Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Phẩm “Hành Tướng” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

08/08/202009:10(Xem: 9817)
09. Phẩm “Hành Tướng” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

2.9. Hành Tướng - Lan

 

PHẨM “HÀNH TƯỚNG”

 

Cuối quyển 409 đến đầu quyển 410, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Bát Nhã Hành Tướng”, quyển 38 đến quyển 41, Hội thứ I)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc:  Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc:  Quảng Thiện Hùng Jordan Le





 


 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nào không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nếu hành sắc là hành theo tướng đó, nếu hành thọ, tưởng, hành, thức tức là hành theo tướng đó. Nếu hành thường, vô thường của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành lạc hay khổ của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành lạc hay khổ của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành ngã hay vô ngã, hành tịnh hay bất tịnh, viễn ly hay bất viễn ly, tịch tịnh hay bất tịch tịnh, của ngũ uẩn tức là hành theo tướng đó. Nếu hành bốn niệm trụ là hành theo tướng đó, cho đến nếu hành mười tám pháp Phật bất cộng là hành theo tướng đó. Nếu suy nghĩ như vầy: Ta hành Bát nhã Ba la mật, vì có sở đắc nên là hành theo tướng đó. Hoặc suy nghĩ: Ta là Bồ Tát, vì có sở đắc nên là hành theo tướng đó. Hoặc suy nghĩ: Có khả năng tu hành Bát nhã Ba la mật như vậy, là Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật có sở đắc nên là hành theo tướng đó.

 

(Để giải thích thế nào là hành thường và vô thường. Đại Trí Độ luận rằng:

Hỏi: Vì sao nói rằng hành Bát Nhã Ba La Mật mà chấp ngũ ấm là thường, là vô thường v.v... đều chỉ là hành tướng?

Đáp: Thường có hai nghĩa. Đó là:

- Thường trong vô thường. Ví như nói trú trăm năm, ngàn năm, vạn năm... sống tám vạn kiếp v.v... là thường, thì đó chỉ là thường trong vô thường. Vì sao ? Vì rốt sau cùng rồi cũng phải quy tịch.

- Thường trong thường trú bất hoại. Ví như nói pháp thân thường trú, nói Niết Bàn tịch diệt v.v...

Phàm phu khi thấy một pháp hòa hợp trú trong một thời gian tương đối lâu dài, thì chấp pháp ấy là thường tướng. Người tu hành, khi đã chứng được Niết Bàn, mà còn sanh tưởng về Niết Bàn, thì rơi về chấp thường tướng”).

 

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nào phân biệt các pháp như vậy, tu hành Bát Nhã không có phương tiện thiện xảo, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá lợi Tử:

- Nếu Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với sắc trụ tưởng thắng giải, thì đối với sắc phát sanh tạo tác; hoặc đối với thọ, tưởng, hành, thức trụ tưởng thắng giải, thì đối với thọ, tưởng, hành, thức phát sanh hành động. Do phát sanh hành động, nên không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử đời này hay khổ đau đời sau. Nếu Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với 12 xứ, 18 giới thì đối với 12 xứ 18 giới trụ tưởng thắng giải, sẽ phát sanh hành động. Do phát sanh hành động, nên không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử đời này hay khổ đau đời sau. Nếu Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp Phật trụ tưởng thắng giải, thì đối với tất cả pháp Phật phát sanh hành động. Do phát sanh hành động như vậy, nên không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử v.v…

Này Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát này vì không phương tiện khéo léo, chẳng thể trụ bậc Thanh Văn, Độc giác, huống được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát tu hành như vậy, thì nên biết đó là người không có phương tiện thiện xảo. Muốn thành tựu mà không có phương tiện thì làm việc gì cũng không thể thành tựu được.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả! Làm sao biết được các Bồ Tát tu hành Bát Nhã có phương tiện thiện xảo?

Thiện Hiện đáp:

- Bồ Tát nào khi tu hành Bát Nhã mà có phương tiện thiện xảo, thì không hành sắc, không hành theo tướng sắc; không hành thọ, tưởng, hành, thức, không hành theo tướng của thọ, tưởng, hành, thức. Không hành ngũ uẩn, không hành theo tướng ngũ uẩn là thường hay vô thường, lạc hay khổ, ngã hay vô ngã, hành tịnh hay bất tịnh, không hay bất không, hữu tướng hay vô tướng, hữu nguyện hay vô nguyện, tịch tịnh hay bất tịch tịnh, viễn ly hay bất viễn ly. Không hành bốn niệm trụ, không hành theo tướng bốn niệm trụ, cho đến không hành mười tám pháp Phật bất cộng; không hành theo tướng 18 pháp Phật bất cộng.

Này Xá lợi Tử! Nên biết như vậy là Bồ Tát có phương tiện thiện xảo tu hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì sắc đây chẳng phải sắc không, sắc không đây chẳng phải sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đây chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng không, mười tám pháp Phật bất cộng không đây chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng. Mười tám pháp Phật bất cộng chẳng lìa không, không chẳng lìa mười tám pháp Phật bất cộng. Mười tám pháp Phật bất cộng tức là không, không tức là mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá lợi Tử! Như vậy, Bồ Tát tu hành Bát Nhã có phương tiện thiện xảo, nên có thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá lợi Tử! Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã, đối với Bát Nhã không chấp lấy hành, không chấp lấy chẳng hành, không chấp lấy cũng hành cũng chẳng hành, không chấp lấy chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, đối với không chấp lấy cũng không chấp nốt.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Thưa Tôn giả! Do đâu mà Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã, đối với Bát nhã Ba la mật đều không sở chấp?

Thiện Hiện đáp:

- Do tự tánh Bát nhã Ba la mật bất khả đắc. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật lấy vô tánh làm tự tánh.

Này Xá lợi Tử! Do nhân duyên này Bồ Tát nào khi tu hành Bát Nhã, đối với Bát nhã Ba la mật hoặc chấp hành, hoặc chấp không hành, hoặc chấp cũng hành cũng không hành, hoặc chấp chẳng hành hoặc chấp chẳng phải chẳng hành. Như vậy, tất cả chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì tất cả pháp đều dùng vô tánh làm tự tánh nên không thủ, không chấp. Đó là Bồ Tát đối với tất cả pháp không chấp trước Tam ma địa. Tam ma địa này vi diệu, thù thắng, rộng lớn vô lượng, có thể tập hợp vô biên vô ngại tác dụng, không đồng với tất cả Thanh văn, Độc giác.

Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát có thể đối với Tam ma địa thù thắng như vậy, thường trụ không xả thì mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát chỉ đối với một Tam ma địa này thường trụ không xả, mau chứng Vô Thượng Bồ đề, hay còn có các Tam ma địa nào khác?

Thiện Hiện đáp:

- Chẳng phải đối với một Tam ma địa này thường trụ không xả, làm cho các Bồ Tát mau chứng Vô Thượng Bồ đề, mà còn có các Tam ma địa khác.

Xá lợi Tử lại hỏi:

- Còn các Tam ma địa nào khác nữa?

Thiện Hiện đáp:

- Các Bồ Tát có Tam ma địa Kiện hành, Tam ma địa Bửu ấn, Tam ma địa Sư tử du hý, Tam ma địa Diệu nguyệt, Tam ma địa Nguyệt tràng tướng, Tam ma địa Nhất thiết pháp hải, Tam ma địa Quán đỉnh, Tam ma địa Pháp giới quyết định, Tam ma địa Quyết định tràng tướng, Tam ma địa Kim cương dụ v.v… vô lượng, vô số Tam ma địa môn, Đà la ni môn khác.

Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát đối với các Tam ma địa và Đa la ni như vậy thường an trụ, thì mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bảo cụ thọ Xá lợi Tử:

- Bồ Tát an trụ các Tam ma địa như vậy nên biết đã được chư Phật quá khứ thọ ký, cũng được mười phương chư Phật hiện tại thọ ký.

Này Xá lợi Tử! Bồ Tát này tuy trụ các Tam ma địa như vậy nhưng không thấy các Tam ma địa này, cũng không chấp các Tam ma địa như vậy, cũng không nghĩ: Ta đã nhập, đang nhập, sẽ nhập các Tam ma địa này. Chỉ mình Ta mới có thể nhập, người khác không thể nhập được. Đối với các suy nghĩ lệch lạc như vậy cũng không phát sanh. (Q.409, ĐBN)

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Ông có chắc là chỉ riêng các Bồ Tát an trụ các Tam ma địa như vậy, đã được chư Phật quá khứ, hiện tại thọ ký chăng?

Thiện Hiện đáp:

Này Xá lợi Tử! Chẳng phải! Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật không khác Tam ma địa, Tam ma địa không khác Bát nhã Ba la mật. Bồ Tát không khác Bát nhã Ba la mật và Tam ma địa, Bát nhã Ba la mật và Tam ma địa không khác Bồ Tát. Bát nhã Ba la mật tức là Tam ma địa, Tam ma địa tức là Bát nhã Ba la mật. Bồ Tát tức là Bát nhã Ba la mật và Tam ma địa, Bát nhã Ba la mật và Tam ma địa tức là Bồ Tát. Vì sao? Vì tánh tất cả pháp đều bình đẳng.

Lúc bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Tam ma địa không khác Bồ Tát, Bồ Tát không khác Tam ma địa. Tam ma địa tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là Tam ma địa. Hoặc Tam ma địa, hoặc Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật cũng như vậy thì các Bồ Tát làm thế nào đối với tất cả pháp tự hiểu biết chứng nhập các Tam ma địa của mình được?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu Bồ Tát khi nhập các định, không nghĩ: Ta nương vào tánh bình đẳng của tất cả pháp mà chứng nhập các đẳng trì như vậy, do nhân duyên này các Bồ Tát tuy nương vào tánh bình đẳng của tất cả pháp mà chứng nhập các đẳng trì như vậy, nhưng đối với tánh bình đẳng của tất cả pháp và các đẳng trì không phát sanh nghĩ tưởng, hiểu biết. Vì sao? Vì tất cả pháp và các đẳng trì, hoặc Bồ Tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu, sự phân biệt, nghĩ tưởng, hiểu biết không thể phát sanh.

Khi ấy, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Ta nói ông là người đứng đầu trụ định Vô tránh trong chúng Thanh văn. Do đó tương ưng với nghĩa Ta nói vì trong tánh bình đẳng không có sự chống trái nhau.

Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát muốn học Bát nhã Ba la mật nên học như vậy. Muốn học tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật nên học như vậy. Muốn học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo nên học như vậy. Cho đến muốn học Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng nên học như vậy.

Bấy giờ, Xá lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nào học như vậy chính là học Bát nhã Ba la mật, cho đến chính là học mười tám pháp Phật bất cộng có phải như vậy không?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào học như vậy chính là học Bát Nhã vì lấy vô sở đắc làm phương tiện, cho đến chính là học mười tám pháp Phật bất cộng, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá lợi Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nào khi học như vậy đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học Bát Nhã? Cho đến đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học mười tám pháp Phật bất cộng?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bồ Tát khi học như vậy đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học cho đến đều đem vô sở đắc làm phương tiện để học mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vô sở đắc ý muốn nói đến bất khả đắc phải chăng?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Ngã bất khả đắc cho đến người biết, người thấy bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Uẩn, xứ, giới bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Vô minh bất khả đắc cho đến lão tử bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bốn Thánh đế bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Dục, Sắc, Vô sắc giới bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bốn niệm trụ bất khả đắc cho đến tám chi Thánh đạo bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Phật mười lực bất khả đắc cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bố thí bất khả đắc cho đến Bát nhã Ba la mật bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Dự lưu cho đến A la hán bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Độc giác bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh. Bồ Tát bất khả đắc, Như Lai bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh.

Xá lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa rốt ráo thanh tịnh là như thế nào?

Phật đáp:

- Này Xá lợi Tử! Tất cả pháp không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không xuất hiện, không ẩn mất, vô đắc, vô vi. Như vậy, là nghĩa rốt ráo thanh tịnh.

 

(Để giải thích điểm này, phẩm thứ 10, quyển 43, “Hành Tướng”, Đại Trí Độ luận rằng: Lại nữa, bất xuất, bất sanh, bất đắc mới là rốt ráo thanh tịnh.

Bởi vậy nên phải chẳng duyên hai bên “hữu - vô”, phải chẳng sanh chấp pháp tướng, mới biết rõ được các pháp tướng đều là bất khả đắc, mới ly được các tướng hư vọng, mới được rốt ráo thanh tịnh vậy.

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi: Thế nào là rốt ráo thanh tịnh?

Phật dạy: Hành pháp rốt ráo thanh tịnh là hành pháp vô sở hữu, vô sở đắc, vô sở học. Như vậy là chẳng có Bát nhã Ba la mật, chẳng đắc Bát nhã Ba la mật, chẳng học Bát nhã Ba la mật; dẫn đến chẳng đắc Nhất Thiết Chủng Trí.

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi: Bồ Tát phải học Bát nhã Ba la mật như thế nào ?

Phật dạy: Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật mà chẳng thấy Bát nhã Ba la mật. Học như vậy mới gọi là học Bát nhã Ba la mật, mới mau được Nhất Thiết Chủng Trí. Vì sao ? Vì Bát nhã Ba la mật và Nhất Thiết Chủng Trí đều là bất khả đắc cả.

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi : Thế nào gọi là bất khả đắc ?

Phật dạy : Hết thảy các pháp đều là nội không,... nhẫn đến đều là vô

pháp hữu pháp không”).

 

Khi ấy, Xá lợi Tử lại hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khi học như vậy là học những gì?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát khi học như vậy, thì đối với tất cả pháp đều không chỗ học. Vì sao? Vì không thể trong tất cả pháp như vậy, mà có các hàng phàm phu ngu muội, chấp trước có thể học.

Xá lợi Tử lại hỏi:

- Các pháp như vậy làm sao mà có được?

Phật dạy:

- Các pháp Vô sở hữu như vậy mà có được. Nếu đối với pháp vô sở hữu như vậy không thể hiểu rõ thì gọi là vô minh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Những pháp gì vô sở hữu hoặc không hiểu biết được gọi là vô minh?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Sắc vô sở hữu, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, vì pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh. Như vậy, bốn niệm trụ vô sở hữu cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu, vì pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Phàm phu ngu muội nếu đối với pháp vô sở hữu như vậy không thể hiểu rõ được thì gọi là vô minh. Do vô minh và thế lực ái, người ấy chấp trước phân biệt hai bên đoạn, thường. Do đó không biết, không thấy tánh các pháp vô sở hữu, nên phân biệt các pháp. Do phân biệt nên sanh chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng. Do chấp trước nên phân biệt tánh của các pháp vô sở hữu. Do đó đối với pháp mới không biết, không thấy.

 

(Để giải thích điểm này, phẩm thứ 10, “Hành Tướng”, quyển 43, Đại trí độ luận rằng: “Ngài Xá Lợi Phất hỏi Phật : Vì sao chẳng thấy các pháp là vô sở hữu, thì gọi là vô minh ?

Phật dạy: Sắc vô sở hữu,..., dẫn đến thập bát bất cộng pháp vô sở hữu.

Nếu chẳng biết như vậy, mà khởi sanh ái niệm, ức tưởng phân biệt, thì gọi là vô minh. Do bị vô minh che tâm, mà rơi về hai chấp “hữu - vô”, khiến bỏ mất huệ minh.

Huệ minh là trí huệ vô phân biệt. Do huệ minh mà biết rõ các pháp đều là vô sở hữu tướng, đều là rốt ráo không; lại biết rõ do nơi tâm phân biệt, mà khởi sanh ức tưởng phân biệt, để rồi khởi chấp có ngũ ấm, có thập nhị nhập, có thập bát giới v.v... Cũng do tâm ức tưởng phân biệt, mà khi nghe thuyết về các thiện pháp, như nghe thuyết về sáu pháp Ba La Mật, dẫn đến nghe thuyết về thập bát bất cộng pháp... là liền ức tưởng phân biệt, nên sanh chấp đắm.

Chấp đắm như vậy, thì Thánh pháp cũng trở thành thế gian pháp. Ví như có người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng, mà người vô trí chỉ chăm chú nhìn ngón tay, khiến chẳng thấy được mặt trăng vậy. Vì để tâm chấp ngón tay, thì chẳng sao có thể thấy được mặt trăng.

Chư Phật và chư Hiền Thánh, vì hàng phàm phu, mà nói pháp. Trong khi đó thì phàm phu chỉ chấp âm thanh, chấp lời nói, mà chẳng thấy được Thánh ý, nên chẳng biết được thật nghĩa.

Phàm phu do bỏ mất Phật tánh, nên chẳng sao ra khỏi ba cõi, chẳng rời pháp Nhị Thừa, chẳng rõ được Thánh ý.

Phàm phu nghe nói đến pháp Không, mà chẳng tin. Do chẳng tin, nên chẳng làm, chẳng an trú nơi sáu pháp Ba la mật, dẫn đến chẳng an trú nơi thập bát bất cộng pháp, khiến bỏ mất hết các công đức.

Phàm phu, do chấp ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, v.v... mà khởi sanh tà kiến, dấy tâm tham sân si... Lại cũng chấp luôn sáu pháp Ba La Mật, chấp tứ niệm xứ dẫn đến chấp thập bát bất cộng pháp; chấp bốn quả Thanh Văn, dẫn đến chấp quả Vô Thượng Bồ Đề”).

 

Xá lợi Tử hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Đối với những pháp nào không biết, không thấy?

Phật dạy:

- Đối với sắc không biết, không thấy; đối với thọ, tưởng, hành, thức không biết, không thấy. Cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng không biết, không thấy. Vì không biết, không thấy nên mới rơi vào hạng phàm phu ngu muội không thoát ra khỏi.

Xá lợi Tử hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Người ấy không thể thoát khỏi nơi nào?

Phật bảo:

- Người ấy không thể ra khỏi Dục, Sắc, Vô sắc giới. Do không thể ra khỏi ba cõi nên đối với pháp Thanh văn, pháp Độc giác không thể thành tựu, đối với pháp Bồ Tát không thể thành tựu, pháp chư Phật không thể thành tựu. Do đối với ba thừa không thể thành tựu, nên đối với các pháp không thể tin nhận.

Xá lợi Tử hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Đối với pháp nào mà người ấy không thể tin nhận?

Phật dạy:

- Đối với sắc không, người ấy không thể tin nhận. Đối với thọ, tưởng, hành, thức không, không thể tin nhận, cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng không, không thể tin nhận. Do không tin nhận nên không thể trụ.

Xá lợi Tử hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Đối với pháp nào người ấy không thể trụ?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Đối với bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, người ấy không thể an trụ. Đối với địa vị Bất thối chuyển cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, người ấy không thể an trụ. Do đó, nên gọi là phàm phu ngu muội, vì đối với các pháp chấp trước có tánh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Người kia đối với pháp nào chấp trước có tánh?

Phật dạy:

- Người kia đối với sắc chấp trước có tánh, đối với thọ, tưởng, hành, thức chấp trước có tánh. Đối với 12 xứ, 18 giới chấp trước có tánh, cho đến đối với các kiến thú chấp trước có tánh. Đối với bốn niệm trụ chấp trước có tánh, cho đến đối với 18 pháp Phật bất cộng chấp trước có tánh.

Bấy giờ, Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vả lại có Bồ Tát học như vậy, chẳng học Bát Nhã thì không thể thành tựu Nhất thiết trí trí phải chăng?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Có Bồ Tát học như vậy, không học Bát nhã Ba la mật thì không thể thành tựu Nhất thiết trí trí.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy nghĩa là như thế nào?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào không có phương tiện thiện xảo, đối với Bát nhã Ba la mật, phân biệt chấp trước. Đối với tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, phân biệt chấp trước. Đối với bốn niệm trụ phân biệt chấp trước, cho đến đối với 18 pháp Phật bất cộng phân biệt chấp trước. Do chấp trước những pháp này nên đối với Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chấp trước. Do nhân duyên này, Bồ Tát không thể học Bát Nhã, không thể thành tựu Nhất thiết trí trí.

Xá lợi Tử thưa:

- Bồ Tát này khi học như vậy quyết định không thể học Bát Nhã thì không thể thành tựu Nhất thiết trí trí phải không?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Đúng như vậy!

Bấy giờ, Xá lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ Tát tu học Bát Nhã, là học Bát nhã Ba la mật, khi học như thế bèn năng thành xong Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào tu học Bát Nhã, không thấy Bát nhã Ba la mật, cho đến không thấy Nhất thiết tướng trí. Bồ Tát tu học như vậy là học Bát nhã Ba la mật. Khi học như vậy liền có thể thành tựu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện. (Q.410, ĐBN)

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này lấy vô sở đắc pháp nào làm phương tiện?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bồ Tát này khi tu hành bố thí, lấy vô sở đắc của bố thí làm phương tiện, cho đến khi tu hành Bát Nhã, lấy vô sở đắc của Bát Nhã làm phương tiện, cho đến khi cầu Bồ đề, lấy vô sở đắc của Bồ đề làm phương tiện, cho đến khi cầu Nhất thiết tướng trí, lấy vô sở đắc của Nhất thiết tướng trí làm phương tiện. Như vậy, Bồ Tát tu học Bát Nhã là học Bát nhã Ba la mật. Khi học như vậy liền có thể thành tựu Nhất thiết trí trí.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này khi tu học Bát Nhã, đem vô sở đắc của những pháp nào làm phương tiện?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bồ Tát này khi tu học Bát Nhã đem vô sở đắc của pháp không nội làm phương tiện, cho đến đem vô sở đắc của pháp vô tánh tự tánh không làm phương tiện. Do nhân duyên này có thể mau thành tựu Nhất thiết trí trí.

 

Lược giải:

 

Thấy tướng, mê tướng, mới sanh thi vi tạo tác, nên nói là “mất tâm”. Kinh bảo:Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, nếu hành sắc, hành thọ, tưởng, hành, thức tức là hành theo tướng nó. Nếu hành thường, vô thường của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành lạc hay khổ của sắc là hành theo tướng đó, nếu hành lạc hay khổ của thọ, tưởng, hành, thức là hành theo tướng đó. Nếu hành ngã hay vô ngã, hành tịnh hay bất tịnh, viễn ly hay bất viễn ly, tịch tịnh hay bất tịch tịnh, của ngũ uẩn tức là hành theo tướng đó. Nếu hành bốn niệm trụ là hành theo tướng đó, cho đến nếu hành mười tám pháp Phật bất cộng là hành theo tướng đó. Nếu suy nghĩ như vầy: Ta hành Bát Nhã, là có sở đắc nên nói là hành theo tướng đó. Hoặc tự nghĩ: Ta là Bồ Tát, là có sở đắc nên nói là hành theo tướng. Hoặc nghĩ: Ta có khả năng tu hành Bát Nhã tức là có sở đắc nên nói là hành theo tướng. Bồ Tát nào có tâm phân biệt các pháp như vậy, tu hành Bát Nhã không có phương tiện thiện xảo, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

Chúng ta đồng ý lời nói này: Hành theo ngũ uẩn, còn gọi là ngũ che là hành theo tướng. Vì ngũ uẩn là cái bị lục trần lôi kéo, che mờ tánh giác mới bị tướng che nên nói là mất tâm. Còn tại sao không hành tứ niệm xứ (hay tứ niệm trụ), vì bốn thứ này liên quan đến thân, thọ, tâm và pháp: Thân thì bất tịnh, thọ thì khổ, tâm sanh diệt vô thường và pháp thì vô ngã. Vậy, quán những thứ sanh diệt đổi dời làm gì? Còn bảo là ta có khả năng tu hành Bát Nhã, ta là Bồ Tát là có sở đắc, tâm phân biệt, tăng thượng thì tu cũng vô ích thôi. Đó là chấp đắm, phân biệt, chấp đắm, nên không thể tu Bát Nhã! Tu là ly tướng, lìa ngã-ngã sở!

Vì vậy, Bát Nhã khuyên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật: “Đối với Bát nhã Ba la mật không chấp lấy hành, không chấp lấy không hành, không chấp lấy cũng hành cũng không hành, không chấp lấy chẳng phải hành chẳng phải không hành, đối với không chấp lấy cũng không chấp”. Vì sao? Vì tất cả pháp đều có dời động, đổi dời, sinh diêt vô thường, nên không thể thủ, không thể chấp. Tánh của tất cả pháp đều bình đẳng. Phật bảo Xá lợi Tử; “Tất cả pháp không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không xuất hiện, không ẩn mất, vô đắc, vô vi. Như vậy, là nghĩa rốt ráo thanh tịnh”.

Tất cả sự học không thể thành tựu là do phân biệt chấp đắm. Do chấp đắm nên sanh ra thủ giữ nắm bắt, tức tâm còn sở đắc, muốn chiếm đoạt. Nếu còn sở đắc, còn nắm bắt thủ giữ, đó là hành theo tướng. Do đó, không thể đắc, không thể hiện quán. Muốn đắc muốn hiện quán thì phải vô sở hữu, bất khả đắc, tâm mới được an nhiên tịch lặng. Tâm tịch lặng thì linh chi mở, linh chi đó chính là huệ. Một khi huệ mở thì lo gì chẳng chứng Bồ đề.

 

Trong phẩm này có nhiều giáo lý cần học, cần nhớ:

1. Bát Nhã lấy vô tánh làm tự tánh (nói theo ĐBN), hay Bát Nhã lấy vô tướng làm tướng (nói theo MHBNBLMĐ). Vô tánh là không mà vô tướng cũng không nốt.

2. Vô sở hữu, bất khả đắc: Có nghĩa là chẳng nắm bắt cất giữ bất cứ thứ gì. Nếu còn thấy sở hữu, sở đắc tức còn thủ tâm chấp tướng. Đã chấp là có dính mắc, chướng ngại.

3. Còn phân biệt là còn chấp. Vô phân biệt là vô chấp.

Nếu biết tất cả pháp là không, vô sở hữu, bất khả đắc, tất cả đều bình đẳng như như. Vậy, tu là đừng thấy tướng, đừng hành theo tướng, cũng không hành vô tướng. Tướng vô tướng đều ly, thì tâm được an nhiên tịch lặng.

Kinh “Kim Cương Năng Đoạn” hay Kinh “Đại Bát Nhã” là triệt để phá chấp, nhất là chấp tướng. Học Bát nhã Ba la mật là phải nhớ điểm này. Vì vậy, nên Phật mới khởi xướng “nhất thiết pháp không”. Nếu biết tất cả pháp đều không thì lấy gì nương tựa bám vúi nữa thì tâm mới được thong dong tự tại!

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15921)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 9801)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 15492)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 16228)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 12938)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 12005)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 18186)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 14810)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 11440)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 11346)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]