, không lìa như nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Thiện Hiện! Chắc chắn không có việc an trụ như tu Bồ Tát hạnh nói rộng cho đến độ chúng hữu tình. (Q.457, ĐBN)

Thiện Hiện! Như của các pháp không sanh không diệt cũng không trụ, không thể nắm bắt dù một phần nhỏ nhiệm. Thiện Hiện! Nếu pháp không sanh không diệt cũng không trụ, không thể nắm bắt được. Vậy thì ai trụ trong đó tu Bồ Tát hạnh, ai sẽ an trụ địa vị bất thối chuyển, ai chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ai chuyển pháp luân, nói những pháp gì, cứu độ chúng sanh nào. Ở trong đó tất cả đều vô sở hữu. Tất cả những điều đó chắc chắn không có. Chỉ dựa vào thế tục mà giả bày ra!

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này rất thậm thâm, khó giác, khó biết. Các đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật tuy biết các pháp đều bất khả đắc nhưng vẫn cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và muốn giải bày chánh pháp cho các hữu tình, đó là việc rất khó làm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chắc chắn không có việc an trụ như tu Bồ Tát hạnh chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và nói chánh pháp cho các hữu tình nhưng các đại Bồ Tát vẫn thực hành Bát nhã Ba la mật, quán tất cả các pháp đều vô sở hữu, không kinh sợ, nghi ngờ ngăn trệ, hoang mang thối lui, cũng không mê muội… đối với pháp tánh sâu xa, đó là điều rất hiếm có.

 

(Để giải thích đoạn kinh này, Đại Trí Độ Luận nói:

“Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu hết thảy pháp đều là không tướng, đều là bất khả đắc, thì vì sao nói Bồ Tát trú trong “như” tức là trú trong Nhất thiết chủng trí?

Phật dạy: Bồ Tát trú trong “như”, mà “như” là không; trú trong “như” là trú trong rốt ráo không. Bởi vậy nên nói Bồ Tát trú trong “như” là trú trong Nhất thiết chủng trí.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Trừ “như” ra, thì chẳng có pháp nào khả đắc cả. Như vậy thì ai trú trong “như” sẽ được Vô Thượng Bồ Đề? Thật là vô lý vậy.

Phật ấn chứng lời nói của Tu Bồ Đề: “Như” là không, vì trong “như” chẳng có các tướng “sanh, trú, dị, diệt”. Nếu chẳng có các tướng “sanh, trú, dị, diệt”, thì chẳng có ai trú trong như; chẳng có ai trú trong như rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề; chẳng có ai trú trong như, rồi sẽ thuyết pháp vậy.

“Như” đã là bất khả đắc rồi, huống nữa là trú trong “như” để được Vô Thượng Bồ Đề, để thuyết pháp”).

 

Bấy giờ Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Bát nhã Ba la mật như lời ông nói: Các đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu quán tất cả pháp đều vô sở hữu, không kinh sợ, không nghi ngờ ngăn trệ, không hoang mang thối lui, cũng không mê muội… đối với pháp tánh sâu xa. Đó là điều rất là hiếm có.

Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật quán thấy bản tánh các pháp đều không, ở trong pháp không này tất cả đều vô sở hữu, vậy thì ai có thể kinh sợ cho đến mê muội. Vì vậy, việc đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật không kinh sợ, không nghi ngờ ngăn trệ, không hoang mang thối lui, không mê muội… đối với pháp tánh sâu xa cũng chưa phải là hiếm có.

Lúc đó, trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Những điều Đại đức đã nói tất cả đều nương không, vậy nên không ngăn ngại. Ví như lấy tên bắn hư không hoặc xa hoặc gần đều không ngăn ngại. Đại đức đã nói cũng lại như vậy, còn ai có thể dám đối chất.

 

Thích nghĩa:

(1). Kiên cố (C: jiāngù; J: kengo) Có các nghĩa sau: 1- Vững chắc, kiên định; 2- Có một khuynh hướng cố hữu về tính vĩnh cửu (s: anitya-asāra-saṃjñā); 3- Tồn tại cụ thể (s: dhrdha-sāra); 4- Không giảm bớt, không lui sụt, không tái phạm; 5- Dứt khoát. (Từ đin Đạo Uyển và Từ điển Anh-Hán-Việt). Xem lại thích nghĩa phẩm “Khen Pháp Chắc Thật”, phần sau quyển thứ 342, Hội thứ I, ĐBN. Phẩm thứ 65, Đại Trí Độ Luận gọi phẩm này là “Độ Hư Không”, tâp 4, quyển 78 dùng từ “chân thật” hay “chẳng chân thật”. Kiến cố hay chẳng kiên cố với chân thật hay chẳng chân thật, hai cụm từ nghĩa khác nhau xa.

(2). Tất cánh không (Phạm:Atyanta-zùnyatà) Cũng gọi Chí cánh không, rốt ráo không, 1 trong 18 pháp không. Luận Đại trí độ quyển 31, phân biệt giữa Tất cánh không và Tính không, cho rằng: Tất cánh không là không còn gì; còn Tính không là tính xưa nay thường như thế; Tất cánh không là pháp thực hành của chư Phật, còn Tính không là pháp thực hành của Bồ Tát. Tức dùng Không để phá trừ các pháp, rốt ráo không chấp trước 1 vật gì, 3 đời thanh tịnh, là Tất cánh không; tự tính của hết thảy các pháp là không, chỉ do các duyên hòa hợp mà dường như có, nếu lìa các duyên thì tự tính các pháp không thực có, là Tính không. Trung quán luận sớ quyển 1 phần cuối giải thích “tất cánh không” như sau: Tính của chúng sinh cũng như hư không, trong đó không có sinh tử qua lại, cũng không có người giải thoát. Vì sinh tử vốn tự chẳng sinh, nên không có qua lại; đã không có sinh tử qua lại thì sinh tử đâu mà diệt, nên gọi là Niết bàn, vì thế không có giải thoát. Bởi vậy, sinh tử Niết bàn rốt ráo đều không, tất cả đều không sinh. Tức Niết bàn vốn tự chẳng sinh, sinh tử cũng vốn tự chẳng sinh, cho nên là tất cả chẳng sinh. Vì tất cả chẳng sinh nên gọi là tất cánh không. [X. phẩm Vấn thừa trong Kinh Đại phẩm Bát Nhã Q.5; Kinh Giải thâm mật Q.3; luận Biện trung biên Q.thượng; luận Thập bát không]. (xt. Thập Bát Không). - Từ điển Phật Quang.

(3). Kinh ĐBN thường dùng từ kép “Chơn như”, Kinh MHBNBLMĐ chỉ dùng từ duy nhất là “như”, để diễn tả cái như của tất cả pháp hay chơn như của tất cả pháp. Chúng tôi cũng thường dùng như hay như như trong phần luận giải của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ lưu ý này được lặp đi lặp lại quá nhiều lần, như thế là quá đủ. Nên không cần nhắc lại nữa, xin nhớ cho.

 

Lược giải:

 

1. Nói về Tất cánh vin ly và Tất cánh không.

 

Đối với Tánh Không thì chẳng có gì bền chắc hay không bền chắc, tất cả là vô sở hữu bất khả đắc. Nên Phật bảo chư Thiên:

Chư thiên nên biết! Đại Bồ Tát nào tuy biết hữu tình đều vô sở hữu nhưng vẫn phát tâm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc giáp bị tinh tấn, muốn giáo hóa các loài hữu tình như muốn điều phục hư không. Vì sao? Vì hư không viễn ly nên tất cả hữu tình cũng viễn ly, do hư không là không nên biết các hữu tình cũng là không, do hư không chẳng chắc thật nên biết các hữu tình chẳng chắc thật, do hư không vô sở hữu nên biết các hữu tình cũng vô sở hữu, do đó đại Bồ Tát này mới thật hiếm có, có thể làm được việc khó làm.

Chư thiên nên biết! Đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại bi vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình đều vô sở hữu giống như có người mặc giáp bị đánh nhau với hư không.

Chư thiên nên biết! Vì muốn làm lợi lạc tất cả hữu tình, đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại bi nhưng các hữu tình và giáp bị đại bi đều bất khả đắc. Vì sao? Vì hữu tình lìa nên biết được giáp bị đại bi cũng lìa, vì hữu tình là không nên biết áo giáp đại bi cũng không, vì hữu tình không chắc thật nên biết giáp bị đại bi cũng không chắc thật, vì hữu tình vô sở hữu nên biết giáp bị đại bi cũng vô sở hữu.

Chư thiên nên biết! Việc giáo hóa, làm lợi lạc hữu tình của các đại Bồ Tát cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì hữu tình là lìa, là không, là chẳng chắc thật, là vô sở hữu, nên biết được việc giáo hóa, lợi lạc cũng là lìa, là không, là chẳng chắc thật, là vô sở hữu.

Chư thiên nên biết! Đại Bồ Tát này cũng vô sở hữu. Vì sao? Vì hữu tình là lìa, không, chẳng chắc thật, vô sở hữu nên biết được Bồ Tát cũng lìa, không, chẳng chắc thật, vô sở hữu”.

Từ nhân không và pháp không mà nói: Tất cả pháp là không, là lìa, là chẳng chắc thật có, là vô sỡ hữu, là bất khả đắc kể cả Bồ Tát và chúng sanh? Hơn thế nữa Phật bảo Thiện Hiện:

“Thiện Hiện! Như của các pháp không sanh không diệt cũng không trụ, không thể nắm bắt dù một phần nhỏ nhiệm. Thiện Hiện! Nếu pháp không sanh không diệt cũng không trụ, không thể nắm bắt được. Vậy thì ai trụ trong đó tu Bồ Tát hạnh, ai sẽ an trụ địa vị bất thối chuyển, ai chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ai chuyển pháp luân, nói những pháp gì, cứu độ chúng sanh nào? Ở trong đó tất cả đều vô sở hữu. Tất cả những điều đó chắc chắn không có. Chỉ dựa vào thế tục mà giả bày ra!”

 Nhưng tại sao Tất cả những điều đó chắc chắn không có. Chỉ dựa vào thế tục lại giả bày ra” như vậy? Vì Phật không muốn chúng sanh tin tưởng bất cứ thứ gì dù là một giáo pháp mang lại nhiều công đức huống chi là pháp chắc thật hay chẳng chắc thật, kiên cố hay chẳng kiên cố. Một khi vào được Bát nhã Ba la mật thì biết tất cả pháp là không rồi thì chẳng cầu pháp chắc thật hay chẳng chắc thật, pháp kiên cố hay chẳng kiên cố. Vì vậy, trong Đại Trí Độ Luận, Ngài Tu Bồ Đề nghĩ rằng:

 “Pháp chân thật là định pháp, chẳng có biến đổi, có thể thủ, có thế chấp; còn pháp chẳng chân thật là pháp hư dối. Lại nữa, ngài Tu Bồ Đề thường ưa hành pháp không, tâm chẳng chướng ngại, nên đáp lại: Hành Bát nhã Ba la mật tức là hành pháp chẳng chân thật.

Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật là chẳng có định tướng, là vô phân biệt,... dẫn đến Nhất thiết chủng trí cũng như vậy. Bồ Tát đã từ nhiều đời trước tu tập Bát nhã Ba la mật, nên nay trở lại trong sanh tử cũng tiếp tục hành Bát nhã Ba la mật. Bồ Tát biết rõ pháp hữu vi là bất khả đắc, biết rõ 3 đời đều do nhân duyên sanh, đều là hư vọng, lại biết rõ Bát nhã Ba la mật chẳng phải là pháp chẳng thể chấp, nên quán hết thảy chúng sanh đều là chẳng chân thật, chẳng thể chấp. Bồ Tát cũng biết rõ Bát nhã Ba la mật, xét về thế đế, là pháp chân thật, còn xét về đệ nhất nghĩa đế là pháp bất khả đắc, chẳng chân thật”.

Vì vậy, Kinh bảo: Vì hữu tình là lìa, là không, là chẳng chắc thật, là vô sở hữu, nên biết được việc giáo hóa, lợi lạc cũng là lìa, là không, là chẳng chắc thật, là vô sở hữu. Nên nói Bồ Tát cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, mặc giáp bị tinh tấn, muốn giáo hóa các loài hữu tình như muốn điều phục hư không. Đây là bài học quý giá về Tánh không Bát Nhã.

 

Nghe Phật thuyết tới đây Thiên Đế Thích hiểu được những gì Phật nói, nên phát biểu:

- “Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này rất thậm thâm, khó giác, khó biết. Các đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật tuy biết các pháp đều bất khả đắc nhưng vẫn cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và muốn giải bày chánh pháp cho các hữu tình, đó là việc rất khó làm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chắc chắn không có việc an trụ như tu Bồ Tát hạnh chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và nói chánh pháp cho các hữu tình nhưng các đại Bồ Tát vẫn thực hành Bát nhã Ba la mật, quán tất cả các pháp đều vô sở hữu, không kinh sợ, nghi ngờ ngăn trệ, hoang mang thối lui, cũng không mê muội… đối với pháp tánh sâu xa, đó là điều rất hiếm có”.

Không phải riêng Thiên Đế Thích biết mà chúng ta cũng biết, không thực hành đạo thì làm sao đạt đạo. Bát nhã Ba la mật cố quét sạch tất cả dây mơ rễ má còn sót lại trong tâm thức con người để đưa đến vô niệm vô tâm. Nhưng còn mê muội hoang mang thì thối lui Bồ đề tâm. Nên Thiện Hiện liền bảo:

“Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật quán thấy bản tánh các pháp đều không, ở trong pháp không này tất cả đều vô sở hữu, vậy thì ai có thể kinh sợ cho đến mê muội. Vì vậy, việc đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật không kinh sợ, không nghi ngờ ngăn trệ, không hoang mang thối lui, không mê muội… đối với pháp tánh sâu xa cũng chưa phải là hiếm có”.

Thiên Đế Thích đáp:

- “Những điều Đại đức đã nói tất cả đều nương không, vậy nên không ngăn ngại. Ví như lấy tên bắn hư không hoặc xa hoặc gần đều không ngăn ngại. Đại đức đã nói cũng lại như vậy, còn ai có thể dám đối chất”.

Câu trả lời của Đế Thích thật ý nhị: Một khi trụ trong không rồi thì tự do tự tại như mũi tên phóng lên hư không, bay vút vô ngại. Đó là cái tự hội của những người thọ trì Kinh này./.

 

Kết luận:

 

Phẩm trước Phật phá chấp về phân biệt, ở phẩm này phẩm này Phật phá chấp về việc tán tụng các pháp dù là Bát nhã Ba la mật. Tất cả là Không, là Tất cánh không, là Bất khả đắc không. Các pháp không này dẫn xuất từ Tánh không Bát Nhã. Nếu biết tất cánh không, là tất cánh viễn ly, là vô sở hữu, bất khả đắc thì không còn gì để nắm giữ, cất dấu nữa tâm mới được như như bất động.

 

Vậy, nói tất cánh không, rốt ráo xa lìa, vô s hữu, bất khả đắc, không có nghĩa là khước từ, chối bỏ tất cả, Bát nhã Ba la mật chỉ khước từ cái khả đắc, khả thủ, khả chấp mà thôi./.

 

---o0o---

 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15921)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 9801)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 15492)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 16228)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 12938)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 12006)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 18186)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 14810)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 11440)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 11346)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]