Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

37. Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

03/07/202016:34(Xem: 11591)
37. Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 41. Thuyet Tuong Bat Nha



TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

  

PHẨM “THUYẾT TƯỚNG BÁT NHÔ

Phần sau quyển 292 đến quyển 296, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phần sau quyển thứ 14,phẩm “Vô Tác”, MHBNBLM)

 


Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le







 

Tóm lược:

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao sẽ dùng pháp gì và các hành tướng nào để tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm?

Phật dạy:

- Đại Bồ Tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao sẽ dùng sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải chẳng tịch tịnh, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế. Đại Bồ Tát Di Lặc sẽ dùng thọ, tưởng, hành, thức, 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất công, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ v.v… để tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế.

Đại Bồ Tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao sẽ chứng pháp sắc rốt ráo thanh tịnh và nói pháp sắc rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo thanh tịnh và nói pháp thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo thanh tịnh; chứng tất cả pháp thanh tịnh, nói tất cả pháp rốt ráo thanh tịnh. (Q. 292, ĐBN)

 

(Thế nào là thanh tịnh?)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch thế Tôn! Như thế nào gọi là thanh tịnh?(1)

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên Bát Nhã thanh tịnh. Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì tất cả pháp bất khả đắc, nên không nhiễm ô, nên Bát nhã Ba la mật mới thanh tịnh.

hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì hư không cũng bất khả đắc nên không nhiễm ô, vì hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Vì sắc chỉ có giả nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp chỉ có giả nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Giống như hai vật gia chạm nhau nương hư không mà phát ra tiếng, nên nói tất cả pháp chỉ giả có, do đó Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Vì hư không chỉ có giả nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

sắc chẳng thể diễn đạt nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp chẳng thể diễn đạt nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì sắc là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Vì hư không chẳng thể diễn đạt nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì hư không là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

sắc chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Vì sắc rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

hư không chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát Nhã Ba la thanh tịnh. Vì hư không rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

 

(Bát nhã Ba la mật như kho báu lớn).

 

Thiện nam thiện nữ nào, đối với Bát nhã Ba la mật nầy, thọ trì đọc tụng, như lý tư duy, vì người diễn nói, thì thiện nam thiện nữ ấy, sáu căn không bệnh, tứ chi đầy đủ, thân không suy yếu cũng không chết yểu, thường được vô lượng trăm nghìn thiên thần cung kính vây quanh, theo sau hộ niệm. Thiện nam thiện nữ ấy, mỗi tháng vào ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày rằm đọc tụng tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật nầy, khi ấy chúng trời ở các cõi đều tập trung đến chỗ Pháp sư nầy để nghe và thọ trì. Thiện nam thiện nữ ấy, do đọc tụng, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm ở trong đại hội vô lượng ấy mà được công đức thù thắng vô lượng, vô số, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy lường. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật nầy là kho báu lớn, có khả năng cứu thoát vô lượng, vô biên hữu tình khỏi sự bần cùng đại khổ của địa ngục, bàng sanh, quỉ giới, loài người và chư thiên có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của dòng họ lớn Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của các chúng trời trong 25 cảnh giới; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự an lạc của quả Thanh văn, quả vị Độc giác; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự an lạc của quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì trong kho báu lớn Bát nhã Ba la mật ấy rộng nói khai thị tất cả các pháp Phật(2). Đối với các thiện pháp quí báu như thế, vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ hưởng phước lộc không thể nghĩ bàn. Vì nhơn duyên nầy nên Bát nhã Ba la mật được gọi là kho báu lớn.

Trong kho báu lớn Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng mảy may nói pháp có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có thủ, có xả. Vì sao? Vì không có mảy may pháp có thể sanh, có thể diệt, có thể nhiễm, có thể tịnh, có thể thủ, có thể xả.

Trong kho báu lớn Bát nhã Ba la mật như thế, không nói có pháp nào là thiện, là bất thiện, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu lậu vô lậu, là có tội vô tội, là tạp nhiễm hay thanh tịnh, là hữu vi hay vô vi.

Vì nhơn duyên nầy nên Bát Nhã được coi là kho báu vô sở đắc.

 

(Bát Nhã và tánh Bát Nhã là không).

 

Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật không khởi tưởng, không phân biệt, không thủ đắc, không lý luận: Ta đang tu, ta đang hành, thì đại Bồ Tát ấy có khả năng tu hành Bát nhã Ba la mật chân thật, nên có thể gần gũi, lễ kính phụng sự chư Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, du hóa khắp các cõi Phật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Phật độ, tu các hạnh Bồ Tát, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Bát nhã Ba la mật như thế đối với tất cả pháp chẳng thuận chẳng trái, chẳng dẫn chẳng bỏ, chẳng thủ chẳng xả, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhiễm chẳng tịnh, chẳng thường chẳng đoạn, chẳng một chẳng khác, chẳng đến chẳng đi, chẳng vào chẳng ra, chẳng tăng chẳng giảm.

Bát nhã Ba la mật như thế chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Bát Nhã Ba la mật như thế chẳng vượt cõi Dục, chẳng ở cõi Dục; chẳng vượt cõi Sắc, chẳng ở cõi Sắc; chẳng vượt cõi Vô sắc, chẳng ở cõi Vô sắc.

Bát nhã Ba la mật như thế, đối với bố thí chẳng cùng chẳng bỏ; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, phương tiện xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật chẳng cùng chẳng bỏ. Bát nhã Ba la mật như thế, đối với uẩn, xứ, giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật chẳng cùng chẳng bỏ. Bát Nhã như thế, chẳng cùng pháp Thanh văn, chẳng bỏ pháp Dị sanh, chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng bỏ pháp Thanh văn, chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp Độc giác, chẳng cùng pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi. Vì sao? Vì hoặc Phật xuất thế hoặc không, các pháp như thế thường như thế. Tất cả Như Lai Đẳng Giác hiện quán pháp tánh, pháp giới, pháp định, pháp trụ. Bậc Đẳng Giác đã tự hiện quán rồi vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng, khiến cùng ngộ nhập, xa lìa các vọng tưởng phân biệt điên đảo.

Vì Bát Nhã và tánh của Bát Nhã là không; vì tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí và tánh của tịnh lự cho đến bố thí là không, 18 pháp bất cộng và tánh của 18 pháp bất cộng là không, Nhất thiết trí và tánh của Nhất thiết trí là không… nói chung cho đến tất cả pháp và tánh của tất cả pháp là không. Vì những pháp ấy vô tánh tự tánh không nên Bát nhã Ba la mật như thế, đối với tất cả pháp chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế gian.

Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật, vì đạt đến tự tánh không của tất cả pháp, tuy đạt được tự tánh của tất cả pháp đều không nhưng các đại Bồ Tát nhân Bát nhã Ba la mật nầy mà chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh; tuy chứng quả vị Giác ngộ nhưng không có (đối tượng để) chứng, vì pháp chứng chẳng thể nắm bắt được; tuy chuyển pháp luân nhưng không có (đối tượng để) chuyển, vì pháp chuyển, pháp hoàn chẳng thể nắm bắt được; tuy độ hữu tình nhưng không có (đối tượng để) độ, vì pháp thấy, chẳng thấy, chẳng thể nắm bắt được.

Trong Bát nhã Ba la mật như thế, việc chuyển pháp luân rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, vì tất cả pháp đều vĩnh viễn chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện lại có thể có việc năng chuyển năng hoàn.

Đối với Bát nhã Ba la mật này, nếu có khả năng tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng như thế, khiến dễ ngộ nhập thì gọi là tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; trong đó hoàn toàn không có người thuyết, người nghe, người chứng, quả để chứng; đã không có người thuyết, người nghe, người chứng… thì cũng không có phước điền quy định.

 

Thích nghĩa:

(1).  Nếu câu hỏi này được đổi lại là “Bát nhã Ba la mật phải như thế nào thì mới được gọi là thanh tịnh?” thì những câu trả lời kế tiếp của Phật sẽ dễ hiểu hơn, vì chủ đề ở đây là thuyết tướng Bát nhã Ba la mật, chớ không phải thuyết về thanh tịnh.

(2). Tất cả pháp Phật, các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, các pháp hy hữu, tư lương bồ đề Bồ Tát, Bồ Tát đạo… đã trích dịch và luận giải trong phần thứ I Tổng luận.

 

Lược giải:

 

Thế nào là tướng của Bát Nhã?

 

1. Bát Nhã là pháp thanh tịnh (vì là vô tướng, bất nhị):

 

Phẩm “Xá Lợi Phật” trong Kinh MHBNBLMĐ nói:

Vì trong Bát nhã Ba la mật nói rộng nghĩa Tam thừa. Vì là pháp vô tướng vậy. Vì là pháp vô sanh, vô diệt vậy. Vì là pháp vô cấu, vô tịnh vậy. Vì là pháp vô tác, vô khởi vậy. Vì là pháp bất nhập, bất xuất, bất tăng, bất tổn, bất thủ, bất xả vậy. Nói như thế là theo thế tục, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Tại sao vậy? Bát nhã Ba la mật nầy chẳng phải bỉ thử, chẳng phải cao hạ, chẳng phải đẳng bất đẳng, chẳng phải tướng phi tướng, chẳng phải thế gian xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải hữu vi vô vi, chẳng phải thiện bất thiện, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại”.

 

Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 129, Hội thứ I, ĐBN, cũng có cùng tư tưởng như trên:

“ (…)Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật như thế trong tạng bí mật, đã rộng nói pháp tương ưng Ba thừa. Nhưng vì pháp đã nói là lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tánh-vô tướng làm phương tiện, vô sanh-vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm-vô tịnh làm phương tiện, vô tạo-vô tác làm phương tiện, vô nhập-vô xuất làm phương tiện, vô tăng-vô giảm làm phương tiện, vô thủ-vô xả làm phương tiện. Nên đã nói như vậy là do thế tục, chẳng phải thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải Bát nhã Ba la mật, chẳng phải chẳng Bát nhã Ba la mật (phi, chẳng phi), chẳng phải bờ này, chẳng phải bờ kia, chẳng phải giữa dòng, chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải bằng phẳng, chẳng phải chẳng bằng phẳng, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu tội, chẳng phải vô tội, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, chẳng phải vô ký, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải thuộc dục giới, chẳng phải thuộc sắc giới, chẳng phải thuộc vô sắc giới, chẳng phải học, chẳng phải vô học, chẳng phải chẳng học, chẳng phải chẳng vô học, chẳng phải kiến sở đoạn, chẳng phải tu sở đoạn, chẳng phải chẳng tu sở đoạn, chẳng phải hữu chẳng phải không, chẳng phải cảnh, chẳng phải trí.

Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng cùng pháp Bồ Tát, chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng cùng pháp Dự lưu, chẳng cùng pháp Nhất lai, chẳng cùng pháp Bất hoàn, chẳng cùng pháp A la hán, chẳng bỏ pháp phàm phu”.

“(…) Bát nhã Ba la mật nầy không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, chẳng phải có tướng, có trạng, có ngôn, có thuyết, cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình thuyết tất cả pháp là vô tướng, vô trạng, vô ngôn, vô thuyết”.

 

Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã” quyển 296, Hội thứ I, ĐBN:

“Bát nhã Ba la mật như thế đối với tất cả pháp chẳng thuận-chẳng trái, chẳng dẫn-chẳng bỏ, chẳng thủ-chẳng xả, chẳng sanh-chẳng diệt, chẳng nhiễm-chẳng tịnh, chẳng thường-chẳng đoạn, chẳng một-chẳng khác, chẳng đến-chẳng đi, chẳng vào-chẳng ra, chẳng tăng-chẳng giảm”.

 

Tất cả các đoạn kinh trên dù là ĐBN hay MHBNBLMĐ đều nói Bát nhã Ba la mật là vô tánh vô tướng. Bát nhã Ba la mật là pháp chẳng sanh-chẳng diệt, chẳng nhiễm-chẳng tịnh, chẳng thường-chẳng đoạn, chẳng một-chẳng khác, chẳng đến-chẳng đi, chẳng vào-chẳng ra, chẳng tăng-chẳng giảm… Như Lai biết Bát nhã Ba la mật như vậy nên Như Lai mới đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Kinh bảo: “Bát nhã Ba la mật nầy không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, chẳng phải có tướng, có trạng, có ngôn, có thuyết, cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình thuyết tất cả pháp là vô tướng, vô trạng, vô ngôn, vô thuyết”.

Chúng tôi trùng tụng quá nhiều không ngoài mục đích nói lên tánh cách vô tri của Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật muốn gột sạch tất cả những gì còn vướng bận trong tâm thức của chúng ta. Khi nào tâm thức được gột sạch như nước đổ là môn, không còn dấu vết của lưỡng nguyên, của “bát bất”(1) thì tâm thể mới đạt được cái tịch lặng an nhiên. Tất cả pháp môn tu hành không ngoài “lìa trần xa cấu”, sạch trong sạch ngoài thì an nhiên tịch lặng thôi!

 

2. Bát Nhã là kho báu lớn:

 

Người nào thọ trì Kinh này thì đời này, đời sau có vô vàn công đức không thể nghĩ bàn. Vì vậy, mới nói Bát Nhã là kho báu lớn, cứu độ vô lượng chúng sanh. Kinh bảo:

(...) “Thiện nam thiện nữ ấy, do đọc tụng, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm ở trong đại hội vô lượng ấy mà được công đức thù thắng vô lượng, vô số, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy lường. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật nầy là kho báu lớn, có khả năng cứu thoát vô lượng, vô biên hữu tình khỏi sự bần cùng đại khổ của địa ngục, bàng sanh, quỉ giới, loài người và chư thiên có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của dòng họ lớn Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của các chúng trời trong 25 cảnh giới; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự an lạc của quả Thanh văn, quả vị Độc giác; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự an lạc của quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì trong kho báu lớn Bát nhã Ba la mật ấy rộng nói khai thị tất cả các pháp Phật. Đối với các thiện pháp quí báu như thế, vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ hưởng phước lộc không thể nghĩ bàn. Vì nhơn duyên nầy nên Bát nhã Ba la mật được gọi là kho báu lớn”.

 

Phẩm “Công Đức Khó Nghe”(2), quyển 301. Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:

“Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình báu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì vậy, nên gọi Bát nhã Ba la mật là kho báu lớn”.

 

3. Bát Nhã là tướng rỗng không:

 

Phần sau phẩm “Vô Tác” quyển thứ 14, Kinh MHBNBLMĐ, Phật nói với Tu Bồ Đề:

Nầy Tu Bồ Đề! Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tướng rỗng không nhẫn đến Đàn na Ba la mật, Đàn na Ba la mật tướng rỗng không; nội không nội không tướng rỗng không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vô pháp hữu pháp tướng rỗng không; tứ niệm xứ tứ niệm xứ tướng rỗng không nhẫn đến bát Thánh đạo bát Thánh đạo tướng rỗng không; Phật thập lực thập lực tướng rỗng không nhẫn đến mười tám pháp bất cộng pháp bất cộng tướng rỗng không; quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm tướng rỗng không nhẫn đến Nhất thiết trí Nhất thiết trí tướng rỗng không”.

Bát nhã Ba la mật thậm thâm lấy không làm tướng; Bát Nhã lấy vô tướng, vô nguyện làm tướng; Bát Nhã lấy vô tác, vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tánh làm tướng; Bát Nhã lấy vô tự tánh, vô sở y, phi đoạn phi thường, phi nhất phi dị, vô lai vô khứ làm tướng; Bát Nhã lấy hư không làm tướng... (3). Các từ không, vô, bất, phi, chẳng phải… là những từ rỗng không, dẫn xuất từ Tánh Không Bát Nhã.

Bát Nhã là rỗng không, trong suốt, trong không, ngoài không, trong ngoài đều không cho đến vô tánh tự tánh cũng không, tất cả đều không, rốt ráo không... là tất cánh không, là đệ nhất nghĩa đế không, là tận không. Nên nói Bát Nhã trong suốt ngang đồng như hư không. Đó là tướng của Bát nhã Ba la mật. Vậy, ai có thể nắm bắt Bát Nhã? Nếu không thể nắm bắt được tướng, thì vô khởi vô tác. Không khởi không tác, tất cả đều vắng lặng nên nói là thanh tịnh.

 

Kết luận:

 

Đọc ĐBN tới đây có lẽ hành giả Bát Nhã không lấy gì làm ngạc nhiên khi Bát nhã Ba la mật ca tụng pháp tu thanh tịnh này. Phẩm “Khó Tin Hiểu”, phẩm “Khen Ngợi Thanh Tịnh” và phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã” khen tặng Bát nhã Ba la mật về thanh tịnh này không tiếc lời. Nhưng nhiều phẩm hay phần mà chúng ta sẽ tụng đọc tới, sẽ tiếp tục ca tụng không ngớt lời cái thanh tịnh này cho đến khi chấm dứt đại phẩm. Vì vậy, pháp tu thanh tịnh mới được xem là pháp tu vi diệu không những đối với Bát nhã Ba la mật mà cả trong tất cả các Tông phái Phật đạo khác nữa!

Để kết luận, phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã” quyển 296, Hội thứ I, ĐBN, nói rằng:

“Đối với Bát nhã Ba la mật này, nếu có khả năng tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng như thế, khiến dễ ngộ nhập thì gọi là tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; trong đó hoàn toàn không có người thuyết, người nghe, người chứng, quả để chứng; đã không có người thuyết, người nghe, người chứng… thì cũng không có phước điền quy định”.

Phẩm “Ba la mật” kế tiếp sẽ làm sáng tỏ thêm tướng Ba la mật.

Thích nghĩa cho phần chiết giải “Thuyết Tướng Bát Nhã”:

(1). Bát bất là “Tám phạm trù phủ định” của Ngài Long Thọ: Bất sinh-Bất diệt, Bất thường-Bất đoạn, Bất nhất-Bất dị, Bất khứ-Bất lai. Phủ định tất cả để đi đến Không trong Đại Trí Độ Luận.

(2). Phẩm này của quyển 301, Hội thứ I phải đặt tên là “Công Đức Khó Được Nghe”, không phải là “Công Đức Khó Nghe”, nghĩa là không phải bất kỳ ai cũng có thể nghe được Bát nhã Ba la mật, chỉ có những người có công đức phước duyên mới có thể nghe, không có phúc duyên thì khó “được” nghe. Vì vậy, Bồ Tát Thường Đề trong kinh này phải chẻ xương bán tủy mới được nghe Bát nhã Ba la mật.

(3). Phẩm “Vấn Tướng”, quyển thứ 16, MHBNBLMĐ do La Thập dịch./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 15921)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 9801)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 15492)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 16228)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 12938)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 12005)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 18186)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 14810)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 11440)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 11345)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]