(Tương đương với quyển thứ 13, phẩm “Thán Tịnh”, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế rất là thẳm sâu? Phật nói: Như vậy, vì rốt ráo tịnh vậy.
Xá lợi Tử nói: Pháp nào rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu? Phật nói: Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu; thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Mười hai xứ rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Mười tám giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Địa giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu; thủy hỏa phong không thức giới (ngũ đại chủng) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Vô minh hành, thức, danh, sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não (thập nhị nhân duyên) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mậtrốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không (18 pháp không) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới (thập nhị chân như) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Khổ Thánh đế, tập diệt đạo Thánh đế (tứ đế) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi (37 pháp trợ đạo) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn (tam giải thoát môn) rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. (Q.285, ĐBN)
Xá Lợi Tử! Bồ Tát thập địa rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Năm nhãn, sáu thần thông rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tất cả Đà la ni môn, tất cả Tam ma địa môn rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu. (Nghĩa là tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh,nên nói thanh tịnh đấy rất là thẳm sâu).
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như vậy rất trong sáng(1).Vì 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Ngũ đại chủng, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá lợi Tử! Thập nhị chân như, Tứ đế, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá Lợi Tử! Bồ Tát thập địa, Năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ Đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói thanh tịnh đấy rất trong sáng.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như vậy không chuyển, không nối. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Ngũ đại chủng, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Xá Lợi Tử! Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn, năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy không chuyển, không nối.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế vốn không tạp nhiễm. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngũ đại, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không,Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo,bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí rốt ráo tịnh nên nói sự thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm.Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai... cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy vốn không tạp nhiễm.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế bản tánh thanh khiết. Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngũ đại, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không,Thập nhị chân như, tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo,bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy bản tánh thanh khiết. Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu, quả Nhất lai... cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rốt ráo tịnh, nên nói sự thanh tịnh ấy bản tánh thanh khiết.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế vô đắc, vô quán. Sự thanh tịnh như vậy không sanh khởi, không hiển hiện. Sự thanh tịnh như thế không sanh cõi Dục, cõi Sắc, hay vô Sắc vì tự tánh các cõi kia không thể nắm bắt được.
Xá Lợi Tử! Sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri,vì tất cả pháp bản tánh trì độn, nên sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri.
Tánh của sắc vô tri tức là thanh tịnh. Tánh của thọ, tưởng, hành, thức, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc… tất cả các thiện pháp vô tri tức là thanh tịnh. Vì tự tướng là khôngnên tánh của chúng vô tri tức là thanh tịnh.
Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí không ích, không tổn. Như vậy là rốt ráo tịnh. Vì pháp giới thường trú nên Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí không ích, không tổn.
Xá Lợi Tử! Vô nhị thanh tịnh nên vô đắc, vô quán. Vì không nhiễm không tịnh (tức không phải nhị pháp) nên rốt ráo tịnh.
Xá Lợi Tử! Vì ngã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì ngã vô sở hữu nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu là rốt ráo tịnh. Mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định, tứ đế, thập nhị nhân duyên, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết trí trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng vô sở hữu nên rốt ráo tịnh.
Ngã thanh tịnh nên Nhất thiết trí thanh tịnh. Vì ngã vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri nên Nhất thiết trí vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri là rốt ráo tịnh.
Ngã không biên giới nên sắc thọ, tưởng, hành, thức không biên giới. Mười hai xứ, mười tám giới… tất cả các thiện pháp không biên giới. Vì rốt ráo là không, không biên giới cũng không nên rốt ráo tịnh.
Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát có khả năng hiểu biết như vậy thì đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Vì rốt ráo là không, không biên giới là không, tức thành đạo tướng trí.
Bồ Tát tu hành Bát Nhã mà không trụ bờ này, không trụ bờ kia, không trụ giữa dòng thì đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật.Vì pháp tánh ba đời, bình đẳng, tức là thành đạo tướng trí.
Phẩm “Khó Tin Hiểu” vừa tụng trên, dài 103 quyển hơn 1.075 trang sách đánh máy cở lớn đã nói quá nhiều về thanh tịnh này rồi. Ở đây chỉ giải thích thêm thế nào là thanh tịnh và phẩm kế tiếp nữa là “Thuyết Tướng Bát Nhã” lại thuyết về thanh tịnh. Vì vậy, chúng tôi nói không những pháp môn thanh tịnh là pháp môn quan trọng trong việc tu tập Bát Nhã mà còn là pháp môn quan trọng trong việc tu Phật đối với tất cả các tông phái. Không có thanh tịnh không có đạo Phật. Vì vậy, thanh tịnh mới được xem là thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn, trí ấn của chư Như Lai. Nên nhiều chỗ chúng tôinói đạo Phật là Thanh-Tịnh-Đạo. Tất cả pháp tu rốt ráo cũng đưa đến chỗ này. Nếu hiểu biết như vậy mà tu hành thì có thể tháo gỡ tất cả mọi hệ lụy thế gian, không phải chạy đầu kia tìm kiếm nữa!
Thích nghĩa:
(1). HT Thích Trí Nghiêm dịch là minh liễu.
Lược giải:
1. Khen tịnh:
Sự thanh tịnh rất sâu xa, rất trong sáng, không chuyển không nối, vốn không tạp nhiễm, bản tánh thanh khiết. Sự thanh tịnh như thế vô đắc, vô quán. Sự thanh tịnh như vậy không sanh khởi, không hiển hiện. Sự thanh tịnh như thế bản tánh vô tri. Vì sao? Vì tất cả pháp vô tri, trì độn, nên chúng trơ lì ra đó. Các pháp không tự biết nó, các pháp cũng không biết các pháp khác, tự tướng rỗng không, nếu có thấy biết như vậy thì tâm được thanh tịnh.
Biết hay không là ở con người. Để phân biệt pháp này với pháp nọ, nên đặt tên cho nó. Từ khi có tên, có danh sắc, thì nó không còn là nó nữa. Bây giờ, nó trở thành lớn nhỏ, vuông tròn, đẹp xấu... Đó là lỗi của con người người, không phải ở pháp. Hãy trả lại cái bản nguyên của thuở ban đầu cho chính nó thì đâu đâu cũng toàn một màu xanh thanh tịnh như nhau.
2. Thế nào gọi là rốt ráo tịnh?
Ta có thể lấy cuộc đối thoại giữa Phật và Tu Bồ Đề ở phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã” quyển 293, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Di Lặc Bồ Tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng những pháp nào? Và nói những pháp nào?
Phật nói: “Thiện Hiện! Di Lặc Bồ Tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng pháp sắc rốt ráo tịnh, nói pháp sắc rốt ráo tịnh. Chứng pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nói pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh, nói pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập bát giới rốt ráo tịnh, nói pháp thập bát giới rốt ráo tịnh. Chứng tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh, nói tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh”.
Rốt ráo tịnh có nghĩa là đối với uẩn xứ giới và tất cả pháp “tâm như như bất động”. Tâm như như bất động là đối với trần cảnh không có sở đắc, không cảm thọ, không trụ, không chấp. Có trụ, có chấp... là có dính mắc, có trói buộc là có phiền não. Khi tâm không còn phân biệt, vô sở đắc, vô sở trụ... đó là tâm không hay còn gọi là vô tri, vô thức, vô niệm, vô tâm. Bát nhã Ba la mật còn gọi là Tánh Không, chủ trương tâm không tức dùng diệu quán “vô sở đắc”, diệu huệ “vô sở trụ” làm phương tiện để sanh tâm thanh tịnh. Mục đích là quét sạch tất cả những dây mơ rễ má, những thói quen, tập tục còn vướng bận trong tâm thức để con người được rỗng rang tự tại.
Khi đạt đến trình độ nầy thì tâm thể hoàn toàn vắng lặng. Lúc đó không có nghĩa là người tu biến thành gỗ đá. Thiền sư Khuê Phong tức tôn giả Tông Mật nói: “Tâm có lặng thì linh chi mới mở”. Khi tâm thể tuyệt đối vắng lặng, người ta tin tưởng là huệ (trí Bát Nhã trong sạch, nhiệm mầu) xuất hiện, một thứ ánh sáng vi diệu phát chiếu sau cái “trống không” đó.
Vì vậy, Ngũ đạo pháp môn của Kinh Đại thừa Bắc Thiền nói rằng:
1- Phật giác ngộ và giác ngộ là không móng tâm.
2- Khi tâm bất động, các giác quan yên lặng và trong trạng thái tĩnh lặng đó cánh cửa trí tuệ vô thượng sẽ hé mở.
3- Trí tuệ vô thượng khai mở dẫn đến khai phóng một cách vi diệu thân và tâm. Tuy nhiên đây không phải là Niết bàn tịch tĩnh của Tiểu thừa, bởi vì trí tuệ vô thượng do chư Bồ Tát chứng đắc đòi hỏi các cảm thức tuy có hoạt động nhưng không dính mắc.
4- Tính hoạt động không dính mắc nầy nghĩa là không kẹt vào nhị nguyên đối đãi giữa thân và tâm, nơi đó hội được thật tướng các pháp.
5- Rốt cuộc đây là con đường của Nhất tính, dẫn đến giới sự của Như thị không ngăn ngại, không sai biệt. Đó là giác ngộ.(1)
Nên, kinh nói: “Ngã không biên giới nên sắc thọ, tưởng, hành, thức không biên giới. 12 xứ, 18 giới… tất cả các thiện pháp không biên giới. Vì rốt ráo là không, không biên giới cũng không nên rốt ráo tịnh.
(...) Nếu đại Bồ Tát có khả năng hiểu biết như vậy thì gọi đó là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Vì rốt ráo là không, không biên giới là không, tức thành đạo tướng trí”.
Nhưng đó chỉ là những diễn tảcó tính cách khuôn sáo. Nói một cách đơn giản và ngắn gọn hơn như Huyền Sa “Bản nhiên thanh tịnh tức là cái tịch lặng an nhiên trong hiện tại”. Vậy, thanh tịnh ngoài sắc trần không nhiễm ô, không sanh diệt, không trụ chấp, không trói buộc, không dính mắc… còn có một ý nghĩa tuyệt đối là chân, một siêu thức được coi là trí tuệ vô thượng phát chiếu.
Tới đây không còn phân biệt, chấp trước nữa. Mọi hiện hữu bây giờ được phơi bày “như thị”, tất cả tánh tướng thể dụng đều bình đẳng, và cái bình đẳng đó chính là cái tịch lặng an nhiên trong cuộc sống hiên tại. Bình đẳng đó Bát Nhã gọi là thanh tịnh và người đạt được thanh tịnh cũng chính là Như Lai. Vì Như Lai là giải thoát, Như Lai là Niết bàn. Giải thoát và Niết bàn cũng gọi tịch tĩnh, cái tịch lặng an nhiên. Tất cả các từ đó đều ẩn dụ về cái thanh tịnh này!
Kết luận:
Tu hành là gì nếu không phải là luyện tâm, luyện trí? Luyện tâm là kỹ thuật hành trì để đưa tâm thể đạt đến chỗ an nhiên tịch lặng: Giới là hàng rào ngăn chận tội lỗi từ ngoài vào, nếu giữ được giới thì tâm được thanh tịnh; Định là ngăn chận những dao động bên trong tức gạt bỏ vọng niệm, tâm sẽ như như bất động. Tới đó thì linh chi sẽ mở, linh chi tức là Huệ, một khi Huệ khai mở thì chứng đạo, được giải thoát hay đạt Niết bàn! Tam vô lậu học đó chính là kỹ thuật luyện tâm luyện trí tối cao của Phật đạo từ khi nó mới khai sáng, ngoài kỹ thuật đó không còn kỹ thuật nào khác!
Thích nghĩa cho phần lược giải phẩm “Khen Ngợi Thanh Tịnh”:
(1). Trích trong tác phẩm “Vô Niệm” của Thiền sư D.T. Suzuki do Thuần Bạch dịch./.
LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
- Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Thứ tự Kinh văn số 1648. Hán văn từ trang 399 đến trang 461 gồm có 12 quyển.
- Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa) còn gọi là Đại Quang tạo luận nầy và vào đời nhà Lương được Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala) nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.
- Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân lần nhập thất thứ ba tại đây. Bắt đầu dịch luận nầy vào ngày 10 tháng 12 năm 2005.
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
LỜI NÓI ĐẦU
Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68.
Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc."
Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH
Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT
Biên tập viên: PETER HARVEY
BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT
Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ
Dịch giả tiếng Việt:
Thích Viên Minh (chương 11, 12)
Thích Đồng Đắc (chương 1, 2)
Thích Thanh Lương (chương 8)
Thích Ngộ Trí Đức (chương 7)
Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4)
Thích Nữ Diệu Như (chương 9)
Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10)
Lại Viết Thắng (phụ lục)
Võ Thị Thúy Vy (chương 5)
MỤC LỤC
Bảng viết tắt
Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp
Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập
Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Giới thiệu dẫn nhập
Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử
Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh
Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ
Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa
Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa
PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
Kính bạch chư Tôn Đức,
Thưa chư Pháp hữu,
nhân mùa Phật Đản PL 2565, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc có ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề Chuyển hóa Khổ đau để chào mừng ngày Đản Sanh của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2645. Đặc San năm nay (lần thứ ba) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 3 họa sĩ trong và ngoài nước.
Chúng tôi kính gởi đến quý Trang Nhà để nhờ phổ biến rộng rãi đến mọi độc giả gần xa.
Độc giả muốn mua sách in có thể đặt trực tiếp trên mạng toàn cầu Amazon:
https://www.amazon.de/gp/product/1716272939/ref=dbs_a_def_rwt_bibl_vppi_i7
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính Mail
Nhóm Chủ Biên
Phù Vân - Nguyên Đạo - Nguyên Minh
Phật Điển Phổ Thông
DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT
Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha.
Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU).
Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ
Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình.
Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018.
Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa Trung Hoa, tại Mỹ Quốc, tìm xin một số sách Phật đem về đọc để giải trí trong lúc tuổi già (đã 94 tuổi), hai người trong chùa mang ra cho tôi một thùng giấy cho tôi chọn lựa, họ nói đây là những sách cho không ông cứ tự nhiên, trong khi tìm kiếm, bổng nhiên tôi gặp một quyển sách nhan đề là Phật Giáo Dữ Nhân Sanh, liền mở ra đọc tổng quát tại chỗ về mục lục và lướt qua tiểu sử của tác giả liền tò mò xin về đọc.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.