Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Phẩm “Địa Ngục”

30/12/202020:19(Xem: 6340)
08. Phẩm “Địa Ngục”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-513

 


VIII. PHẨM “ĐỊA NGỤC”

Phần đầu quyển 559, Hội thứ V, ĐBN. Quyển thứ 559

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược: 

 

(Tánh cách tôn dẫn của Bát nhã Ba la mật)

 

Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tùy hỷ hồi hướng không điên đảo như thế là đều do nhờ uy lực của Bát nhã Ba la mật mà được thành tựu.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế thường chiếu sáng nên kính lễ, các pháp thế gian chẳng thể làm nhiễm ô được, có thể trừ tối tăm, có thể phát ánh sáng, có thể cho lợi ích an vui, có thể làm tôn dẫn, làm mắt sáng cho người mù, làm đuốc tuệ cho những người đi trong tăm tối, dẫn dắt kẻ lạc đường vào chính đạo, chỉ rõ tánh các pháp chính là Nhất thiết trí. Chỉ rõ tất cả pháp không sanh, không diệt, là mẹ của các đại Bồ Tát, có thể làm cho chư Phật vận chuyển bánh xe pháp Vô thượng đủ ba phen 12 hành tướng. Làm chỗ nương tựa cho người không nơi nương tựa, dứt trừ tất cả khổ não sanh tử, mở bày, chỉ dạy các pháp vô tánh là tự tánh.

Bạch Thế tôn! Các đại Bồ Tát làm cách nào để trụ Bát Nhã sâu xa?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Các đại Bồ Tát nên trụ Bát Nhã sâu xa như Phật trụ, nên kính thờ Bát nhã Ba la mật như kính thờ chư Phật Thế tôn.

Bấy giờ, trời Đế Thích nghĩ: Nay Xá lợi Tử do nhân duyên nào thưa hỏi Phật như vậy. Nghĩ xong hỏi Xá lợi Tử:

- Do nhân duyên nào mà tôn giả hỏi như thế?

Xá lợi Tử đáp:

- Phật Thế Tôn trước nói các Bồ Tát được Bát nhã Ba la mật sâu thẳm nhiếp thọ, nên sở khởi tùy hỷ hồi hướng cùng hành các việc phước nghiệp mau chứng được Nhất thiết trí trí, hơn Bồ Tát có sở đắc tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã tương ưng thiện căn, vậy nên tôi nay thưa hỏi như thế.

Kiều thi ca! Như hoặc trăm, hoặc ngàn những kẻ mù bẩm sinh, kẻ không có mắt sáng để làm phương tiện dẫn dắt thì gần còn không thể đi vào con đường chính, huống là có thể đến được thành lớn giàu sang ở xa. Như vậy, năm Ba la mật trước là các chúng mù lòa bẩm sinh, nếu không có mắt sáng của Bát nhã Ba la mật dẫn dắt thì không thể vào được chánh đạo của Bồ Tát, huống có thể vào được thành Nhất thiết trí.

Kiều thi ca! Bố thí, tịnh giới v.v... năm Ba la mật cần phải nhờ Bát nhã Ba la mật hộ trì mới được gọi là có mắt. Lại do được Bát nhã Ba la mật hộ trì nên mới gọi là đến bờ kia.

Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát làm sao dẫn phát Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Nếu các Bồ Tát chẳng dẫn phát sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức đây tức gọi là dẫn phát Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật thì thành tựu được pháp nào?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Nếu các Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật thì đối với tất cả pháp hoàn toàn không chỗ thành tựu, vì không thành tựu nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu thế thì Bát nhã Ba la mật chẳng thể thành tựu Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Kiều thi ca! Bát nhã Ba la mật như thế cũng chẳng thể thành tựu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Kiều thi ca! Vì có sở đắc, có danh tướng, có tạo lập thì chẳng thể thành tựu vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì làm sao nói Bát nhã Ba la mật thành tựu Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Kiều thi ca! Vì Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí trí không chỗ dẫn phát nên mới gọi là thành.

 Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất lạ! Bát nhã Ba la mật như thế vì chẳng làm tất cả pháp sanh diệt, vì chẳng làm tất cả pháp thành hoại, nên hiện ra thế gian mà cùng thế gian làm nhiêu ích.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ Tát phát sanh tưởng như thế thì xa lìa Bát Nhã chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Lại có nhân duyên xa lìa Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là sanh tưởng thế này: “Bát Nhã sâu xa là Không, là vô sở hữu, xác nhận như thế tức xa lìa Bát Nhã”. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát chẳng phải có, chẳng phải không, không có phân biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như thế Tôn thuyết Bát nhã Ba la mật là để hiển bày pháp nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta thuyết Bát nhã Ba la mật không vì hiển bày sắc; cũng không vì hiển bày thọ, tưởng, hành, thức. Không vì hiển bày quả Dự lưu; cũng không vì hiển bày quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa chính là Ba la mật rộng lớn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Do nhân duyên nào ông nói Bát nhã Ba la mật chính là Ba la mật rộng lớn?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đối với sắc không làm lớn, không làm nhỏ, không làm tụ, không làm tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức không làm lớn, không làm nhỏ, không làm tụ, không làm tán. Đối với mười lực của Phật không làm mạnh, không làm yếu. Đối với Nhất thiết trí không làm rộng, không làm hẹp, các Bồ Tát nào phát sanh tưởng như thế thì chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì các tưởng như thế chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát Nhã vậy. Bát Nhã sâu xa nếu phát sanh tưởng như thế thì con sẽ độ thoát vô số hữu tình nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết bàn; như thế gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải có sở đắc là có thể có sự thành tựu. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình không sanh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không sanh. Vì hữu tình không tự tánh, xa lìa, không thể nghĩ bàn, không hoại diệt, không giác tri, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không tự tánh, nói đủ cho đến cũng không giác tri. (Q.559, ĐBN)

Bạch Thế tôn! Vì năng lực hữu tình chứa nhóm nên biết năng lực Như Lai cũng chứa nhóm.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát có thể tin hiểu Bát Nhã sâu xa, không nghi, không ngờ, cũng chẳng mê lầm thì các Bồ Tát này chết từ chỗ nào sanh đến đây? Chứa bao nhiêu hạnh nguyện để đối với pháp nghĩa sâu xa có thể hiểu rõ?

Phật dạy Xá lợi Tử:

- Các Bồ Tát này từ phương khác đã phụng thờ pháp của chư Phật, từ trong pháp hội đó sinh đến nơi này.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát này đã gần gũi nhiều chư Phật Thế tôn, trong đó từng nghe nghĩa pháp sâu xa, rồi trải qua vô lượng, vô số đại kiếp tu tập trăm ngàn hạnh khổ khó hành, nương đại nguyện lực sanh đến cõi này, đối với Bát Nhã sâu xa hoặc thấy, hoặc nghe hết sức vui mừng và nghĩ: Ta được thấy Phật, được nghe Phật giảng dạy, do nhân duyên này cung kính tin nhận.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa có thể thấy nghe được ư?

Phật dạy:

- Chẳng phải vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát nào thường siêng năng tu học Bát Nhã sâu xa thì các Bồ Tát ấy chứa nhóm bao lâu?

Phật dạy Thiện Hiện:

- Điều này cần nên phân biệt: Có các Bồ Tát từ khi mới phát tâm gặp được bạn lành chơn thật, phương tiện giúp đỡ thì có thể tu học Bát Nhã sâu xa, có thể tin hiểu pháp môn sâu xa. Còn các Bồ Tát mặc dù từng gặp nhiều trăm ngàn Phật, ở chỗ chư Phật siêng tu phạm hạnh, nhưng có sở đắc làm phương tiện nên chẳng thể tu học Bát Nhã sâu xa được, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật chẳng sinh tin hiểu, liền bỏ đi.

 

(Tội hủy bán chánh pháp)

 

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ Tát này ở chỗ Phật quá khứ, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật không có tâm kính tin, nên bỏ đi, nay nghe thuyết Bát nhã Ba la mật không có tâm kính tin lại bỏ đi nữa. Người đó đối với Bát nhã Ba la mật hoặc thân, hoặc tâm đều không hòa hợp. Vì không hòa hợp nên tăng trưởng tạo tác chiêu cảm nghiệp xấu. Do nghiệp này nên nghe Bát Nhã sâu xa hủy báng, nhàm chán, bỏ lìa.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ Tát nào hủy báng, nhàm chán, xa lìa Bát Nhã sâu xa, thì nên biết đó chính là hủy báng, nhàm chán, xa lìa Nhất thiết trí trí. Nếu người nào hủy báng, nhàm chán, xa lìa Nhất thiết trí trí, thì chính là hủy báng, nhàm chán, xa lìa chư Phật ba đời. Do nhân duyên này tăng trưởng tạo tác tội hoại chánh pháp. Do tội này nên phải trải qua nhiều đời chịu các khổ rất nặng. Nghĩa là người đó tạo tội rất nặng nên nhiều trăm ngàn năm đọa địa ngục lớn cõi này phương khác, luân hồi qua lại chịu các khổ rất nặng, không được thoát khỏi. Khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong cõi này nổi lên thì chuyển dời vào trong địa ngục lớn ở phương khác. Khi kiếp hỏa, thủy, phong ở phương khác nổi lên thì bị đài vào các địa ngục lớn cõi khác nữa. Xoay chuyển như vậy trải qua vô số kiếp, chịu khổ khóc liệt trong địa ngục lớn. Tội hủy hoại chánh pháp của người kia, thế lực của nghiệp yếu dần, từ địa ngục ra đọa trong loài súc sanh. Lần lượt từ cõi này sang phương khác như trước, luân hồi nhiều kiếp chịu các khổ kịch liệt. Tội của người kia hoại pháp thế lực mỏng dần, thoát khỏi nẻo súc sanh, đọa trong kiếp quỉ, lần lượt luân hồi cõi này phương khác chịu các khổ rất nặng, trải vô lượng kiếp.

Nghiệp hoại pháp của người kia, thế lực còn lại sắp hết, thoát khỏi kiếp quỉ, sanh đến loài người, chịu đủ tất cả các khổ nhân gian như là bần cùng, hèn hạ, ngu si, tật bệnh, xấu xí v.v... tên Phật, Pháp, Tăng còn chẳng thể được nghe huống là có thể tinh tấn siêng năng tu các nghiệp lành. Do các nghiệp ác phá hoại chánh pháp nên phải chịu đầy đủ loại quả khổ như thế.

Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghiệp hủy hoại chánh pháp cùng với năm tội vô gián, hai nghiệp ác này là giống nhau không?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Chớ cho nghiệp này giống năm tội vô gián. Vì sao? Vì nghiệp của tội vô gián mặc dù chiêu cảm khổ rất nặng nhưng chẳng thể so sánh với nghiệp hủy báng chánh pháp. Nghĩa là người kia nghe thuyết Bát Nhã, hủy báng chống đối Bát nhã Ba la mật cho rằng chẳng phải là chơn thật lời Phật dạy, chẳng phải pháp, chẳng phải luật, chẳng phải lời dạy của bậc đại sư nên không tu học. Do nhân duyên này tội của người đó rất nặng, chẳng thể đem so sánh với nghiệp của năm tội vô gián.

Xá lợi Tử! Người hoại pháp, tự mình hủy báng chánh pháp, cũng dạy người hủy báng. Tự phá hoại thân mình, cũng làm hư hoại thân người khác. Tự mình uống thuốc độc, cũng bảo người khác uống thuốc độc. Tự mình mất quả vui sanh cõi trời giải thoát, cũng làm cho người khác mất quả vui sanh trời giải thoát. Tự dẫn mình bước vào địa ngục lửa, cũng làm cho người bước vào. Tự mình chìm trong biển khổ, cũng làm cho người khác chìm. Tự mình không tin hiểu Bát Nhã sâu xa, cũng dạy người khác làm cho không tin hiểu, mê lầm điên đảo.

Xá lợi Tử! Ta chẳng muốn để cho kẻ hoại chánh pháp nghe được tên Bát nhã Ba la mật huống là giảng thuyết cho họ.

Xá lợi Tử! Kẻ hoại chánh pháp, Ta còn chẳng cho các thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa nhìn thấy, huống là sẽ cùng ở chung.

Xá lợi Tử! Kẻ hoại chánh pháp, Ta còn chẳng cho mặc áo Cà sa, huống là thọ nhận sự cúng dường. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì kẻ hoại chánh pháp đọa trong loài đen tối như phân thối nát, như con ốc sên nhơ nhớp, như người bệnh hủi quá nhờm gớm. Những người tin dùng lời của kẻ hoại pháp, cũng bị khổ lớn như trước đã nói.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao chẳng nói kẻ hoại Chánh pháp đời sau bị thọ thân lượng ác thú?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Thôi, chẳng cần nói số lượng thân nẻo kia, e người hoại chánh pháp nghe xong kinh hoàng, tâm buồn rầu như trúng tên độc, thân khô héo dần như mạ bị cắt đứt gốc. Người kia nếu nghe được sẽ ói máu nóng chết mất, hoặc đau khổ gần chết. Nên Ta chẳng nói số lượng thân ở nẻo kia.

Xá lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn nói để răn dạy cho đời sau.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Ta trước đã nói kẻ kia nhiều kiếp chịu khổ, đủ làm lời răn dạy rất rõ ràng cho người đời sau. Đời sau chính hạng thiện nam, thiện nữ nghe Ta trước đã nói quả báo về hoại chánh pháp, thà xả bỏ thân mạng, nhất định chẳng hủy báng pháp, chớ để cho đời sau chịu khổ lâu dài.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có các thiên nam thiện nữ thông minh nên khéo giữ hộ nghiệp thân ngữ ý. Họ chẳng do ác nghiệp kia mà bị đọa trong loài ác thú chịu khổ lâu dài?

Phật dạy Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Trong chánh pháp Tỳ nại da của Ta sẽ có các kẻ ngu si xuất gia. Kẻ đó mặc dù tôn xưng Ta là đại sư của họ, nhưng hủy báng chống đối Bát Nhã sâu xa của Ta giảng thuyết.

Thiện Hiện nên biết! Nếu người hủy báng Bát Nhã sâu xa, thì chính là hủy báng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu người hủy báng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì chính là hủy báng chư Phật ba đời. Nếu người hủy báng chư Phật ba đời, thì chính là hủy báng Nhất thiết trí trí. Nếu người hủy báng Nhất thiết trí trí, thì chính là hủy báng Pháp. Nếu hủy báng Pháp, thì chính là hủy báng Tăng. Nếu hủy báng Tăng, thì tạo tác vô lượng nghiệp báo. Nếu người tạo vô lượng nghiệp báo, thì chịu vô biên khổ báo.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Kẻ ngu si kia vì duyên cớ gì nên mới hủy báng chống đối Bát Nhã?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Do 2 nhân duyên: 1. là bị tà ma làm mê hoặc, 2. là chẳng thể tin hiểu pháp sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Do 4 nhân duyên nên hủy báng chống đối Bát Nhã sâu xa: 1. là bị bạn ác dối gạt, 2. là chẳng thể siêng năng tu thiện pháp, 3. là ôm ấp tâm xấu, ưa tìm lỗi của người khác và 4. là ganh ghét, khen mình chê người. Do đủ các nhân duyên này nên người ngu si kia hủy báng chống đối Bát Nhã, phát khởi vô biên nghiệp ác rất nặng.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người ngu si kia chẳng siêng năng tinh tấn nên thật khó tin hiểu Bát Nhã sâu xa Phật đã thuyết?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

 

(Tất cả pháp không buộc không mở)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế vì lẽ gì rất sâu xa, rất khó tin hiểu?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc lấy vô tánh làm tự tánh. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức đều lấy vô tánh làm tự tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì sắc ngằn trước, giữa, sau chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc ngằn trước sau giữa đều lấy vô tánh làm tự tánh vậy. Thọ tưởng hành thức ngằn trước sau giữa chẳng buộc chẳng mở. Vì sao? Vì thọ tưởng hành thức ngằn trước sau giữa đều lấy vô tánh làm tự tánh vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa nếu chẳng tinh tấn thì rất khó tin hiểu?

 

(Thế nào là thanh tịnh?)

 

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Vì sắc thanh tịnh tức là quả thanh tịnh; sắc thanh tịnh nên quả cũng thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là quả thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên quả cũng thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh tức là Nhất thiết trí thanh tịnh; Nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc cũng thanh tịnh. Sự thanh tịnh của sắc này cùng với sự thanh tịnh của Nhất thiết trí từ xưa đến nay không hai, không khác, không đoạn diệt, không hư hoại. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là Nhất thiết trí thanh tịnh; Nhất thiết trí thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh. Sự thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức cùng sự thanh tịnh của Nhất thiết trí từ xưa đến nay không hai, không khác, không đoạn diệt, không hư hoại. (Q.559, ĐBN)

 

Sơ giải: 

 

Phẩm này nêu lên 4 vấn đề:

1. Tánh cách tôn dẫn của Bát nhã Ba la mật. Kinh bảo: Như hoặc trăm, hoặc ngàn những kẻ mù bẩm sinh, kẻ không có mắt sáng để làm phương tiện dẫn dắt thì gần còn không thể đi vào con đường chính, huống là có thể đến được thành lớn giàu sang ở xa. Như vậy, năm Ba la mật trước là các chúng mù lòa bẩm sinh, nếu không có mắt sáng của Bát nhã Ba la mật dẫn dắt thì không thể vào được chánh đạo của Bồ Tát, huống có thể vào được thành Nhất thiết trí. 

Không có Bát nhã Ba la mật dẫn đầu thì các Ba la mật khác không thể đến bờ kia. Nên nói Bát nhã Ba la mật giống như người sáng mắt trong số những người mù bẩm sinh, nếu không có Bát nhã Ba la mật dẫn đầu thì không thể đến được chánh đạo Nhất thiết trí trí.

 

2. Tội phỉ báng Bát nhã Ba la mật, nên bị đọa vào địa ngục: Vì thiếu hiểu biết, tâm nhiều sân hận, lại tôn thờ bạn ác, thiếu chánh kiến, nên sanh ra hủy báng Bát Nhã. Hủy báng Bát Nhã là hủy báng chư Phật ba đời, hủy báng Nhất thiết trí trí. Do nhân duyên này tăng trưởng tạo tác tội hoại chánh pháp. Do tội này nên phải trải qua nhiều đời chịu các khổ rất nặng. Nghĩa là người đó tạo tội rất nặng nên nhiều trăm ngàn năm đọa địa ngục lớn cõi này phương khác, luân hồi qua lại chịu các khổ rất nặng, không được thoát khỏi. Khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong cõi này nổi lên thì chuyển dời vào trong địa ngục lớn ở phương khác. Khi kiếp hỏa, thủy, phong ở phương khác nổi lên thì bị đài vào các địa ngục lớn cõi khác nữa. Xoay chuyển như vậy trải qua vô số kiếp, chịu khổ khóc liệt trong địa ngục lớn”.

Đến khi tội hủy báng chánh pháp do nghiệp lực yếu dần mới được đầu thai làm kiếp quỷ, lần lượt luân hồi cõi này phương khác chịu các khổ nặng nề, trải vô lượng kiếp. Khi nghiệp lực yếu dần kẻ hủy báng chánh pháp lại đầu thai trong loài súc sanh. Lần lượt từ cõi này sang phương khác như trước, luân hồi nhiều kiếp chịu các khổ kịch liệt, cho đến khi nghiệp chống chánh pháp hủy báng Bát Nhã mỏng dần mới được sanh vào kiếp người. Dù được làm người nhưng bị mù lòa căm điết, các căn khiếm khuyết lại bị bệnh tật ngặt nghèo…bị đời ruồng bỏ khinh khi trong nhiều đời kiếp.

Tội hủy báng Bát Nhã còn hơn năm tội vô gián. Phải biết như vậy để tự răn đe: Thà xả bỏ thân mạng, nhất định chẳng hủy báng pháp chánh pháp, để cho đời sau phải chịu khổ lâu dài.

 

3. Các pháp không buộc không mở. Phật bảo Thiện Hiện:

“Sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc lấy vô tánh làm tự tánh. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức đều lấy vô tánh làm tự tánh”.

Lấy vô tánh làm tự tánh là một cách nói của không, rỗng không, chẳng có gì để nương nhờ nắm bắt trong cái rỗng không này. Tất cả đều do phân biệt chấp đắm. Có phân biệt chắp đắm là có nương vịn có thủ tâm chấp tướng. Tất cả đều do tham ái thức vọng gây nên…Vì vậy, mới có buộc có mở trong ba cõi sáu đường chẳng khác nào cá chậu chim lồng, bay nhảy lặn hụp lăn xăng mà không thoát khỏi chậu, khỏi lồng đáng thương thay.

 

4. Thanh tịnh. Kinh thuyết rằng:

Vì sắc thanh tịnh tức là quả thanh tịnh; sắc thanh tịnh nên quả cũng thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là quả thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên quả cũng thanh tịnh.

(…) Sắc thanh tịnh tức là Nhất thiết trí thanh tịnh; Nhất thiết trí thanh tịnh nên sắc cũng thanh tịnh. Sự thanh tịnh của sắc này cùng với sự thanh tịnh của Nhất thiết trí từ xưa đến nay không hai, không khác, không đoạn diệt, không hư hoại. v.v…”

 Trong phẩm “Khó Tin Hiểu”, Kinh lấy một pháp trong 81 khoa danh tướng Bát Nhã (hay còn gọi là các mầu Phật đạo) làm nhân chính thuyết từng pháp từng pháp một lần lượt cho đến hết 81 khoa danh tướng Bát Nhã. Cứ một pháp thanh tịnh thì lôi cuốn các pháp khác cùng thanh tịnh như nhau. Phẩm “Khó Tin Hiểu” của Hội thứ I, ĐBN, là một phẩm dài nhất trong tất cả các phẩm thuộc 16 pháp hội. Phẩm này bắt đầu từ quyển 182 đến quyển 284, tổng cộng 103 quyển, hơn 1.075 trang đánh máy khổ lớn (letter size). Toàn phẩm này thuyết về “thanh tịnh”, trong khi cuối phẩm “Địa Ngục” cũng thuyết về thanh tịnh chưa đầy một trang sách. Mời Quý vị đọc tiếp phẩm kế cũng thuyết thanh tịnh.

Bốn đề mục lược giải trên đã được thuyết đi thuyết lại nhiều lần trong bốn Hội đầu. Đến đây ai cũng có thể hiểu không cần lặp lại nữa./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 12146)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
26/06/2021(Xem: 8249)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
26/06/2021(Xem: 12301)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
19/06/2021(Xem: 12696)
MỤC LỤC Lời đầu sách 2 TÌM HIỂU GIÁO LÝ PHẬT GIÁO 9 ĐỨC PHẬT 12 GIÁO PHÁP 36 TĂNG ĐOÀN 119 PHÁI TỲ NI ĐA LƯU CHI. 136 PHÁI VÔ NGÔN THÔNG.. 137 PHÁI THẢO ĐƯỜNG.. 139 HIẾN CHƯƠNG CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. 154 TIỂU SỬ ĐỨC TĂNG THỐNG GHPGVNTN.. 165 TIỂU SỬ CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA.. 177
19/06/2021(Xem: 11294)
Mục Lục - Lời vào sách 4-13 CHƯƠNG MỘT 14-35 Sự hình thành của Giáo Hội Phật Giáo VNTN CHƯƠNG HAI 36-102 Bản nội quy của Giáo Hội PGVNTN Âu Châu và thành phần Ban Điều hành của Giáo Hội CHƯƠNG BA 103-167 Giải đáp những thắc mắc CHƯƠNG BỐN 168-294 Khóa Giáo Lý Âu Châu Kỳ 9 Kinh Hoa Nghiêm Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 LỜI KẾT 295-299 HÌNH ẢNH 300-344
18/06/2021(Xem: 9512)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
16/06/2021(Xem: 13135)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
12/06/2021(Xem: 11596)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
12/06/2021(Xem: 9138)
LỜI GIỚI THIỆU Trong sách quốc văn giáo khoa thư ngày trước đã kể mẫu chuyện như sau: Có một người đi du lịch nhiều nơi. Khi trở về nhà, kẻ quen người lạ, hàng xóm láng giềng đến thăm, hỏi rằng: - Ông đi du lịch nhiều nơi, vậy nơi nào theo ông đẹp hơn cả? Người kia không ngần ngại đáp ngay: - Chỉ có quê hương tôi là đẹp hơn cả! Mọi người không khỏi ngạc nhiên, nhưng càng ngạc nhiên mà càng suy gẫm thì mới thấy có lý. Ai đã du lịch nhiều nơi, ai đã sống lang thang phiêu bạt ở nước ngoài mới có dịp cảm thấy thấm thía "quê hương tôi là đẹp hơn cả", đẹp từ cọng rau, tấc đất, đẹp với những kỷ niệm vui buồn, đẹp cho tình người chưa trọn, đẹp vì nghĩa đạo phải hy sinh…
11/06/2021(Xem: 9054)
LỜI ĐẦU SÁCH Giáo pháp của Đức Phật đã được truyền đến khắp năm châu bốn bể và tại mỗi địa phương ngày nay, giáo lý ấy được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm phổ biến đến những người tin Phật có cơ hội hiểu rõ và đúng với chân tinh thần của đạo Phật. Đức Phật vẫn luôn dạy đệ tử của Ngài rằng: “Các ngươi tin ta phải hiểu ta, nếu tin mà không hiểu ta, tức hủy báng ta vậy”. Lời dạy ấy rất sâu sắc và có giá trị muôn đời cho những ai tìm đến giáo lý đạo Phật. Một hệ thống giáo lý rất sáng ngời trong tình thương, trí tuệ và giải thoát. Giáo lý đạo Phật là chất liệu dưỡng sinh trong cuộc sống tinh thần của người Phật tử. Vì thế, trước khi tin vào giáo lý, thiết tưởng cần phải hiểu rõ giáo lý ấy có thể giúp ta được những gì. Nếu không hoặc chưa rõ mục đích, chúng ta có quyền chưa tin và cũng không nên tin vội. Dầu lời dạy ấy là của những người thông thái, của các vị Thiên Thần hay ngay cả của chính đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567